1. Nữ tu 87 tuổi bắt và khống chế tên trộm trong tu viện của mình
Nữ tu lớn tuổi một mình đối mặt với một tên trộm được cho là đang cố ăn trộm của hai nữ tu. Một nữ tu 87 tuổi là nhân vật chính của một sự kiện bất thường mà tạ ơn Chúa đã kết thúc tốt đẹp.
Như nhật báo La Razón của Tây Ban Nha đã đưa tin vào ngày 20 tháng 10 vừa qua, một nữ tu thuộc tu viện Santa Clara ở khu vực cổ kính của thành phố Palencia, Tây Ban Nha, đã can đảm đối mặt với một tên trộm được cho là đang cố ăn trộm từ tu viện.
Khoảng 6:20 chiều, nữ tu nhận thấy rằng một phụ nữ đã vào tu viện. Rõ ràng, cô ta đã vào tòa nhà qua cửa quay của tu viện và đang cố ăn trộm, lợi dụng lúc các nữ tu đang cầu nguyện trong nhà nguyện.
Mặc dù đã 87 tuổi, nhưng nữ tu đã đối đầu với người phụ nữ và thậm chí vật lộn với cô ta. Vị nữ tu đã kiềm chế được người phụ nữ cho đến khi cảnh sát đến. Các nhân viên cảnh sát, khi đến nơi và nhìn thấy những gì đã xảy ra, đã rất ngạc nhiên trước sự táo bạo của một nữ tu lớn tuổi dũng cảm, người không ngại đối đầu với ai đó để ngăn họ ăn trộm của tu viện.
Điều cuối cùng mà người phụ nữ 45 tuổi không mong đợi là sự phản kháng và kết cục như thế này. Cô bị cảnh sát bắt và đưa đến phòng giam của Sở cảnh sát tỉnh Palencia, để đưa ra tòa.
Nữ tu được chăm sóc bởi các dịch vụ y tế đến tu viện, mặc dù cô được phát hiện là hoàn toàn không hề hấn gì.
Các vụ trộm trước đó.
Rõ ràng, đây không phải là lần đầu tiên người phụ nữ cố gắng ăn trộm từ tu viện Santa Clara ở Palencia, một tòa nhà kiểu Gothic thế kỷ 15 hoành tráng. Các nữ tu báo cáo rằng một thời gian trước họ đã bắt được cô ấy đang trốn khỏi nơi này, sau khi họ nhận ra rằng tiền đã bị mất trong tu viện. Tuy nhiên, vào thời điểm đó họ quyết định không khiếu nại và để sự việc trôi qua.
Tuy nhiên, lần này tình hình nghiêm trọng hơn, nguy hiểm đến tính mạng của người nữ tu. Vì vậy, vụ việc có khả năng phải ra tòa. Cadena Ser báo cáo rằng người phụ nữ này cũng là thủ phạm của hai vụ đột nhập khác liên quan đến một nhà thờ khác trong cùng thành phố vào tháng 9 và tháng 10 vừa qua.
Về phần kẻ trộm, cô hy vọng sẽ có thời gian để suy ngẫm về hành động của mình và cầu xin sự tha thứ. Trong lịch sử của Giáo hội, những tên trộm có cơ hội tìm thấy một nơi vui vẻ với Chúa khi họ đã ăn năn về những hành vi sai trái của mình. Thánh Dismas, Kẻ trộm lành đã bị đóng đinh bên cạnh Chúa Kitô, là vị thánh bảo trợ của họ, và trong thời đại của chúng ta, có những người đã khám phá ra sức mạnh và vẻ đẹp của lòng thương xót của Chúa đối với tất cả chúng ta.
Source:Aleteia
2. Số người Công Giáo Thụy Sĩ rời bỏ Giáo Hội ở mức kỷ lục vào năm 2021
Một số lượng kỷ lục người Công Giáo Thụy Sĩ đã chính thức rời khỏi Giáo hội vào năm 2021, theo số liệu thống kê mới.
Viện Xã hội học Mục vụ Thụy Sĩ, gọi tắt là SPI, ở St. Gallen cho biết có 34,182 người rời bỏ Giáo Hội vào năm ngoái, nhiều hơn khoảng 2,500 người so với năm kỷ lục trước đó là 2019.
Khoảng 2.96 triệu người vẫn là tín hữu của Giáo hội vào cuối năm 2021, trên tổng dân số Thụy Sĩ khoảng 8.7 triệu người.
Giáo Hội Tin lành ở Thụy Sĩ cũng báo cáo số lượng người ra đi kỷ lục vào năm 2021, với 28,540 người.
Thụy Sĩ là một nước cộng hòa liên bang bao gồm 26 bang. Các số liệu mới nhất về sự ra đi của Giáo hội không bao gồm các bang mà tư cách thành viên không liên quan đến việc đóng thuế nhà thờ, chẳng hạn như Geneva, Valais, Neuchâtel và Vaud, trang web của Giáo Hội Công Giáo Thụy Sĩ kath.ch đưa tin.
Tỷ lệ bỏ đạo khác nhau giữa các bang. Basel-Stadt, bang cực bắc của Thụy Sĩ, ghi nhận tỷ lệ cao nhất là 3.6%, trong khi các bang lân cận là Aargau và Solothurn cũng ghi nhận con số tương đối cao là 2.4%.
Tỷ lệ bỏ đạo tổng thể là 1.5%, mà kath.ch cho biết có thể so sánh với tỷ lệ ở các nước láng giềng Đức và Áo.
359,338 người chính thức rời bỏ Giáo Hội Công Giáo ở Đức vào năm 2021. Mức cao trước đó là 272,771, được ghi nhận vào năm 2019.
Đầu tháng này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp nhận đơn từ chức của Đức Giám Mục Valerio Lazzeri, 59 tuổi, người đã lãnh đạo Giáo phận Lugano ở bang Ticino, miền nam Thụy Sĩ, kể từ năm 2013.
Lazzeri cho biết ngài đã quyết định từ chức vì “sự mệt mỏi nội tâm” mà ngài cảm thấy đặc biệt trong hai năm qua.
Source:Pillar Catholic
3. Diễn từ của Đức Thánh Cha Phanxicô trong cuộc gặp gỡ Tiếng Kêu Gào Hòa Bình
Cộng đồng Sant’Egidio đã tổ chức lần thứ 36 biến cố “Tinh thần Assisi” hàng năm tại Rome, một biến cố khởi đầu từ năm 1986 với Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, có sự tham dự của các nguyên thủ quốc gia, các nhà lãnh đạo tôn giáo và Đức Phanxicô trong buổi kết thúc cầu nguyện cho hòa bình tại Colosseum, Rome, ngày 25 tháng 10, 2022.
Năm nay, sự kiện, được tổ chức với chủ đề Tiếng Kêu Gào Hòa Bình khi thế giới đang chìm trong chiến tranh, và đặc biệt là cuộc chiến đang diễn ra ở Ukraine, một lần nữa, đã quy tụ một số nhân vật gấy ấn tượng, bao gồm một số vị tổng trưởng Vatican, trong đó có Đức Hồng Y Kurt Koch, và Đức Hồng Y José Tolentino Calaça de Mendonça, đứng đầu thánh bộ Giáo dục và Văn hóa.
Ngoài các Chủ tịch Hội đồng Giám mục quốc gia, Đức Hồng Y Raffael Sako của Iraq, và Đức Tổng Giám Mục Laurent Ulrich của Paris, cũng có mặt.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo từ Kitô giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo, đạo Sikh và Ấn Độ giáo, đã cùng nhau kêu gọi hòa bình trong biến cố này.
Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha nói:
Thưa các nhà lãnh đạo lỗi lạc của các Giáo hội Kitô giáo và các Tôn giáo Thế giới,
Anh chị em thân mến,
Các nhà cầm quyền dân sự đáng kính,
Tôi cảm ơn mỗi người trong số các bạn đang tham gia cuộc gặp gỡ cầu nguyện cho hòa bình này. Một cách đặc biệt, tôi cảm ơn các nhà lãnh đạo Kitô giáo và những người thuộc các tôn giáo khác, những người đã tham gia cùng chúng tôi trong cùng một tinh thần huynh đệ từng truyền cảm hứng cho cuộc triệu tập lịch sử đầu tiên của Thánh Gioan Phaolô II ở Assisi, 36 năm trước.
Năm nay, lời cầu nguyện của chúng ta trở thành một lời cầu xin chân thành, bởi vì hòa bình ngày nay đã bị xâm phạm nghiêm trọng, bị tấn công và chà đạp, và điều này diễn ra ở châu Âu, trên chính lục địa mà trong thế kỷ trước đã phải chịu đựng nỗi kinh hoàng của hai cuộc chiến tranh thế giới - và chúng ta đang trải qua thế chiến ba. Đáng buồn thay, kể từ đó, chiến tranh tiếp tục gây ra đổ máu và làm nghèo trái đất. Tuy nhiên, tình huống mà chúng ta đang trải qua hiện nay đặc biệt bi thảm. Đó là lý do tại sao chúng ta dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, Đấng luôn nghe thấy lời khẩn cầu đầy lo âu xao xuyến của các con trai và con gái của Người. Lạy Chúa, xin nghe lời chúng con!
Hòa bình là trọng tâm của các tôn giáo, các trước tác tâm linh và giáo huấn của họ. Buổi tối hôm nay, giữa sự im lặng của lời cầu nguyện, chúng ta nghe thấy lời cầu xin hòa bình: một nền hòa bình bị đàn áp ở rất nhiều khu vực trên thế giới, bị xâm phạm bởi quá nhiều hành vi bạo lực, và bị bác bỏ ngay cả đối với trẻ em và người già, những người không được tha cho những đau khổ cay đắng của chiến tranh. Lời cầu xin hòa bình đó thường bị bóp nghẹt, không những bởi những luận điệu thù địch mà còn bởi sự thờ ơ. Nó bị giản lược thành im lặng bởi lòng căm thù, vốn lan rộng khi cuộc chiến tiếp tục.
Tuy nhiên, lời cầu xin hòa bình không thể bị dập tắt: nó trỗi dậy từ trái tim của những người mẹ; nó khắc sâu trên khuôn mặt của những người tị nạn, những gia đình phải di cư, những người bị thương và những người sắp chết. Và lời cầu xin thầm lặng này bay lên tận trời cao. Nó không có công thức ma thuật nào để chấm dứt xung đột, nhưng nó có quyền thiêng liêng để cầu xin hòa bình nhân danh tất cả những người đau khổ, và nó xứng đáng được lắng nghe. Nó triệu tập một cách chính đáng tất cả mọi người, bắt đầu từ các nhà lãnh đạo chính phủ, dành thời gian và lắng nghe, nghiêm túc và tôn kính. Lời cầu xin hòa bình đó thể hiện nỗi đau và nỗi kinh hoàng của chiến tranh, là mẹ đẻ của mọi nghèo đói.
“Mỗi cuộc chiến đều khiến thế giới của chúng ta trở nên tồi tệ hơn trước. Chiến tranh là một thất bại của chính trị và của nhân loại, một sự đầu hàng đáng xấu hổ, một thất bại nhức nhối trước các thế lực của cái ác” (Fratelli Tutti, 261). Những xác tín này là kết quả của những bài học đau đớn của thế kỷ 20, và đáng buồn thay, một lần nữa, của phần này thế kỷ 21. Quả thực, ngày nay, điều chúng ta sợ hãi và hy vọng không bao giờ nghe thấy nữa đang bị đe dọa hoàn toàn: việc sử dụng vũ khí nguyên tử, ngay cả sau Hiroshima và Nagasaki, vẫn tiếp tục được sản xuất và thử nghiệm một cách sai lầm.
Trong viễn cảnh ảm đạm này, đáng buồn phải nói rằng, kế hoạch của các nhà lãnh đạo quyền lực trên thế giới không dành chỗ cho nguyện vọng chính đáng của các dân tộc, kế hoạch của Thiên Chúa muốn cứu rỗi chúng ta, “kế hoạch tạo hòa bình chứ không phải tạo điều ác” (x. Grm 29 : 11), không bao giờ thay đổi. Ở đây tiếng nói của người không có tiếng nói được nghe thấy; ở đây niềm hy vọng của người nghèo và người bất lực được thiết lập vững chắc: trong Thiên Chúa, Đấng có tên là Hòa bình. Hòa bình là món quà của Thiên Chúa, và chúng ta đã cầu xin món quà đó từ Người. Tuy nhiên, hòa bình phải được đón nhận và nuôi dưỡng bởi những người đàn ông và đàn bà chúng ta, đặc biệt là bởi những người trong chúng ta là các tín hữu. Chúng ta đừng bị lây nhiễm bởi lý lẽ tàn khốc của chiến tranh; chúng ta đừng sa vào cạm bẫy của lòng căm ghét đối với kẻ thù. Một lần nữa, chúng ta hãy đặt hòa bình vào trọng tâm của viễn kiến cho tương lai, làm mục tiêu chính của hoạt động bản thân, xã hội và chính trị của chúng ta ở mọi bình diện. Chúng ta hãy tháo ngòi xung đột bằng vũ khí đối thoại.
Tháng 10 năm 1962, giữa một cuộc khủng hoảng quốc tế nghiêm trọng, khi cuộc đối đầu quân sự và thảm họa hạt nhân dường như sắp xảy ra, Thánh Gioan XXIII đã đưa ra lời kêu gọi này: “Chúng tôi khẩn khoản yêu cầu tất cả các nhà lãnh đạo chính phủ đừng điếc tai trước tiếng kêu này của nhân loại. Họ hãy làm mọi điều trong khả năng của mình để bảo vệ hòa bình. Như thế, họ sẽ giải thoát thế giới khỏi cảnh khủng khiếp của một cuộc chiến tranh, mà hậu quả khủng khiếp của nó, chúng ta không thể lường trước được... Cổ vũ, phát huy và chấp nhận đối thoại ở mọi bình diện và mọi thời đại là quy tắc của sự khôn ngoan và thận trọng, thu hút phước lành của thiên đàng và trái đất “(Thông điệp Truyền thanh, ngày 25 tháng 10 năm 1962).
Sáu mươi năm sau, những lời trên vẫn gây ấn tượng với chúng ta bởi tính hợp thời của chúng. Tôi biến chúng thành của riêng tôi. Chúng ta không “trung lập, nhưng liên minh vì hòa bình”, và vì lý do này, “chúng ta nại tới jus pacis [quyền hòa bình] như quyền của tất cả mọi người để giải quyết xung đột mà không cần bạo lực” (Gặp gỡ Sinh viên và Đại diện của Thế giới Học thuật, Bologna, ngày 1 tháng 10 năm 2017).
Trong những năm gần đây, liên hệ huynh đệ giữa các tôn giáo đã có những bước phát triển mang tính quyết định: “Các tôn giáo kết hợp giúp các dân tộc là anh chị em chung sống trong hòa bình” (Họp mặt các tôn giáo vì hòa bình, ngày 7 tháng 10 năm 2021). Càng ngày, chúng ta càng cảm thấy chúng ta đều là anh chị em của nhau! Một năm trước, tập trung tại đây trước Colosseum, chúng ta đã đưa ra lời kêu gọi hôm nay càng hợp thời hơn nữa: “Các tôn giáo không thể được sử dụng cho chiến tranh. Chỉ có hòa bình là thánh và không ai được sử dụng danh Thiên Chúa để chúc lành cho khủng bố và bạo lực. Nếu qúy bạn thấy chiến tranh xung quanh mình, đừng có cam chịu! Các dân tộc mong muốn hòa bình “(đd).
Đó là những gì chúng ta sẽ cố gắng làm tốt hơn mỗi ngày. Chúng ta đừng bao giờ cam chịu chiến tranh; chúng ta hãy vun sới hòa giải. Hôm nay, chúng ta hãy cất lên trời cao lời cầu xin hòa bình của chúng ta, một lần nữa theo lời của Thánh Gioan XXIII: “Xin cho tất cả các dân tộc đến với nhau như anh chị em, và cầu xin cho nền hòa bình mà họ vô cùng ao ước sẽ luôn nảy nở và ngự trị ở giữa họ” (Pacem in Terris, 171). Ước mong được như vậy, với ân sủng của Thiên Chúa và thiện chí của những người đàn ông và đàn bà Người yêu thương.