Edgar Beltrán của tạp chí The Pillar, ngày 10 tháng 1 năm 2025, tường trình rằng Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nêu ra các ưu tiên ngoại giao của ngài cho năm 2025 vào thứ năm, trong bài phát biểu "tình hình thế giới" thường niên của ngài trước các nhà ngoại giao được công nhận tại Tòa thánh.
Đức Giáo Hoàng chỉ đọc một vài trang đầu của bài phát biểu trước khi xin phép ra về vì bị cảm lạnh. Đức ông Filippo Ciampanelli, thứ trưởng Bộ các Giáo hội Đông phương, đã đọc phần còn lại của bài phát biểu.
Trong bối cảnh của Năm Thánh 2025, Đức Giáo Hoàng kêu gọi các nhà ngoại giao tránh "luận lý học đối đầu", thay vào đó là " luận lý học gặp gỡ, để tương lai không thấy chúng ta trôi dạt vô vọng, mà tiến về phía trước như những người hành hương của hy vọng, các cá nhân và cộng đồng đang di chuyển, cam kết xây dựng một tương lai hòa bình".
Bài phát biểu dài gần 5,000 từ của ngài đã nêu bật các vấn đề ngoại giao mà Tòa thánh có thể sẽ tập trung vào trong 12 tháng tới - và các chủ đề dường như được xếp vào chương trình nghị sự của Vatican.
Sức khỏe của Giáo hoàng
Sau một năm tràn ngập những đồ đoán về sức khỏe của ngài do nhiều thủ thuật y tế khác nhau, Đức Giáo Hoàng đã có sức khỏe tương đối tốt trong năm 2024 bận rộn, bao gồm phiên họp thứ hai của Thượng hội đồng về tính đồng nghị và chuyến đi dài nhất trong triều giáo hoàng của ngài cho đến nay.
Nhưng vào cuối năm 2024, sức khỏe của Đức Giáo Hoàng lại là chủ đề của những đồ đoán mới, khi ngài xin phép không phát biểu với lý do bị cảm lạnh và xuất hiện với một vết bầm tím nghiêm trọng trên cằm tại một công nghị Hồng Y để phong chức Hồng Y mới.
Bài phát biểu hôm thứ Năm cho thấy năm 2025, với chương trình Năm Thánh đầy thách thức, có thể là một năm nữa tràn ngập những đồ đoán về sức khỏe của Đức Giáo Hoàng. Khoảng hai phút sau bài phát biểu, Đức Giáo Hoàng đã trao bài phát biểu của ngài cho Đức ông Ciampanelli, nói rằng ngài vẫn bị “cảm lạnh nhẹ”, tình trạng mà ngài đã đề cập lần đầu tiên trước Giáng sinh.
Ukraine và Gaza
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dành một phần bài phát biểu của mình cho Ukraine và Gaza, yêu cầu cộng đồng quốc tế chấm dứt cả hai cuộc chiến tranh.
Liên quan đến Gaza, ngài kêu gọi chấm dứt cuộc khủng hoảng nhân đạo "đáng xấu hổ" trong khu vực và kêu gọi trả lại các con tin Israel.
Đức Giáo Hoàng cũng lên án mạnh mẽ làn sóng bài Do Thái trên toàn cầu. Những phát biểu của ngài được đưa ra vào thời điểm nhạy cảm đối với mối quan hệ Công Giáo - Do Thái, khi chính phủ Israel và các tổ chức Do Thái bày tỏ sự lo ngại về những bình luận gần đây của Đức Giáo Hoàng về Gaza.
Vào đêm Giáng sinh, Bộ trưởng Ngoại giao Israel Gideon Sa'ar đã triệu tập sứ thần tòa thánh tại Israel, Tổng giám mục Adolfo Tito Yllana, để bày tỏ "sự bất bình sâu xa" của ông trước những phát biểu của Đức Giáo Hoàng trong bài phát biểu ngày 21 tháng 12 trước giáo triều Rôma.
Đức Giáo Hoàng cho biết cái chết của trẻ em trong các vụ đánh bom là "tàn ác", mà nhiều người ở Israel hiểu là Đức Giáo Hoàng nói rằng quân đội Israel cố tình nhắm vào trẻ em.
Các nhà quan sát cho rằng mối quan hệ của Vatican với cộng đồng Do Thái đang ở mức thấp nhất kể từ Công đồng Vatican II. Cách ngoại giao của Vatican giải quyết thách thức này sẽ là một câu chuyện đáng chú ý trong năm nay.
Venezuela và Nicaragua
Hai quốc gia có khả năng tiếp tục chứng minh là một thách thức ngoại giao đối với Vatican vào năm 2025 là Venezuela và Nicaragua.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với các nhà ngoại giao rằng cuộc khủng hoảng ở Venezuela chỉ có thể được khắc phục “bằng cách chân thành tuân thủ các giá trị của sự thật, công lý và tự do, cũng như tôn trọng sự sống, phẩm giá và quyền của mỗi người”.
Liên quan đến Nicaragua, nơi Giáo hội đã phải chịu sự đàn áp nghiêm trọng, Đức Giáo Hoàng cho biết “Tòa thánh luôn sẵn sàng đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng, và theo dõi với sự quan ngại các biện pháp được thực hiện đối với người dân và các tổ chức của Giáo hội”. Ngài nói thêm rằng “không thể có hòa bình thực sự nếu quyền tự do tôn giáo không được đảm bảo”.
Venezuela và Nicaragua từ lâu đã là hai điểm mù ngoại giao đối với Vatican. Nhiều người ở hai quốc gia này và ở nước ngoài đã cáo buộc Tòa thánh thụ động và Đức Giáo Hoàng không lên tiếng đủ mạnh mẽ.
Hơn nữa, đôi khi Vatican đã sai lầm trong các tuyên bố công khai của mình. Ví dụ, trong bối cảnh các cuộc biểu tình lớn bị đàn áp dữ dội vào năm 2019, Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa thánh Vatican cho biết Vatican có lập trường “trung lập tích cực” trong cuộc khủng hoảng ở Venezuela. Tuyên bố này đã bị chỉ trích rộng rãi trong nước.
Nhưng gần đây, Đức Giáo Hoàng đã dành một lá thư mục vụ cho người dân Nicaragua và liên quan đến Venezuela, ngài nói rằng "chế độ độc tài không bao giờ kết thúc tốt đẹp".
Vào ngày Đức Giáo Hoàng phát biểu trước các nhà ngoại giao, các cuộc biểu tình trên toàn quốc lại nổ ra ở Venezuela. Trong khi đó, Giáo hội ở Nicaragua bắt đầu năm 2025 mà không có chủ tịch hội đồng giám mục, người đã bị lưu đày vào tháng 11 năm 2024.
Đức Giáo Hoàng có thể phải nói nhiều hơn về những cuộc khủng hoảng này vào năm 2025 — hoặc có khả năng sẽ phải chịu thêm chỉ trích.
Hồng Kông
Có lẽ sự thiếu sót rõ ràng nhất trong bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng là Hồng Kông. Kể từ năm 2019, lãnh thổ này đã phải chịu sự đàn áp khi Trung Quốc tăng cường kiểm soát xã hội Hồng Kông.
Thỏa thuận về việc bổ nhiệm giám mục giữa chính phủ Trung Quốc và Vatican đã được gia hạn vào năm 2024 trong bối cảnh bị chỉ trích rộng rãi, điều này có thể có nghĩa là sự im lặng của vị giáo hoàng về sự xói mòn nền dân chủ ở Hồng Kông là một nỗ lực không làm gia tăng căng thẳng với Bắc Kinh.
Vào tháng 12, nhà xuất bản Công Giáo Jimmy Lai đã trở lại tòa án ở Hồng Kông để làm chứng trong phiên tòa xét xử theo Luật An ninh Quốc gia gây tranh cãi của lãnh thổ này.
Lai, người đã ngồi tù từ năm 2020, bị buộc tội thông đồng với các thế lực nước ngoài và xuất bản các tài liệu kích động. Nếu bị kết tội, ông sẽ phải đối mặt với án tù chung thân.
Lai không phải là người Công Giáo duy nhất phải đối đầu với các vấn đề pháp lý ở Hồng Kông do Luật An ninh Quốc gia.
Năm 2022, Hồng Y Joseph Zen đã bị kết tội cùng với năm người khác có liên quan đến Quỹ Nhân đạo 612 hiện đã không còn tồn tại.
Năm 2023, Bobo Yip, cựu chủ tịch Ủy ban Công lý và Hòa bình của Giáo phận Hồng Kông, cũng bị bắt vì lý do an ninh quốc gia.
Vào tháng 12 năm 2023, Agnes Chow, nhà hoạt động dân chủ Công Giáo được thả khỏi tù năm 2021, tuyên bố bà đã trốn sang Canada lưu vong.
Mặc dù Đức Giáo Hoàng không đề cập đến Hồng Kông trong bài phát biểu trước các nhà ngoại giao, nhưng ngài đã nhấn mạnh đến việc gia hạn thỏa thuận giữa Vatican và Trung Quốc thêm bốn năm nữa vào tháng 10.
Ngài mô tả hiệp ước được gia hạn là "dấu hiệu của mong muốn tiếp tục một cuộc đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng vì lợi ích của Giáo Hội Công Giáo trong nước và của toàn thể người dân Trung Quốc".
Dignitas infinita
Bài phát biểu này dường như lấy cảm hứng phần lớn từ tuyên bố năm 2024 của Vatican về phẩm giá con người, Dignitas infinita. Nhiều mối quan ngại và lên án trong bài phát biểu này tương tự như những mối quan ngại và lên án trong tài liệu này.
Ví dụ, Đức Giáo Hoàng lên án việc diễn giải lại các hiệp ước nhân quyền theo cách mà ngài gọi là một hình thức “thực dân hóa ý thức hệ”.
“Nó đại diện cho một hình thức thực dân hóa ý thức hệ thực sự, cố gắng, theo các chương trình nghị sự được lên kế hoạch cẩn thận, nhằm nhổ tận gốc các truyền thống, lịch sử và mối liên kết tôn giáo của các dân tộc”, ngài nói, đồng thời lên án các nỗ lực thiết lập “điều gọi là ‘quyền phá thai’”.
“Mọi sự sống phải được bảo vệ, tại mọi thời điểm, từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên, vì không đứa trẻ nào là sai lầm hoặc có tội khi tồn tại, cũng như không người già hay người bệnh nào có thể bị tước mất hy vọng và bị loại bỏ”, Đức Giáo Hoàng nhấn mạnh.
Ngài cũng kêu gọi “ngoại giao tự do, chân lý và công lý”, để chấm dứt nạn buôn người và các hình thức nô lệ hiện đại khác, đồng thời chăm sóc những người di cư.
Và một lần nữa, ngài kêu gọi bãi bỏ án tử hình trên toàn thế giới, “vì án tử hình không tìm thấy lý do chính đáng nào trong số các công cụ có khả năng khôi phục công lý hiện nay”.
Các mưu toan ám sát Trump
Điều đáng lưu ý là Đức Giáo Hoàng đã đề cập ngắn gọn đến các nỗ lực ám sát nhằm vào Tổng thống đắc cử Donald Trump, liên kết chúng với sự phân cực chính trị và việc truyền bá tin tức giả mạo.
"Chúng ta thấy các xã hội ngày càng phân cực, được đánh dấu bằng cảm giác chung là sợ hãi và ngờ vực người khác và tương lai, điều này trở nên trầm trọng hơn do tin tức giả mạo liên tục được tạo ra và lan truyền, không chỉ bóp méo sự thật mà còn cả nhận thức", Đức Giáo Hoàng nói.
"Những ví dụ bi thảm về điều này là các cuộc tấn công vào Chủ tịch Chính phủ Cộng hòa Slovakia [Robert Fico, vào tháng 5 năm 2024] và Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ", ngài nói thêm.
Việc đề cập này diễn ra chỉ ba ngày sau khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm Hồng Y Robert McElroy làm Tổng giám mục Washington, một động thái được coi rộng rãi là phản ứng trước việc Trump đề cử Brian Burch làm đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa thánh.
Burch là chủ tịch của nhóm vận động chính trị CatholicVote. Ông và tổ chức của ông đôi khi chỉ trích gay gắt Vatican và Đức Giáo Hoàng Phanxicô, và đặc biệt chỉ trích công việc của Giáo Hội Công Giáo với những người nhập cư ở biên giới Hoa Kỳ-Mexico.
Trong khi đó, McElroy được coi là một trong những nhà phê bình tôn giáo gay gắt nhất của Trump, đặc biệt là về vấn đề nhập cư và môi trường.
Do đó, rất có thể chính quyền Trump thứ hai và Tòa thánh sẽ xung đột, có thể theo những cách tương tự và khác biệt so với lần đầu tiên, trong khi có thể hợp tác để tìm kiếm hòa bình ở Ukraine.
Không còn nghi ngờ gì nữa, mối quan hệ giữa chính quyền Trump sắp tới và Vatican sẽ là một trong những câu chuyện đáng chú ý vào năm 2025.
DIỄN VĂN CỦA Đức Thánh Cha PHANXICÔ
GỬI CÁC THÀNH VIÊN CỦA ĐOÀN NGOẠI GIAO ĐẠI DIỆN ĐƯỢC CÔNG NHẬN TẠI TÒA THÁNH
Phòng cầu nguyện
Thứ năm, ngày 9 tháng 1 năm 2025
Kính thưa Quý vị, Quý bà và Quý ông,
Sáng nay, chúng ta đến với nhau dự một cuộc gặp gỡ, ngoài tính chất thể chế, trên hết là tìm cách trở thành một biến cố gia đình: một khoảnh khắc mà gia đình các dân tộc tụ họp một cách tượng trưng, thông qua sự hiện diện của Quý vị, để trao đổi những lời chúc tốt đẹp của tình anh em, để lại đằng sau những tranh chấp chia rẽ chúng ta và thay vào đó là tìm kiếm điều gì đó đoàn kết chúng ta. Vào đầu năm nay, năm đặc biệt có ý nghĩa đối với Giáo Hội Công Giáo, sự tụ họp của chúng ta có một biểu tượng riêng. Vì Năm Thánh có nghĩa là giúp chúng ta thoát khỏi nhịp sống ngày càng điên cuồng của cuộc sống thường nhật để được tươi mới và nuôi dưỡng bởi những gì thực sự thiết yếu. Nói tóm lại, để tái khám phá chính mình, trong Người, với tư cách là con cái của Thiên Chúa và là anh chị em, để tha thứ cho những lỗi lầm, để hỗ trợ những người yếu đuối và nghèo khổ trong chúng ta, để mang lại sự nghỉ ngơi và nhẹ nhõm cho trái đất, để thực hành công lý và khôi phục lại hy vọng. Đây là lời triệu tập tất cả những ai phục vụ lợi ích chung và thực hiện biểu thức cao cả của lòng bác ái – có lẽ là hình thức bác ái cao nhất – đó là chính trị.
Với tinh thần này, tôi xin gửi đến quý vị lời chào nồng nhiệt. Trước hết, tôi xin cảm ơn ngài Đại sứ George Poulides, Niên Trưởng đoàn Ngoại giao, vì những lời tốt đẹp của ngài đã truyền đạt tình cảm chung của quý vị. Đối với tất cả quý vị, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn về tình cảm và sự tôn trọng mà người dân và chính phủ của quý vị dành cho Tòa thánh, những chính phủ mà quý vị đại diện một cách đầy khả năng. Điều này được thấy qua các chuyến thăm của hơn ba mươi Nguyên thủ quốc gia hoặc Chính phủ mà tôi đã có niềm vui được tiếp đón tại Vatican vào năm 2024, cũng như việc ký kết Nghị định thư bổ sung thứ hai cho Thỏa thuận giữa Tòa thánh và Burkina Faso về tình trạng pháp lý của Giáo Hội Công Giáo tại Burkina Faso và Thỏa thuận giữa Tòa thánh và Cộng hòa Séc về một số vấn đề pháp lý, được ký kết trong năm qua. Sau đó, vào tháng 10 năm ngoái, Thỏa thuận tạm thời giữa Tòa thánh và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về việc bổ nhiệm các Giám mục đã được gia hạn thêm bốn năm nữa, một dấu hiệu cho thấy mong muốn tiếp tục một cuộc đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng vì lợi ích của Giáo Hội Công Giáo trong nước và của toàn thể người dân Trung Quốc.
Về phần mình, tôi đã tìm cách đáp lại tình cảm này thông qua các Chuyến tông du gần đây của tôi, đưa tôi đến những vùng đất xa xôi như Indonesia, Papua New Guinea, Timor-Leste và Singapore, cũng như đến các quốc gia gần hơn như Bỉ và Luxembourg và gần đây nhất là Corsica. Mặc dù rõ ràng là những điểm đến rất khác nhau, nhưng mỗi chuyến đi đều là cơ hội để tôi gặp gỡ và tham gia đối thoại với những con người, nền văn hóa và truyền thống tôn giáo khác nhau, đồng thời mang đến lời động viên và an ủi, đặc biệt cho những người đang cần nhất. Ngoài những chuyến đi này, tôi còn có ba chuyến thăm đến Verona, Venice và Trieste tại Ý.
Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt đến các nhà chức trách Ý, cả cấp quốc gia lẫn cấp địa phương, nhân dịp đầu năm Thánh này, vì những nỗ lực đã bỏ ra để chuẩn bị cho Rome đón Năm Thánh. Công sức không ngừng nghỉ trong những tháng này, vốn đã gây ra không ít bất tiện, giờ đây đang được đền đáp bằng việc cải thiện một số dịch vụ và không gian công cộng, để mọi người, công dân, khách hành hương và khách du lịch, có thể tận hưởng nhiều hơn vẻ đẹp của Thành phố Vĩnh cửu. Đối với người dân Rome, nổi tiếng với lòng hiếu khách, tôi xin gửi lời cảm ơn đặc biệt vì sự kiên nhẫn mà họ đã thể hiện trong những tháng gần đây, nhưng cũng vì sự kiên nhẫn mà họ sẽ thể hiện khi chào đón nhiều du khách đến đây trong năm nay. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến lực lượng cảnh sát, các cơ quan bảo vệ dân sự và y tế, cùng tất cả những người tình nguyện đang nỗ lực hết mình mỗi ngày để đảm bảo an ninh và một Năm Thánh hòa bình.
Các Đại sứ thân mến,
Theo lời của tiên tri Isaia, mà Chúa Giêsu đã đọc trong hội đường Na-da-rét khi bắt đầu cuộc sống công khai của Người, như chúng ta học được từ Thánh sử Luca (4:16-21), chúng ta thấy tóm lược không những mầu nhiệm Giáng Sinh mà chúng ta vừa cử hành, mà còn là mầu nhiệm Năm Thánh hiện tại. Chúa Kitô đã đến “để loan báo tin mừng cho người bị áp bức, băng bó những tấm lòng tan vỡ, công bố lệnh tự do cho những người bị giam cầm, và giải thoát cho những người bị cầm tù; công bố năm hồng ân của Chúa” (Is 61:1-2a).
Thật đáng buồn, chúng ta bắt đầu năm nay khi thế giới thấy mình bị chia rẽ bởi vô số cuộc xung đột lớn nhỏ, ít nhiều được biết đến, nhưng cũng bởi sự tái diễn của những hành động khủng bố tàn bạo, chẳng hạn như những hành động gần đây đã xảy ra ở Magdeburg Đức và ở New Orleans Hoa Kỳ.
Chúng ta cũng thấy ở nhiều quốc gia, căng thẳng xã hội và chính trị ngày càng gia tăng. Chúng ta thấy các xã hội ngày càng phân cực, được đánh dấu bằng cảm giác chung là sợ hãi và ngờ vực người khác và tương lai, điều này càng trầm trọng hơn do sự liên tục việc tạo ra và lan truyền tin giả, không chỉ bóp méo sự thật mà còn bóp méo nhận thức. Hiện tượng này tạo ra hình ảnh sai lệch về thực tại, bầu không khí nghi ngờ kích động thù hận, làm suy yếu cảm thức an toàn của mọi người và gây tổn hại đến sự chung sống dân sự và sự ổn định của toàn bộ các quốc gia. Những ví dụ bi thảm về điều này là các cuộc tấn công vào Chủ tịch Chính phủ Cộng hòa Slovakia và Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ.
Bầu không khí bất an này dẫn đến việc dựng lên những rào cản mới và vẽ ra những đường biên giới mới, trong khi những rào cản khác, chẳng hạn như rào cản đã chia cắt đảo Síp trong hơn năm mươi năm và rào cản đã chia cắt bán đảo Triều Tiên trong hơn bảy mươi năm, vẫn tồn tại vững chắc, chia cắt các gia đình và chia cắt nhà cửa và thành phố. Những ranh giới hiện đại này được cho là ranh giới phân định bản sắc, nơi sự đa dạng trở thành lý do cho sự bất tín, ngờ vực và sợ hãi: “Bất cứ điều gì phát xuất từ đó đều không thể tin cậy được, vì nó là điều chưa biết, xa lạ, không phải là một phần của thôn làng... Kết quả là, những bức tường mới được dựng lên để tự bảo vệ, thế giới bên ngoài không còn hiện hữu và chỉ còn lại thế giới ‘của tôi’, đến mức những người khác, không còn được coi là con người sở hữu phẩm giá bất khả xâm phạm, chỉ trở thành ‘họ’.” [1] Trớ trêu thay, chữ “biên giới” (“confine”) không có nghĩa là một nơi chia cắt, mà là nơi hợp nhất, (cum-finis = cùng một kết thúc), nơi người ta có thể gặp gỡ những người khác, tìm hiểu họ và đối thoại với họ.
Hy vọng đầy cầu nguyện của tôi cho năm mới này là Năm Thánh có thể đại diện cho tất cả mọi người, cả các Ki-tô hữu lẫn những người không phải là Ki-tô hữu, một cơ hội để suy nghĩ lại về các mối quan hệ ràng buộc chúng ta với nhau, với tư cách là con người và cộng đồng chính trị. Nhưng cũng để vượt qua luận lý học đối đầu và thay vào đó là chấp nhận luận lý học gặp gỡ; để tương lai không thấy chúng ta trôi dạt vô vọng, mà tiến về phía trước như những người hành hương của hy vọng, những cá nhân và cộng đồng đang di chuyển, cam kết xây dựng một tương lai hòa bình.
Hơn nữa, trước mối đe dọa ngày càng cụ thể của một cuộc thế chiến, sứ mệnh của ngoại giao là thúc đẩy đối thoại với tất cả các bên, bao gồm cả những bên đối thoại được coi là ít "thuận tiện" hơn hoặc không được coi là hợp pháp để đàm phán. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể phá vỡ xiềng xích của lòng thù hận và sự trả thù đang trói buộc và xoa dịu sức mạnh bùng nổ của lòng ích kỷ, lòng kiêu hãnh và sự ngạo mạn của con người, vốn là gốc rễ của mọi quyết tâm hủy diệt để tiến hành chiến tranh.
Thưa các Quý vị, Quý bà và Quý ông,
Dựa trên những xem xét ngắn gọn này, sáng nay tôi muốn cùng quý vị theo dõi, bắt đầu từ lời của tiên tri Isaia, một số đặc điểm của một nền ngoại giao hy vọng, mà tất cả chúng ta được kêu gọi trở thành sứ giả, để những đám mây đen dày đặc của chiến tranh có thể bị cuốn trôi bởi những luồng gió hòa bình mới mẻ. Nói chung hơn, tôi muốn nhấn mạnh một số trách nhiệm mà mọi nhà lãnh đạo chính trị cần ghi nhớ khi thực hiện trách nhiệm của mình, những trách nhiệm này phải hướng đến việc theo đuổi lợi ích chung và sự phát triển toàn diện của con người.
Mang tin mừng đến với những người bị áp bức
Trong mọi thời đại và địa điểm, con người luôn bị thu hút bởi ý tưởng họ có thể tự mình đủ khả năng và là người kiến tạo nên vận mệnh của chính mình. Bất cứ khi nào chúng ta để mình bị chi phối bởi sự tự phụ như vậy, chúng ta thấy mình bị buộc phải nhận ra rằng chúng ta yếu đuối và bất lực, nghèo đói và túng thiếu, phải chịu nghịch cảnh về tinh thần và vật chất. Nói một cách ngắn gọn, chúng ta khám phá ra nỗi khốn khổ của mình và nhu cầu có ai đó cứu chúng ta khỏi nỗi khốn khổ này.
Nỗi khốn khổ của thời đại chúng ta thật lớn. Hơn bao giờ hết, nhân loại đã biết đến sự tiến bộ, phát triển và giàu có, nhưng có lẽ chưa bao giờ chúng ta lại thấy mình cô đơn và lạc lõng đến vậy, thậm chí đôi khi còn thích nuôi thú cưng hơn nuôi trẻ con. Có một nhu cầu cấp thiết là phải nghe tin mừng. Tin mừng mà, theo quan điểm Ki-tô giáo, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta vào đêm Giáng sinh! Mặc dù vậy, mọi người – ngay cả những người không tin – đều có thể trở thành người mang thông điệp hy vọng và chân lý.
Về vấn đề này, con người được ban tặng một khát khao bẩm sinh đối với chân lý. Đó là một khía cạnh cơ bản của thân phận con người, vì mỗi người đều mang trong mình một khát khao chân lý khách quan và một ham muốn không thể kìm nén về kiến thức. Mặc dù điều này luôn đúng, nhưng trong thời đại của chúng ta, việc phủ nhận những chân lý hiển nhiên dường như đã chiếm ưu thế. Một số người không tin tưởng vào lập luận hợp lý, tin rằng đó là công cụ trong tay của một thế lực vô hình nào đó, trong khi những người khác tin rằng họ chắc chắn sở hữu một chân lý do chính họ tạo ra, và do đó được miễn khỏi việc thảo luận và đối thoại với những người có suy nghĩ khác. Những người khác có xu hướng phát minh ra "chân lý" của riêng họ, bất chấp tính khách quan của thực tại. Những xu hướng này có thể được khuếch đại bởi các phương tiện truyền thông hiện đại và trí tuệ nhân tạo; chúng có thể bị lạm dụng để thao túng tâm trí vì mục đích kinh tế, chính trị và ý thức hệ.
Tiến bộ khoa học hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin và kỹ thuật truyền thông đã mang lại những lợi ích không thể nghi ngờ cho nhân loại. Nó cho phép chúng ta đơn giản hóa nhiều khía cạnh của cuộc sống hàng ngày, giữ liên lạc với những người thân yêu ngay cả khi họ ở xa, duy trì thông tin và tăng kiến thức của chúng ta. Đồng thời, không thể bỏ qua những hạn chế và nguy hiểm của nó, vì nó thường góp phần gây ra sự phân cực, thu hẹp quan điểm trí tuệ, đơn giản hóa thực tại, lạm dụng, lo lắng và trớ trêu thay, cô lập, đặc biệt là do sử dụng phương tiện truyền thông xã hội và trò chơi trực tuyến.
Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo làm dấy lên mối quan tâm rộng hơn về quyền sở hữu trí tuệ, sự an toàn việc làm của hàng triệu người, nhu cầu tôn trọng quyền riêng tư và bảo vệ môi trường khỏi rác thải điện tử. Hầu như không có góc nào trên thế giới của chúng ta không bị ảnh hưởng bởi sự chuyển đổi văn hóa rộng lớn do những tiến bộ nhanh chóng của kỹ thuật mang lại, sự phù hợp với lợi ích thương mại ngày càng rõ ràng, tạo ra một nền văn hóa bắt nguồn từ chủ nghĩa tiêu dùng.
Sự mất cân bằng này đe dọa phá vỡ trật tự các giá trị vốn có trong việc tạo ra các mối quan hệ, giáo dục và truyền tải các chuẩn mực xã hội, trong khi cha mẹ, họ hàng thân thiết và nhà giáo dục vẫn phải là những kênh chính để truyền tải văn hóa, vì mục đích này, chính phủ nên tự giới hạn vào việc hỗ trợ họ trong trách nhiệm giáo dục của họ. Ở đây, chúng ta thấy tầm quan trọng của việc giáo dục sự hiểu biết về các phương tiện truyền thông, nhằm cung cấp các công cụ thiết yếu cần thiết để thúc đẩy các kỹ năng tư duy có phê phán, trang bị cho những người trẻ tuổi các phương tiện cần thiết cho sự phát triển bản thân và sự tham gia tích cực của họ vào tương lai của xã hội.
Do đó, nền ngoại giao của hy vọng, trên hết, là nền ngoại giao của sự thật. Nếu thiếu đi mối liên hệ giữa thực tại, sự thật và kiến thức, con người sẽ không còn có thể nói và hiểu nhau nữa, vì nền tảng của một ngôn ngữ chung, được neo giữ trong thực tạ của mọi sự và do đó có thể hiểu được trên toàn thế giới, không còn nữa. Mục đích của ngôn ngữ là thông đạt, chỉ thành công nếu các từ ngữ chính xác và ý nghĩa của các thuật ngữ được chấp nhận rộng rãi. Câu chuyện trong Kinh thánh về Tháp Babel cho thấy điều gì sẽ xảy ra khi mọi người chỉ nói bằng ngôn ngữ "của riêng mình".
Do đó, thông đạt, đối thoại và cam kết vì lợi ích chung đòi hỏi phải có thiện chí và tuân thủ một ngôn ngữ chung. Điều này đặc biệt đúng trong lĩnh vực ngoại giao, nhất là trong bối cảnh đa phương. Tác động và thành công của bất cứ phát biểu, tuyên bố, nghị quyết và nói chung là các văn bản đàm phán nào đều phụ thuộc vào điều này. Một sự thật đã được chứng minh là chủ nghĩa đa phương chỉ mạnh mẽ và hiệu quả khi tập trung vào các vấn đề đang được thảo luận và sử dụng ngôn ngữ đơn giản, rõ ràng và được thống nhất.
Do đó, nỗ lực thao túng các văn bản đa phương - bằng cách thay đổi ý nghĩa của các thuật ngữ hoặc đơn phương diễn giải lại nội dung của các hiệp ước nhân quyền - để thúc đẩy các hệ tư tưởng gây chia rẽ, chà đạp lên các giá trị và niềm tin của người dân là điều đặc biệt đáng lo ngại. Nó đại diện cho một hình thức thực dân hóa hệ tư tưởng thực sự, cố gắng, theo các chương trình nghị sự được lên kế hoạch cẩn thận, nhằm xóa bỏ các truyền thống, lịch sử và mối liên kết tôn giáo của các dân tộc. Đây là một tâm lý, bằng cách tuyên bố để lại những gì được coi là "những trang đen tối của lịch sử", mở ra cánh cửa cho "văn hóa triệt tiêu". Nó không chấp nhận bất cứ sự khác biệt nào và tập chú vào các quyền cá nhân, gây bất lợi cho các nghĩa vụ đối với người khác, đặc biệt là những người yếu đuối và dễ bị tổn thương nhất. [2] Về vấn đề này, chẳng hạn, không thể chấp nhận được khi nói về cái gọi là “quyền phá thai” trái ngược với các quyền con người, đặc biệt là quyền được sống. Mọi sự sống phải được bảo vệ, tại mọi thời điểm, từ khi thụ thai đến khi chết tự nhiên, vì không có đứa trẻ nào là sai lầm hoặc có tội khi hiện hữu, cũng như không có người già hoặc người bệnh nào có thể bị tước mất hy vọng và bị loại bỏ.
Cách tiếp cận này đặc biệt có liên quan trong bối cảnh các cơ quan đa phương khác nhau. Tôi đặc biệt nghĩ đến Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu, trong đó Tòa thánh là thành viên sáng lập, đã tham gia tích cực vào các cuộc đàm phán dẫn đến Tuyên bố Helsinki năm 1975 cách đây nửa thế kỷ. Việc khôi phục lại “tinh thần Helsinki” là cấp thiết hơn bao giờ hết, mà các quốc gia đối lập, được coi là “kẻ thù”, đã thành công trong việc tạo ra một không gian gặp gỡ và không từ bỏ đối thoại như một phương tiện giải quyết xung đột.
Tuy nhiên, các thể chế đa phương, phần lớn ra đời vào cuối Thế chiến II cách đây khoảng tám mươi năm, dường như không còn khả năng đảm bảo hòa bình và ổn định, hoặc tiếp tục cuộc chiến chống đói nghèo và thúc đẩy sự phát triển mà chúng được tạo ra. Chúng cũng dường như không thể phản ứng theo cách thực sự hiệu quả đối với những thách thức mới của thế kỷ XXI này, chẳng hạn như các vấn đề về môi trường, sức khỏe cộng đồng, văn hóa và xã hội, chưa kể đến những thách thức do trí tuệ nhân tạo đặt ra. Nhiều trong số chúng cần được cải cách, lưu ý rằng bất cứ cải cách nào như vậy cũng cần dựa trên các nguyên tắc phụ đới và liên đới, và tôn trọng chủ quyền bình đẳng của các quốc gia. Đáng tiếc là có nguy cơ về một "đơn nguyên luận" [monadology] và sự phân mảnh thành các câu lạc bộ có cùng chí hướng chỉ cho phép những người có cùng suy nghĩ tham gia.
Tuy nhiên, đã và đang có những dấu hiệu đáng khích lệ, bất cứ nơi nào có thiện chí hợp tác. Tôi nghĩ đến Hiệp ước Hòa bình và Hữu nghị giữa Chile và Argentina, được ký kết tại Thành phố Vatican vào ngày 29 tháng 11 năm 1984, với sự trung gian của Tòa thánh và thiện chí của các Bên, đã chấm dứt tranh chấp Kênh đào Beagle. Theo cách này, điều đó cho thấy rằng hòa bình và hữu nghị là có thể khi hai thành viên của cộng đồng quốc tế từ bỏ việc sử dụng vũ lực và long trọng cam kết tôn trọng mọi quy tắc của luật pháp quốc tế và thúc đẩy hợp tác song phương. Gần đây hơn, tôi nghĩ đến những dấu hiệu tích cực của việc nối lại các cuộc đàm phán để quay trở lại khuôn khổ của thỏa thuận hạt nhân Iran, với mục đích đảm bảo một thế giới an toàn hơn cho tất cả mọi người.
Hàn gắn những trái tim tan vỡ
Ngoại giao hy vọng cũng là ngoại giao tha thứ, có khả năng hàn gắn các mối quan hệ bị chia cắt bởi hận thù và bạo lực trong thời điểm đầy rẫy xung đột công khai hoặc tiềm ẩn, và do đó chăm sóc những trái tim tan vỡ của vô số nạn nhân. Mong muốn của tôi cho năm 2025 là toàn thể cộng đồng quốc tế sẽ nỗ lực hết mình để chấm dứt cuộc xung đột đã gây ra quá nhiều đổ máu trong gần ba năm qua ở Ukraine đang bị chiến tranh tàn phá và cướp đi sinh mạng của rất nhiều người, bao gồm cả nhiều thường dân. Một số dấu hiệu đáng khích lệ đã xuất hiện ở phía chân trời, nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để tạo điều kiện cho một nền hòa bình công bằng và lâu dài, cũng như chữa lành những vết thương do hành động xâm lược gây ra.
Tương tự như vậy, tôi xin nhắc lại lời kêu gọi ngừng bắn và trả tự do cho các con tin Israel ở Gaza, nơi đang có tình hình nhân đạo rất nghiêm trọng và đáng xấu hổ, và tôi yêu cầu người dân Palestine nhận được mọi sự hỗ trợ cần thiết. Hy vọng đầy cầu nguyện của tôi là người Israel và người Palestine có thể xây dựng lại những cây cầu đối thoại và tin tưởng lẫn nhau, bắt đầu từ những cây cầu nhỏ nhất, để các thế hệ tương lai có thể sống cạnh nhau tại hai quốc gia, trong hòa bình và an ninh, và Jerusalem có thể là "thành phố của sự gặp gỡ", nơi các Ki-tô hữu, Do Thái và Hồi giáo chung sống hòa thuận và tôn trọng lẫn nhau. Vào tháng 6 năm ngoái, tại khu vườn Vatican, chúng ta đã cùng nhau kỷ niệm 10 năm Lời kêu gọi hòa bình tại Đất Thánh, vào ngày 8 tháng 6 năm 2014, có sự hiện diện của Tổng thống Nhà nước Israel lúc bấy giờ, Shimon Peres, và Chủ tịch Nhà nước Palestine, Mahmoud Abbas, cùng với Đức Thượng phụ Bartholomew I. Cuộc gặp gỡ đó đã chứng minh rằng đối thoại luôn có thể thực hiện được và chúng ta không thể đầu hàng trước ý tưởng cho rằng sự thù địch và hận thù giữa các dân tộc sẽ chiếm ưu thế.
Đồng thời, cũng cần phải chỉ ra rằng chiến tranh được thúc đẩy bởi sự gia tăng liên tục của các loại vũ khí ngày càng tinh vi và hủy diệt. Sáng nay, tôi xin nhắc lại lời kêu gọi của tôi rằng “với số tiền chi cho vũ khí và các chi phí quân sự khác, chúng ta hãy thành lập một quỹ hoàn cầu có thể chấm dứt nạn đói và thúc đẩy phát triển ở những quốc gia nghèo đói nhất, để công dân của họ không phải dùng đến các giải pháp bạo lực hoặc ảo tưởng, hoặc phải rời bỏ đất nước của họ để tìm kiếm một cuộc sống đàng hoàng hơn”. [3]
Chiến tranh luôn là một thất bại! Sự liên lụy của thường dân, đặc biệt là trẻ em, và sự phá hủy cơ sở hạ tầng không chỉ là một thảm họa, mà về cơ bản có nghĩa là giữa hai bên chỉ có cái ác mới là kẻ chiến thắng. Chúng ta không thể chấp nhận việc ném bom vào thường dân hoặc tấn công các cơ sở hạ tầng cần thiết cho sự sống còn của họ. Chúng ta không thể chấp nhận rằng trẻ em chết cóng vì bệnh viện đã bị phá hủy hoặc mạng lưới năng lượng của một quốc gia đã bị tấn công.
Toàn bộ cộng đồng quốc tế dường như đều đồng ý về nhu cầu tôn trọng luật nhân đạo quốc tế, nhưng việc không thực hiện đầy đủ và cụ thể luật đó đã đặt ra nhiều câu hỏi. Nếu chúng ta đã quên mất điều gì nằm ở nền tảng của sự hiện hữu của chúng ta, tính thánh thiêng của sự sống, các nguyên tắc tác động đến thế giới, thì làm sao chúng ta có thể nghĩ rằng quyền này được tôn trọng một cách hiệu quả? Chúng ta cần khôi phục những giá trị này và đưa chúng vào những nguyên tắc của lương tâm công chúng, để nguyên tắc nhân đạo thực sự trở thành nền tảng cho hoạt động của chúng ta. Do đó, tôi tin rằng năm thánh này sẽ là thời điểm thuận lợi để cộng đồng quốc tế có những bước đi tích cực nhằm đảm bảo rằng các quyền bất khả xâm phạm của con người không bị hy sinh vì nhu cầu quân sự.
Trên cơ sở này, tôi yêu cầu các nỗ lực được thực hiện để tiếp tục đảm bảo rằng việc coi thường luật nhân đạo quốc tế không còn là một lựa chọn nữa. Cũng cần có nhiều nỗ lực hơn nữa để đảm bảo rằng các vấn đề được thảo luận tại Hội nghị Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế lần thứ 34 diễn ra vào tháng 10 năm ngoái tại Geneva sẽ được thực hiện. Kỷ niệm 75 năm Công ước Geneva vừa được kỷ niệm, và vẫn còn cấp thiết rằng các chuẩn mực và nguyên tắc mà các Công ước này dựa trên sẽ được thực hiện ở quá nhiều chiến trường mở.
Trong số đó, tôi nghĩ đến các cuộc xung đột khác nhau vẫn đang diễn ra ở lục địa châu Phi, đặc biệt là ở Sudan, Sahel, Sừng châu Phi, Mozambique, nơi đang diễn ra một cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng, và ở các khu vực phía đông của Cộng hòa Dân chủ Congo, nơi người dân phải chịu đựng nhu cầu y tế và nhân đạo nghiêm trọng, đôi khi còn trầm trọng hơn bởi tệ nạn khủng bố, dẫn đến mất mát về người và hàng triệu người phải di dời. Ngoài ra, chúng ta có thể thêm vào đó những tác động tàn khốc của lũ lụt và hạn hán, làm trầm trọng thêm tình hình vốn đã bấp bênh ở nhiều nơi khác nhau của châu Phi.
Tuy nhiên, viễn cảnh về một nền ngoại giao tha thứ không chỉ nhằm mục đích chữa lành các cuộc xung đột quốc tế hay khu vực. Nó khiến mọi người có trách nhiệm trở thành một nghệ nhân hòa bình, để xây dựng các xã hội thực sự hòa bình, trong đó những khác biệt chính đáng về chính trị, nhưng cũng về xã hội, văn hóa, sắc tộc và tôn giáo tạo nên một tài sản chứ không phải là nguồn gốc của sự thù hận và chia rẽ.
Tôi đặc biệt nghĩ đến Myanmar, nơi người dân phải chịu đựng rất nhiều đau khổ vì các cuộc đụng độ vũ trang liên miên buộc mọi người phải rời bỏ nhà cửa và sống trong sợ hãi.
Thật đau lòng khi thấy rằng vẫn còn, đặc biệt là ở châu Mỹ, nhiều tình huống xung đột chính trị và xã hội gay gắt. Tôi nghĩ đến Haiti, nơi tôi tin rằng các bước cần thiết có thể được thực hiện càng sớm càng tốt để tái lập trật tự dân chủ và chấm dứt bạo lực. Tôi cũng nghĩ đến Venezuela và cuộc khủng hoảng chính trị nghiêm trọng mà nước này đang trải qua, cuộc khủng hoảng này chỉ có thể vượt qua được bằng sự tuân thủ chân thành các giá trị của sự thật, công lý và tự do, bằng sự tôn trọng mạng sống, phẩm giá và quyền của mọi người, kể cả những người bị bắt do các biến cố trong những tháng gần đây, bằng sự từ chối mọi hình thức bạo lực và, chúng ta hãy hy vọng, bằng sự bắt đầu các cuộc đàm phán một cách thiện chí và hướng đến lợi ích chung của đất nước. Tương tự như vậy, tôi nghĩ đến Bolivia, nơi đang trải qua tình hình chính trị, xã hội và kinh tế đáng lo ngại, và Colombia, nơi tôi tin rằng với sự giúp đỡ của mọi người, nhiều cuộc xung đột đã xé nát đất nước này từ lâu có thể chấm dứt. Cuối cùng, tôi nghĩ đến Nicaragua, nơi Tòa thánh, luôn cởi mở với đối thoại tôn trọng và mang tính xây dựng, quan tâm theo dõi các biện pháp chống lại cá nhân và các tổ chức của Giáo hội và yêu cầu tự do tôn giáo và các quyền cơ bản khác phải được đảm bảo đầy đủ cho tất cả mọi người.
Cuối cùng, không thể có hòa bình thực sự nếu không có sự đảm bảo về tự do tôn giáo, bao gồm tôn trọng lương tâm của cá nhân và khả năng công khai biểu lộ đức tin và tư cách thành viên của một người trong cộng đồng. Về vấn đề này, những biểu thức ngày càng gia tăng của chủ nghĩa bài Do Thái, mà tôi lên án mạnh mẽ và ảnh hưởng đến ngày càng nhiều cộng đồng Do Thái trên khắp thế giới, là nguồn gốc của mối quan tâm sâu xa.
Tôi cũng không thể im lặng về nhiều cuộc đàn áp chống lại nhiều cộng đồng Kitô giáo khác nhau, thường do các nhóm khủng bố thực hiện, đặc biệt là ở Châu Phi và Châu Á. Cũng không thể im lặng về các hình thức hạn chế tự do tôn giáo "kín đáo" hơn đôi khi cũng được tìm thấy ở Châu Âu, nơi các chuẩn mực pháp lý và thông lệ hành chính đang gia tăng, "hạn chế hoặc trên thực tế hủy bỏ các quyền được Hiến pháp chính thức công nhận đối với các tín hữu cá nhân và các nhóm tôn giáo". [4] Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại rằng tự do tôn giáo tạo “thành tựu cho nền văn hóa chính trị và pháp lý lành mạnh”, [5] bởi vì khi nó “được thừa nhận, phẩm giá của con người được tôn trọng tận gốc rễ, và bản sắc và thể chế của các dân tộc được củng cố”. [6]
Các Ki-tô hữu có khả năng và mong muốn tích cực đóng góp vào việc xây dựng xã hội nơi họ sinh sống. Ngay cả khi họ không phải là đa số trong xã hội, họ vẫn là công dân theo đúng nghĩa của mình, đặc biệt là ở những vùng đất mà họ đã sinh sống từ thời xa xưa. Tôi đặc biệt nói đến Syria, đất nước sau nhiều năm chiến tranh và tàn phá, dường như đang theo đuổi con đường ổn định. Tôi hy vọng rằng toàn vẹn lãnh thổ, sự thống nhất của người dân Syria và các cải cách hiến pháp cần thiết sẽ không bị bất cứ ai xâm phạm, và cộng đồng quốc tế sẽ giúp Syria trở thành vùng đất chung sống hòa bình, nơi tất cả người dân Syria, bao gồm cả cộng đồng Kitô giáo, có thể cảm thấy mình là công dân trọn vẹn và cùng chia sẻ lợi ích chung của quốc gia thân yêu đó.
Tôi cũng nghĩ đến đất nước Lebanon thân yêu, và bày tỏ hy vọng rằng đất nước này, với sự giúp đỡ quyết liệt của cộng đồng Kitô giáo, có thể có được sự ổn định về mặt thể chế cần thiết để giải quyết tình hình kinh tế và xã hội nghiêm trọng, tái thiết miền Nam đất nước bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, và thực hiện đầy đủ Hiến pháp và Hiệp định Taif. Mong rằng tất cả người dân Lebanon sẽ làm việc để đảm bảo rằng đất nước cây tuyết tùng vĩ đại không bao giờ bị chia rẽ làm biến dạng, mà thay vào đó được nổi bật vì “sống chung”. Mong rằng Lebanon vẫn là một quốc gia và là thông điệp về sự chung sống và hòa bình.
Công bố tự do cho những người bị cầm tù
Hai nghìn năm của Kitô giáo đã giúp xóa bỏ chế độ nô lệ khỏi mọi hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, nhiều hình thức nô lệ vẫn tồn tại, bắt đầu từ hình thức nô lệ ít được thừa nhận nhưng được thực hành rộng rãi liên quan đến lao động. Quá nhiều người sống như nô lệ cho công việc của họ, từ một phương tiện trở thành mục đích, và thường bị xiềng xích vào các điều kiện làm việc vô nhân đạo về mặt an toàn, giờ làm việc và tiền lương. Cần phải nỗ lực để tạo ra các điều kiện làm việc có phẩm giá, để công việc, bản thân nó đã cao quý và đáng trân trọng, không trở thành rào cản đối với sự hoàn thiện và phát triển của con người. Đồng thời, cần phải đảm bảo rằng có các cơ hội việc làm thực sự, đặc biệt là khi tình trạng thất nghiệp lan rộng khuyến khích làm việc không khai báo và do đó là tội phạm.
Sau đó là chế độ nô lệ khủng khiếp của cảnh nghiện ma túy, ảnh hưởng đặc biệt đến những người trẻ tuổi. Thật không thể chấp nhận được khi chứng kiến số lượng cuộc sống, gia đình và quốc gia bị hủy hoại bởi tệ nạn này, vốn đang có chiều hướng gia tăng, một phần là do sự xuất hiện của các loại thuốc tổng hợp thường gây chết người, được bán rộng rãi do hậu quả của hiện tượng buôn bán ma túy tàn bạo.
Trong số các hình thức nô lệ khác trong thời đại của chúng ta, một trong những hình thức khủng khiếp nhất là nạn buôn người do những kẻ vô đạo đức lợi dụng nhu cầu của hàng nghìn người chạy trốn chiến tranh, nạn đói, sự đàn áp hoặc tác động của biến đổi khí hậu để tìm kiếm một nơi an toàn để sống. Ngoại giao hy vọng là ngoại giao tự do, đòi hỏi sự cam kết chung của cộng đồng quốc tế nhằm xóa bỏ nạn buôn bán kinh hoàng này.
Đồng thời, cần phải chăm sóc các nạn nhân của nạn buôn người này, chính những người di cư, những người buộc phải đi bộ hàng nghìn km ở Trung Mỹ hoặc sa mạc Sahara, hoặc băng qua Biển Địa Trung Hải hoặc Eo biển Manche trên những chiếc thuyền tạm bợ chật cứng, chỉ để rồi bị từ chối hoặc buộc phải sống bí mật ở một quốc gia xa lạ. Chúng ta dễ quên rằng chúng ta đang đối phó với những con người thực sự cần được chào đón, bảo vệ, thúc đẩy và hòa nhập. [7]
Tôi thấy rất nản lòng khi thấy rằng di cư vẫn bị bao phủ trong một đám mây đen ngờ vực, thay vì được coi là nguồn trao quyền. Những người di cư chỉ được coi là một vấn đề cần được quản lý. Họ không thể bị đối xử như những đồ vật để di chuyển đó đây; họ có phẩm giá và nguồn lực mà họ có thể cung cấp cho người khác; họ có những trải nghiệm, nhu cầu, nỗi sợ hãi, khát vọng, ước mơ, kỹ năng và tài năng của riêng mình. Chỉ khi nhìn nhận mọi sự theo góc độ này, chúng ta mới có thể đạt được tiến bộ trong việc đối diện với một hiện tượng đòi hỏi sự đóng góp của tất cả các quốc gia, đặc biệt thông qua việc tạo ra các con đường an toàn thường xuyên.
Sau đó, điều quan trọng là chúng ta phải giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của sự di dời, để việc rời bỏ quê hương để tìm kiếm nơi khác là một lựa chọn chứ không phải là phương tiện cần thiết để sống còn. Với suy nghĩ này, tôi coi một cam kết chung về hợp tác phát triển, như một phương tiện giúp loại bỏ một số nguyên nhân khiến mọi người di cư, là điều cần thiết.
Trả tự do cho tù nhân
Cuối cùng, ngoại giao hy vọng là ngoại giao công lý, nếu không có nó thì không thể có hòa bình. Năm Thánh là thời điểm thuận lợi để thực hành công lý, xóa nợ và giảm án cho tù nhân. Tuy nhiên, không có khoản nợ nào cho phép bất cứ ai, kể cả Nhà nước, đòi mạng người khác. Về vấn đề này, tôi xin nhắc lại lời kêu gọi xóa bỏ án tử hình ở mọi quốc gia, [8] vì án tử hình hiện không tìm thấy lý do chính đáng nào trong số các công cụ có khả năng khôi phục công lý.
Chúng ta cũng không thể quên rằng, theo một nghĩa nào đó, tất cả chúng ta đều là tù nhân, vì tất cả chúng ta đều là con nợ: đối với Thiên Chúa, đối với người khác và đối với trái đất thân yêu của chúng ta, nơi chúng ta lấy thức ăn hàng ngày. Như tôi đã nêu trong Thông điệp hàng năm của mình cho Ngày Hòa bình Thế giới, “mỗi người chúng ta phải cảm thấy có trách nhiệm, một cách nào đó, đối với sự tàn phá mà Trái đất, ngôi nhà chung của chúng ta, đã phải chịu đựng”. [9] Bản thân thiên nhiên dường như ngày càng nổi loạn chống lại hành động của con người bằng những biểu hiện cực đoan về sức mạnh của nó. Ví dụ về điều này là lũ lụt tàn khốc ở Trung Âu và Tây Ban Nha, các cơn bão tấn công Madagascar vào mùa xuân và ngay trước Giáng sinh, là Mayotte và Mozambique thuộc Pháp.
Chúng ta không thể thờ ơ trước tất cả những điều này! Chúng ta không có quyền đó! Thay vào đó, chúng ta có nghĩa vụ phải nỗ lực hết sức để chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta và cư dân của nó, hiện tại và trong tương lai.
Tại COP 29 ở Baku, các quyết định đã được đưa ra để đảm bảo nguồn tài chính lớn hơn cho hành động ứng phó với biến đổi khí hậu. Tôi tin rằng những quyết định này sẽ cho phép chia sẻ nguồn lực cho nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng khí hậu và gánh chịu gánh nặng nợ kinh tế. Với suy nghĩ này, tôi yêu cầu các quốc gia giàu có xóa nợ cho các quốc gia sẽ không bao giờ có thể trả hết nợ. Đây không chỉ là hành động liên đới hay hào phóng, mà trên hết là hành động công lý, cũng xét đến một hình thức bất bình đẳng mới mà chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn: “món nợ sinh thái” hiện hữu một cách đặc biệt giữa Bắc và Nam bán cầu. [10]
Cũng xét đến món nợ sinh thái này, điều quan trọng là phải tìm ra những cách hiệu quả để chuyển đổi nợ nước ngoài của các nước nghèo thành các chính sách và chương trình hiệu quả, sáng tạo và có trách nhiệm nhằm thúc đẩy sự phát triển toàn diện con người. Tòa thánh sẵn sàng đồng hành cùng tiến trình này, vì nhận thức rằng không còn bất cứ biên giới hay rào cản nào, chính trị hay xã hội, mà đàng sau chúng, chúng ta có thể ẩn náu. [11]
Trước khi kết thúc, tôi xin bày tỏ lời chia buồn và lời cam kết cầu nguyện cho các nạn nhân và những người đang phải chịu đau khổ vì trận động đất tấn công Tây Tạng hai ngày trước.
Các Đại sứ thân mến,
Theo quan điểm Kitô giáo, Năm Thánh là mùa ân sủng. Tôi mong muốn năm 2025 thực sự là năm ân sủng, tràn đầy chân lý, ơn tha thứ, tự do, công lý và hòa bình! “Trong trái tim của mỗi người, hy vọng ngự trị như mong muốn và kỳ vọng về những điều tốt đẹp sẽ đến”, [12] và mỗi người chúng ta được kêu gọi làm cho hy vọng nở rộ xung quanh chúng ta. Đây là lời chúc chân thành của tôi dành cho tất cả quý vị, thưa các Đại sứ thân mến, cho gia đình quý vị, và cho các chính phủ và dân tộc mà quý vị đại diện. Mong rằng hy vọng nở rộ trong trái tim chúng ta và mong rằng thời đại của chúng ta tìm được sự bình yên mà nó vô cùng khao khát. Cảm ơn quý vị.
_______________________
[1] Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3 tháng 10 năm 2020), 27.
[2] Cf.Cuộc gặp gỡ các Nhà chức trách dân sự, Đại diện của các Dân tộc bản địa và Đoàn ngoại giao, Citadelle de Québec, ngày 27 tháng 7 năm 2022.
[3] Thông điệp Fratelli Tutti (ngày 3 tháng 10 năm 2020), 262; cf. THÁNH PHAOLÔ VI, Thông điệp Populorum Progressio (26 tháng 3 năm 1967), 51.
[4] THÁNH GH Gioan Phaolô II, Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình năm 1988, 1 tháng 1 năm 1988, 2.
[5] Đức Bê-nê-đic-tô XVI, Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình năm 2011, 1 tháng 1 năm 2011, 5.
[6] Ibid.
[7] Cf. Diễn văn gửi đến những người tham dự Diễn đàn Quốc tế về “Di cư và Hòa bình”, 21 tháng 2 năm 2017.
[8] Cf. Sứ điệp Ngày Thế giới Hòa bình năm 2025, 1 tháng 1 năm 2025, 11.
[9] Ibid., 4.
[10] Cf. Tông huấn Spes Non Confundit (9 tháng 5 năm 2024), 16; Thông điệp Laudato Si’ (24 tháng 5 năm 2015), 51.
[11] Xem Thông điệp Laudato Si’, 52.
[12] Sắc chỉ Spes Non Confundit, 1.