Văn kiện mới của Ủy Ban Thần học Quốc tế: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Rỗi, để Kỷ niệm 1,700 năm [325-2025] Công đồng Nicée



Chương 3: Nicée như một biến cố thần học và như một biến cố tôn giáo



70. Kỷ niệm Công đồng Nicée là nắm bắt được cách Công đồng vẫn luôn mới mẻ, từ sự mới mẻ cánh chung được khai mạc vào sáng lễ Phục sinh, tiếp tục đổi mới Giáo hội 1,700 năm sau biến cố phục sinh. Thật vậy, đây thực sự là một biến cố theo nghĩa mạnh mẽ, một bước ngoặt là một phần của cái nền lịch sử với những mối liên kết của nó nhưng cũng là điểm tập trung, tạo nên sự mới mẻ thực sự và có ảnh hưởng quyết định đến những gì xảy ra sau đó. Theo các ngôn ngữ, thuật ngữ "biến cố" ám chỉ những gì xảy ra, ad-ventus (Avènement, Avent, avvenimento), hoặc những gì xuất phát từ (évènement, event), đến việc tạo ra một sự kiện (acontecimiento) hoặc đến sự xuất hiện của cái mới (Ereignis). Như vậy, Công đồng Nicée là biểu thức của một bước ngoặt xảy ra, khởi nguồn, được tạo ra, được biểu lộ trong tư tưởng của con người, được gợi ra bởi Sự mặc khải của Thiên Chúa Ba Ngôi trong Chúa Giêsu, Đấng làm phong phú tinh thần con người bằng cách ban cho nó những nội dung mới và những khả năng mới. Đây là “Biến cố của Khôn ngoan”. Tương tự như vậy, Nicée, sau này được gọi là công đồng chung đầu tiên, cũng là biểu thức của một bước ngoặt trongènemen cách thức Giáo hội tự xây dựng và đảm bảo sự hiệp nhất cũng như chân lý của tín lý thông qua cùng một lời tuyên xưng đức tin: đó là một "biến cố của Giáo hội". Rõ ràng, trong cả hai trường hợp, sự mới lạ đều dựa trên một quá trình trước đó, trên một thực tại nhất định, chính thực tại được nó biến đổi. Biến cố Khôn ngoan giả định nền văn hóa nhân bản, có thể nói là giả định nó để thanh lọc và biến đổi nó. Biến cố tôn giáo này dựa trên sự phát triển trước đó của các cấu trúc Giáo hội trong những thế kỷ đầu tiên, bản thân nó dựa trên di sản Do Thái và Hy Lạp-La Mã.

71. Thế mà, nguồn gốc của hai biến cố này lại là một biến cố khác, do sáng kiến thần linh, biến cố Mặc khải của Thiên Chúa, “biến cố Chúa Giêsu Kitô.” Đây chính là sự mới lạ tuyệt vời nhất: Novus chính là Novum [111]. Đây chính là sự Mặc khải, trong khi Biến cố Khôn ngoan và Biến cố Giáo hội là một phần của việc truyền đạt ơn phúc nguyên thủy này [112]. Trong đó, Thiên Chúa lập giao ước với một dân tộc để lập giao ước với mọi dân tộc, Người đảm nhận một nhân tính để đảm nhận toàn thể nhân loại. Công đồng Nicée là biểu thức và là hoa trái của Sự mới mẻ trong Mặc khải, và đây là lý do tại sao Công đồng năm 325 đưa ra một mô hình cho từng giai đoạn đổi mới tư tưởng Kitô giáo, cũng như các cơ cấu của Giáo hội. Hơn nữa, vì Công đồng Nicée phát sinh từ Novum là Chúa Kitô, nên nó có thể được hiểu theo cách luôn đổi mới và liên tục làm phong phú thêm đời sống của Giáo hội. Do đó, vấn đề đặt ra là trước tiên phải khám phá biến cố nguồn, biến cố Chúa Giêsu Kitô, để sau đó xem xét hậu quả của nó đối với tư tưởng con người và cơ cấu của Giáo hội.

1. Biến cố Chúa Kitô: “Không ai thấy Thiên Chúa cả. Nhưng Con Một đã mặc khải điều đó” (Ga 1:18)

1.1 Chúa Kitô, Ngôi Lời Nhập Thể, mặc khải Chúa Cha

72. Kinh Tin Kính Nicée là sự diễn đạt, là việc diễn đạt thành lời, về một con đường đến với Thiên Chúa chưa từng có, chắc chắn và cứu rỗi trọn vẹn, được ban tặng qua biến cố Chúa Giêsu Kitô. Trong sự nhập thể, cuộc sống, cuộc Khổ nạn, sự Phục sinh và Lên trời của Ngôi Lời đồng bản thể với Chúa Cha, được chứng thực trong Kinh thánh và trong đức tin của Giáo hội tông đồ, Thiên Chúa semper major ban tặng, theo sáng kiến của riêng Người, một kiến thức và sự tiếp cận với chính Người mà chỉ Người mới có thể ban tặng, và bản thân chúng vượt quá những gì con người có thể tưởng tượng hoặc thậm chí hy vọng [113]. Trên thực tế, Tân Ước truyền đạt cho Giáo hội mọi thời đại, qua nhiều thế kỷ, lời chứng mà Chúa Giêsu đã đưa ra về chính mình và Chúa Cha, trong ánh sáng và quyền năng của Chúa Thánh Thần, đã xác nhận một lần mãi mãi [114] trong Lễ Vượt Qua của cái chết, sự phục sinh và sự lên trời của Chúa Con đã thành xác phàm, của sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần vào Lễ Ngũ Tuần, trong thời điểm viên mãn, "propter nos et propter nostram salutem [vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi cúng tôi]." Vì thế, nếu đúng là "chưa từng có ai thấy Thiên Chúa", thì đức tin của Giáo hội chứng thực rằng Chúa Giêsu, "Con một của Chúa Cha, đã mặc khải Người cho chúng ta" (Ga 1:18; x. Ga 3:16, 18 và 1 Ga 4:9). Lời chứng này được tóm tắt trong câu trả lời mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho tông đồ Philip khi ông hỏi Người: “Lạy Chúa, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là đủ.” Và Chúa Giêsu trả lời ông:

"Philippe, thầy ở bên anh lâu như vậy mà anh không biết thầy sao? Ai đã thấy Thầy là đã thấy Cha. Làm sao anh có thể nói: Xin cho chúng con thấy Chúa Cha? Anh không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Những lời thầy nói với anh em, thầy không tự mình nói ra! Ngược lại, chính Chúa Cha là Đấng ngự trong thầy và hoàn tất những công trình của Người (Ga 14:8-11).

73. Nếu Chúa Giêsu tỏ cho thấy Chúa Cha, thì mọi sự trong Người đều dẫn đến Chúa Cha. Đức Kitô trong bản tính nhân loại mỏng manh và dễ bị tổn thương của Người là biểu thức đích thực của Thiên Chúa Cha: “ai thấy Người là thấy Chúa Cha” (x. Ga 14:9) [115]. Điều đó có nghĩa là Chúa không ẩn mình trước tiên ở đồi Golgotha dưới sự bất lực của Đấng bị đóng đinh để rồi tự biểu lộ, vào sáng lễ Phục sinh, cuối cùng chính Người, cuối cùng là Đấng toàn năng. Ngược lại, tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Đấng để mình bị đóng đinh và chịu chết về mặt thể xác, xuống nơi tội nhân bị giam cầm bởi tội lỗi (šəʾôl hay địa ngục), là sự mặc khải về Tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng không hành động bằng vũ lực, nhưng mạnh mẽ hơn sự chết và tội lỗi. Chính trước cây thập giá, thánh Máccô đã bảo một viên đại đội trưởng ngoại giáo nói: "Quả thật, người này là Con Thiên Chúa" (Mc 15:39). Như Đức Giáo Hoàng Benedict XVI đã phát biểu trong cuốn sách về Chúa Giêsu:

"Thập giá chính là “đỉnh cao” đích thực. Đây là đỉnh cao của tình yêu “cho đến cùng” (Ga 13:1). Trên thập giá, Chúa Giêsu “ở trên đỉnh”, ngang bằng với Thiên Chúa là tình yêu. Đây là nơi chúng ta có thể “biết” Người, nơi chúng ta có thể hiểu được câu “Ta là”.

Bụi cây cháy là cây thập giá. Tham vọng cao nhất của sự mặc khải, “Ta là” và thập giá của Chúa Giêsu là không thể tách rời" [116].

74. Sự hiểu biết về Thiên Chúa qua Chúa Kitô không chỉ cung cấp một nội dung tín lý đơn thuần, nhưng đưa con người vào mối hiệp thông cứu rỗi với Thiên Chúa, vì có thể nói, nó đưa con người vào chính trung tâm của thực tại, hay đúng hơn, của con người cần được biết đến và yêu thương. Lời mở đầu của Tin mừng thánh Gioan là lời diễn tả sự chiêm niệm cao nhất về mầu nhiệm Thiên Chúa đã được biểu lộ cho chúng ta nơi Chúa Giêsu để chúng ta có thể, trong ân sủng của Chúa Thánh Thần được đổ tràn "vô hạn" (Ga 3:34), bước vào chính sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi được Ngôi Lời mặc khải. Hình ảnh của Logos này không chỉ phản ảnh Logos thần thiêng được nhận thức bởi tư tưởng Hy Lạp, mà còn sâu sắc hơn nữa, phản ảnh di sản Cựu Ước của Lời Chúa, Dābār được Cựu Ước chứng thực. Vì sự mặc khải đã được ban cho Israel và được truyền lại trong Cựu Ước đã mang đến một kiến thức hoàn toàn mới về Thiên Chúa, mở đầu cho biến cố Mặc Khải này. Ngôi Lời này, tức là Chúa Con, "Thiên Chúa bởi Thiên Chúa", là Đấng từ ban đầu đã ở cùng Thiên Chúa, giống như Ngôi Lời diễn tả Người trong mọi chân lý, Người cũng là Thiên Chúa giống như Chúa Cha. Khi thời gian viên mãn, Ngôi Lời “đã trở nên xác phàm và dựng lều giữa chúng ta” (Ga 1:14), để những ai đón nhận Người sẽ nhận được “quyền năng (exousia) trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1:14). Bằng cách cho phép con người được hiệp thông trọn vẹn với Người, Ngôi Lời đã trở nên xác phàm đã “khiến họ trở thành những người thông phần vào bản tính thần linh.” [117]

75. Sự hiểu biết và hiệp thông đích thực và chưa từng có này với Thiên Chúa cũng mang lại sự hiệp thông cứu rỗi với anh chị em trong nhân loại được Thiên Chúa yêu thương, bởi vì biến cố Chúa Giêsu Kitô là sự hiệp thông không thể tách rời với Thiên Chúa và với mọi con người. Đức tin của Giáo hội Tông truyền làm chứng cho sự hiệp thông này trong Chúa Kitô và qua Chúa Kitô, trong sự hiệp thông Ba Ngôi:

"Điều đã có từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống [...] chúng tôi cũng rao truyền cho anh em, để anh em cũng được thông công với chúng tôi. Sự hiệp thông của chúng ta là với Chúa Cha và với Chúa Con, Chúa Giêsu Kitô. Chúng tôi viết những điều này cho anh em để niềm vui của chúng ta được trọn vẹn (1 Gioan 1:1.3-4)".

Truyền thống thần học nhấn mạnh rằng lòng bác ái khiến chúng ta yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, bao lâu họ là bạn của Thiên Chúa [118]. Chúng ta có thể nghĩ rằng ba nhân đức đối thần dẫn chúng ta đến một sự hiểu biết hoàn toàn mới mẻ về Thiên Chúa và sự hiệp thông với Người. Nhưng theo cách tiếp cận mới với Thiên Chúa mà chúng mang lại, chúng cũng tự tạo cho mình một con đường đức tin hướng đến tình huynh đệ, một niềm hy vọng đáng kinh ngạc vào người lân cận và lòng bác ái này tha thứ mọi thứ và thúc đẩy người ta hiến thân.

1.2 “Chúng ta có suy nghĩ (νοῦς) của Chúa Kitô” (1 Cr 2:16): loại suy của sáng tạo và loại suy của lòng bác ái

76. Biến cố Chúa Giêsu Kitô, bằng cách ban cho chúng ta con đường đến với Thiên Chúa theo cách không gì sánh bằng, vừa khơi dậy vừa hàm ý một "con đường" đến với Người, một con đường mới mẻ và độc đáo: đón nhận Kinh Tin kính trong đức tin và bằng trí thông minh của mình, tốt hơn nữa, là đón nhận Thiên Chúa tự biểu lộ chính Người ở đó, đưa chúng ta vào trong cái nhìn của Chúa Kitô đồng bản thể với Chúa Cha, vào trong "suy nghĩ" hay chính tâm trí của Chúa Kitô và vào trong mối quan hệ của Người với Chúa Cha và với tha nhân. “Chúng ta có suy nghĩ của Chúa Kitô (noun Christou),” Thánh Phaolô thốt lên (1 Cr 2:16) [119]. Đó là tiếng kêu của sự ngưỡng mộ. Một lần nữa Công đồng Nicée cho thấy món quà vô giá của Thiên Chúa. Nhưng Nicée cũng chỉ ra rằng đây là cách duy nhất để hiểu được những gì Kinh Tin Kính diễn đạt, cả trong sự việc (res) lẫn trong bản văn. Chúng ta không thể chiêm ngưỡng và tham dự vào Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, vào ơn cứu chuộc dành cho chúng ta, vào vẻ đẹp của Giáo hội và ơn gọi của con người, nếu không “có suy nghĩ của Chúa Kitô”. Không chỉ đơn thuần bằng cách biết đến Chúa Kitô, mà còn bằng cách bước vào chính trí thông minh của Chúa Kitô, theo nghĩa sở hữu chủ quan. Người ta không thể hoàn toàn tuân thủ Kinh Tin kính cũng như tuyên xưng nó bằng cả con người mình mà không có “sự khôn ngoan không thuộc về thế gian này”, “được Chúa Thánh Thần mặc khải”, Đấng duy nhất “dò thấu những điều sâu thẳm của Thiên Chúa” (x. 1 Cr 2:6.10):

"Trong đức tin, Chúa Kitô không chỉ là Đấng mà chúng ta tin – là biểu hiện vĩ đại nhất của tình yêu Thiên Chúa – mà còn là Đấng mà chúng ta kết hợp với để có thể tin. Đức tin không chỉ hướng về Chúa Giêsu, mà còn nhìn từ quan điểm của Chúa Giêsu, bằng đôi mắt của Người: đó là sự tham gia vào cách nhìn của Người. […] Cuộc sống của Chúa Kitô, cách Người biết Chúa Cha, cách Người sống hoàn toàn trong mối quan hệ với Chúa Cha, mở ra một không gian mới cho trải nghiệm của con người và chúng ta có thể bước vào đó" [120].

77. Điều này có thể xảy ra vì Chúa Kitô nhìn thấy Chúa Cha qua đôi mắt con người của Người và mời gọi chúng ta bước vào trong cái nhìn của Người. Mặt khác, con đường này đòi hỏi một sự biến đổi sâu sắc trong suy nghĩ và tâm trí của chúng ta, phải trải qua sự hoán cải và nâng cao: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người bằng cách đổi mới tâm trí” (Rm 12:2). Đây chính là những gì biến cố Chúa Giêsu Kitô mang lại: trí thông minh, ý chí và khả năng yêu thương thực sự được cứu rỗi bởi Mặc Khải được công bố tại Nicée. Chúng được thanh lọc, định hướng và biến đổi. Chúng mang một sức mạnh mới, hình thức và nội dung chưa từng có. Các khả năng của chúng ta chỉ có thể bước vào sự hiệp thông với Chúa Kitô bằng cách trở nên giống Người, trong một tiến trình khiến các tín hữu “giống như (symmorphizomenos)” (Pl 3:10) Đấng chịu đóng đinh và phục sinh ngay cả trong tâm trí họ. Tư tưởng mới này được đặc trưng bởi sự gắn kết không thể tách rời giữa kiến thức và tình yêu. Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chỉ ra: “Thánh Grégoire Cả đã viết rằng ‘amor ipse notitia est,’ bản thân tình yêu là kiến thức, nó mang trong mình một luận lý mới. [121]” Đó là kiến thức thương xót và đầy lòng trắc ẩn, vì lòng thương xót là bản chất của Tin mừng [122] và phản ảnh chính bản chất của Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Nicée. Tâm trí [mens]được đổi mới ngụ ý sự hiểu biết về phép loại suy được xem xét lại dưới ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Kitô. Nó giữ lại những gì chúng ta có thể gọi là “phép loại suy của sự sáng tạo”, nhờ đó chúng ta nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa trong sự bình an của trật tự vũ trụ[123], và những gì chúng ta có thể gọi là “phép loại suy của lòng bác ái”.[124] Phép loại suy này, có thể nói là đảo ngược, trước mầu nhiệm của sự gian ác và hủy diệt nhưng được soi sáng bởi mầu nhiệm mạnh mẽ hơn của Cuộc Khổ nạn và Phục sinh của Chúa Kitô, nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu giữa sự yếu đuối và đau khổ. Sự khôn ngoan của Chúa Kitô được mô tả trong Thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rinh-tô là điều “làm cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ”:

"Vì Chúa Ki-tô chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin mừng, và không dùng lời lẽ khôn ngoan của loài người, khiến cho thập giá của Chúa Ki-tô trở nên vô giá trị. Vì lời giảng về thập giá là sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đường hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người đang trên đường cứu rỗi, thì đó là quyền năng của Thiên Chúa. Vì Kinh Thánh chép rằng: “Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của người khôn ngoan, và sẽ loại bỏ sự hiểu biết của người hiểu biết." Người khôn ngoan ở đâu? Người kinh sư ở đâu? Người lý luận ở đâu bên dưới này? Chẳng phải Thiên Chúa đã làm cho sự khôn ngoan của thế gian ra điên rồ sao? Vì thế gian, qua mọi sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đã không nhận biết Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã vui lòng dùng sự điên rồ của việc rao giảng Tin nừng để cứu những người tin (1 Cô-rinh-tô 1:17-25)".

Sự hoán cải và biến hình này không thể diễn ra nếu không có ân sủng. Trí thông minh của con người bộc lộ bản chất được sắp xếp theo ân sủng và dựa vào ân sủng để trở thành chính nó một cách trọn vẹn, giống như chính con người vậy [125]. Đây là điều cho phép chúng ta hiểu được cách các khả năng của con người được phục hồi và biến đổi nhờ biến cố Chúa Giêsu Kitô được đưa đến sự viên mãn bằng cách triển khai các phương thức đức tin, đức cậy và đức mến, hoa trái đầu mùa trong thế giới này của cuộc sống vinh quang: "Anh em hãy có những tâm tình như Chúa Kitô Giêsu" (Pl 2:5).

1.3 Sự gia nhập đối thần vào việc hiểu biết Chúa Cha qua lời cầu nguyện của Chúa Kitô

78. Làm thế nào chúng ta có thể đi vào “suy nghĩ của Chúa Kitô” được đưa ra bởi biến cố Chúa Giêsu Kitô? Bởi vì Chúa Giêsu Kitô không chỉ là một giáo viên hay người hướng dẫn, mà chính là sự mặc khải và sự thật của Thiên Chúa, nên những người tiếp nhận Người không chỉ là người nhận được sự hướng dẫn. Bởi vì con người của Đấng Phục Sinh không phải là đối tượng của quá khứ, nên bất cứ ai muốn hiểu được mầu nhiệm sâu xa của Chúa Giêsu, sự mặc khải của Thiên Chúa trong nhân tính của Người, phải để mình được bao gồm trong mối quan hệ hiệp thông với Chúa Cha. Điều này được thực hiện thông qua đời sống đối thần, đọc Kinh thánh trong Giáo hội, cầu nguyện cá nhân và phụng vụ, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể.

79. Sự tham gia bằng ân sủng vào lời cầu nguyện của Chúa Kitô tạo nên con đường hoàng gia dẫn đến sự nhận biết Chúa Kitô, Đấng mặc khải sự hiểu biết về Chúa Cha (“Cha Ta và Cha các ngươi”, trong Ga 20:17). Joseph Ratzinger / Đức Giáo Hoàng Benedict XVI tuyên bố: "Vì lời cầu nguyện tạo nên chính trung tâm của con người Chúa Giêsu, nên việc tham gia vào lời cầu nguyện của Người trở thành điều kiện để biết và nhận ra Người.[126] "Nói cách khác, sự hiểu biết về Chúa Kitô bắt đầu bằng việc người nhận ra Người bước vào hành vi cầu nguyện của Chúa Giêsu: "Nơi nào không có mối quan hệ với Thiên Chúa, thì Đấng vốn sâu xa không là gì khác ngoài mối quan hệ với Thiên Chúa, với Chúa Cha, không thể thực sự được biết đến hoặc hiểu được.[127]" Và điều đúng với mỗi tín hữu cũng đúng với toàn thể Giáo hội. Chỉ khi nào cộng đồng cầu nguyện được ghi tên trong mối quan hệ giữa Chúa Giêsu với Chúa Cha thì Giáo hội mới là “ sự suy nghĩ [nous]” nhận ra Chúa Kitô như Người được nói đến trong Ga 5:18-20 [128] và trong 1 Ga 3:11. Đây lại là vấn đề về các khẳng định Kitô học của Kinh Tin Kính: "Lời khẳng định trung tâm của tín điều, 'Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha, cùng bản tính với Chúa Cha', tóm tắt toàn bộ chứng từ của các công đồng cổ thời, chỉ đơn giản chuyển dịch biến cố lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sang ngôn ngữ triết học và thần học chuyên ngành, không gì hơn.[129]" Đức tin được diễn tả bởi Công đồng Nicée nảy sinh từ mối quan hệ của Chúa Giêsu với Chúa Cha và đưa mối quan hệ này vào trong đó, để cung cấp cho con người và Giáo hội việc tham gia vào kiến thức và sự hiệp thông của Chúa Giêsu với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.

2. Biến cố Khôn ngoan: Sự mới mẻ cho Tư tưởng nhân bản

2.1 Sự mặc khải làm phong phú và mở rộng tư tưởng nhân bản

80. Bằng cách thiết lập đức tin Kitô học và Ba Ngôi, Kinh Tin Kính Nicée là một phần của phong trào tượng thai (fécondation ) tư tưởng nhân bản, của “sự mở rộng lý trí[130]”, thông qua Mặc khải trong quá trình truyền tải của nó. Thật vậy, sự tiếp cận vô song với Thiên Chúa thông qua biến cố Chúa Giêsu Kitô, cũng như sự tham gia vào tư tưởng (phronēsis) và lời cầu nguyện của Chúa Kitô, không thể không có tác động quyết định đến tư tưởng và ngôn ngữ của con người. Chúng ta đang chứng kiến một “Biến cố Khôn ngoan”, qua đó những điều này phải được mở rộng và được mở rộng bởi Sự mặc khải để nó có thể được tự biểu lộ ở đó. Và trong chính chuyển động này, chúng chứng minh một cách chính xác rằng chúng có khả năng được dẫn dắt vượt qua chính mình. Trong lịch sử của biến cố Khôn ngoan này, Nicée tạo nên một bước ngoặt lớn, “một con đường mới và sống” (Hr 10:20), mà Pavel Florensky đã nắm bắt được tầm quan trọng quyết định của nó, và ông đã diễn đạt bằng những lời lẽ mạnh mẽ:

"Người ta không thể nhớ lại mà không run rẩy một cách thánh thiêng khoảnh khắc duy nhất và mãi mãi có ý nghĩa về mặt triết học và tín điều, khoảnh khắc khi tiếng sấm của "Homoousios" vang lên lần đầu tiên trên Thành phố Chiến thắng [Nicée]. Đây không phải là một câu hỏi cụ thể về thần học, mà là một định nghĩa cấp tiến mà Giáo hội Chúa Kitô tự đưa ra. Thuật ngữ duy nhất này không chỉ diễn đạt tín điều về Chúa Kitô mà còn đưa ra sự đánh giá về mặt tinh thần đối với các quy tắc của lý trí. Chủ nghĩa duy lý đã bị tiêu diệt ở đó. Lần đầu tiên, nguyên tắc mới của hoạt động hợp lý được tuyên bố urbi et orbi [cho thành phố và cho thế giới]" [131].

Ngôi Lời là Đức Kitô nhập thể, Con của Chúa Cha trong sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần, biểu lộ rằng chính Người là thước đo của mọi lời của con người, rằng Người có thể làm cho sống động và mở rộng, nhưng Người cũng có thể là thẩm phán, đặt nó vào cuộc khủng hoảng (krisis) theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Thật vậy, thật đáng chú ý khi quan sát cách Thánh Athanase, trong một phán đoán sâu sắc, coi việc Arius từ chối sự trọn vẹn của hình ảnh Chúa Kitô cấu thành sự phủ nhận lý trí, phủ nhận logos thuần túy và đơn giản: "Bằng cách phủ nhận Logos của Thiên Chúa, họ thấy mình bị tước đoạt chính mọi logos.[132]" Về cơ bản, biến cố Khôn ngoan do biến cố Chúa Giêsu Kitô tạo ra đưa lý trí và tư tưởng của con người đến với ơn gọi cao cả và chân thực nhất của nó. Có thể nói là nó trả lại nó cho chính nó. Vì vậy, như chúng ta sẽ thấy, homoousios không chỉ đơn thuần là một mẫu mực của tính liên văn hóa, mà nó còn thuộc về một biến cố nguyên mẫu, khai mạc và sáng lập sự khôn ngoan của Giáo hội trong tính tông truyền của nó.

81. Biến cố Chúa Giêsu Kitô làm cho một hữu thể học mới trở nên khả hữu, trong chiều kích của Thiên Chúa duy nhất và ba ngôi và Ngôi Lời nhập thể. Lý trí con người đã cho phép chính nó được mở ra và thâm nhập bởi mầu nhiệm, được tiếp cận thông qua sự mặc khải về sáng tạo từ hư không (2 Mt 7:28; Rm 4:17), về sự siêu việt hữu thể học của một Thiên Chúa, tuy nhiên lại gần gũi hơn với mỗi tạo vật hơn là với chính nó[133]. Nó cho phép bản thân được đổi mới từ trên xuống dưới khi nó được thông tin bởi ý nghĩa sâu xa được ban cho mọi sự bởi mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là tình yêu (1 Ga 4:8, 16) – tính khác biệt, tính tương quan, tính hỗ tương, tính nội tâm lẫn nhau kể từ đây tự biểu lộ như chân lý tối hậu và các phạm trù cấu trúc của hữu thể học. Hữu thể thấy mình được soi sáng ở đó và tự chứng tỏ còn phong phú hơn so với những phiên bản triết học trước đó, sâu sắc và phức tạp như chúng vốn có. Hơn nữa, Nicée, bắt đầu từ câu hỏi về Kitô học và cứu thế học để trình bầy Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, phản ảnh rõ cách thức mà tính hiện tượng Kitô học thúc đẩy sự phát minh ra [inventio] học thuyết Ba Ngôi, thông qua động lực giữa trật tự khám phá, Kitô học và Thần khí học, đặt ở tâm điểm của nó, và trật tự thực tại Ba Ngôi, cấu trúc nên học thuyết này. Nicée thúc đẩy việc xem xét thần học bằng sự phản ảnh của Kitô giáo hoặc khám phá về “Ba Ngôi nội tại”. Vì mầu nhiệm Chúa Kitô, được hiện thực hóa trong lịch sử và trong một nhân loại duy nhất, mang lại sự tiếp cận với Thiên Chúa, vật chất và xác thịt, thời gian và lịch sử, sự mới lạ, hữu hạn và mong manh, có được những nét chữ cao quý và sự nhất quán để diễn tả hữu thể. Sâu thẳm bên trong, hữu thể cũng tự biểu lộ qua Mặc Khải, semper major (luôn lớn lao hơn).

82. Biến cố Khôn Ngoan rõ ràng ngụ ý một sự đổi mới về nhân học, đến nỗi biến cố Chúa Giêsu Kitô đã rõi một ánh sáng mới lên hữu thể nhân bản. Chúng ta hãy ngắn gọn gợi lại những khía cạnh được phát triển trong chương đầu tiên của tài liệu này [134]. Nhân chủng học của Kinh thánh đòi hỏi chúng ta phải xem xét lại khái niệm con người dựa trên tính cao quý của vật chất và tính duy nhất. Đấng Sáng Tạo của sách Sáng Thế muốn có mỗi cá nhân và “ghi khắc chúng trên lòng bàn tay của Người” (Is 49:16). Hơn nữa, Chúa Giêsu gọi mọi con người là anh chị em của Người, bởi vì biến cố nhập thể đã làm cho mỗi con người trở nên cao quý, theo cách không thể vượt qua và không thể diễn tả được. Khi Kinh Tin Kính Nicée-Constantinople tuyên bố rằng Chúa Giêsu Kitô, là con người thật, là Con Thiên Chúa và như vậy, “bình đẳng” với Thiên Chúa Cha, thì mọi con người—bất kể nguồn gốc, quốc gia, tài năng hay trình độ đào tạo—đều được ban cho một phẩm giá thúc đẩy trí tuệ con người suy nghĩ theo những cách mới, vượt ra ngoài giới hạn của quan điểm hoàn toàn tự nhiên về con người. Có một phẩm giá Kitô học đúng nghĩa của những hữu thể đơn lẻ.

83. Tương tự như những gì xảy ra khi đi vào “suy nghĩ của Chúa Kitô”, sự mở rộng hữu thể học và nhân học hàm ý một sự chuyển đổi và có thể gặp phải sự kháng cự của tư tưởng, vốn đã quen với những giới hạn của nó. Biến cố Khôn Ngoan đòi hỏi chúng ta phải lưu ý không những đến “loại suy của sáng thế” mà còn đến “loại suy của lòng bác ái”. Đối diện với sự tự hủy của Nhập thể và Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô, đối diện với đau khổ và sự dữ ảnh hưởng đến nhân tính, tinh thần con người sẽ chạm đến giới hạn của mình. Câu hỏi đặt ra là: tại sao Chúa Cha toàn năng dường như đã quan sát từ trên cao con đường thập giá đau khổ của Chúa Con và chỉ hành động sau khi Người đã chết? Tại sao Người không trả lời ngay lời cầu nguyện tại Vườn Ô-liu, được dâng lên bằng mồ hôi máu và nỗi sợ hãi: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này xa khỏi Con...” (Mt 26:39b)? Trên thực tế, sự bình đẳng về bản chất với Chúa Cha của Chúa Con nhập thể và chịu đóng đinh, được tuyên xưng trong Kinh Tin Kính Nicée, mời gọi tư tưởng con người chuyển đổi và cải biến ý nghĩa của thuật ngữ "toàn năng". Thiên Chúa Ba Ngôi không phải trước hết là toàn năng rồi mới đến tình yêu; Sự toàn năng của Người đúng hơn đồng nhất với tình yêu được thể hiện nơi Chúa Giêsu Kitô. Thực vậy, những gì Chúa Giêsu đã trải qua, như đã được chứng thực trong Tân Ước, là – thông qua hành động của Chúa Thánh Thần – sự mặc khải trong lịch sử, trên kế hoạch nhiệm cục Ba Ngôi, mối quan hệ nội tại Ba Ngôi và thực tại nội tại trong Thiên Chúa[135]. Thiên Chúa thực sự là Thiên Chúa khi quyền năng yêu thương của Người không áp đặt điều gì nhưng ban cho đối tác giao ước của Người là con người khả năng ràng buộc mình với Người một cách tự do và nhưng không. Thiên Chúa tương ứng với chính hữu thể của Người khi Người không dùng vũ lực để cải hóa nhân loại đã bị tội lỗi làm cho hư hỏng, nhưng hòa giải nhân loại với chính Người qua các biến cố ở Bethlehem và Golgotha. Trong tất cả những điều này, cách nhìn của con người chúng ta được kêu gọi tự cho phép mình được biến đổi sâu sắc bởi Chúa Kitô: “Tư tưởng của các ngươi không phải là tư tưởng của Ta” (Is 55:8; xem thêm Mt 16:23).

2.2 Một biến cố văn hóa và liên văn hóa

84. Nếu biến cố Chúa Giêsu Kitô đổi mới tư tưởng như thể được tái tạo theo một biến cố của Đức Khôn Ngoan, thì nó cũng đổi mới và thanh lọc, nuôi dưỡng và mở rộng nền văn hóa nhân bản. Trên thực tế, Công đồng Nicée, nơi diễn đạt đức tin Kitô giáo của Giáo hội lan rộng khắp mọi quốc gia bằng tiếng Hy Lạp và sử dụng một thuật ngữ từ triết học Hy Lạp, chắc chắn là một biến cố văn hóa. Đức tin cần phải bao hàm văn hóa nhân bản, vì nó bao hàm bản chất con người, vì bản chất và văn hóa là yếu tố cấu thành nên con người và do đó không thể tách rời. “Con người luôn luôn được đặt vào vị trí văn hóa [136] ", Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc lại. Bởi vì con người là một hữu thể có quan hệ và xã hội, là một phần của lịch sử, nên chính thông qua văn hóa, con người đạt đến sự viên mãn của nhân tính mình [137]. Hơn nữa, Mặc khải, thiết lập sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người, cần những người tiếp nhận có sự nhất quán của riêng họ để đón nhận nó với sự tự do và trách nhiệm trọn vẹn. Do đó, việc bầu chọn dân tộc của mười hai chi tộc Israel, những người phải phân biệt mình với tất cả các dân tộc khác và học cách tách biệt chân lý khỏi sai lầm, trước tiên vì lợi ích của chính họ. Do đó, Chúa Giêsu Kitô, trong Người, Con Thiên Chúa thực sự trở thành con người, một người Do Thái, một người Galilê, người mà nhân tính mang dấu ấn văn hóa của hành trình lịch sử của dân Người. Do đó, Giáo hội, được tạo thành từ tất cả các quốc gia. Do đó, dựa trên nguyên tắc của Thánh Thomas, "ân sủng giả định bản nhiên", và mở rộng nó, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói thêm: "ân sủng giả định văn hóa, và ân sủng của Thiên Chúa được nhập thể trong nền văn hóa của những người tiếp nhận nó."[138] »

85. Giả định về văn hóa này của Mặc Khải ngụ ý một sự ảnh hưởng qua lại nhất định giữa hai bên, mặc dù chúng không đối xứng. Cũng như tinh thần con người có khả năng được biến đổi, văn hóa có ơn gọi để cho phép mình được soi sáng bởi Mặc khải, đến mức có thể chào đón, với cái giá hoán cải, sự khôn ngoan của Đấng Chịu Đóng Đinh: “Sức mạnh của Tin mừng [phải thấm nhuần] các cách suy nghĩ, các tiêu chuẩn phán đoán, các chuẩn mực hành động; nói một cách ngắn gọn, toàn bộ nền văn hóa của con người cần phải được Tin mừng thấm nhuần.[139] Tuy nhiên, đức tin không phải là một yếu tố xa lạ với các nền văn hóa trong đó đức tin được sống, bởi vì kể từ Lễ Ngũ Tuần, đức tin Kitô giáo mang theo mình sự chắc chắn rằng không có một nền văn hóa nào của con người không chờ đợi và hy vọng vào sự hoàn thành của nó trong cuộc viếng thăm của Ngôi Lời Thiên Chúa, chính Người đã truyền bá semina Verbi [hạt giống Lời Chúa] [140] trong mọi nền văn hóa đang chờ đợi sự viếng thăm của Người. Đây là cách chúng trở thành chính mình một cách trọn vẹn. Do đó, chính từ bên trong, từ sự cởi mở của chúng đối với những gì là chân lý, tốt lành và đẹp đẽ, mà Mặc khải thanh tẩy và nâng cao chúng. Nhưng sau đó, các nền văn hóa và ngôn ngữ được tiếp nhận và biến đổi bởi sự mới mẻ của mặc khải cho phép việc thể hiện đức tin được phong phú và sáng tỏ hơn. Sự hỗ tương này đã được quan sát qua nhiều thế kỷ trong quá trình phát triển của ngôn ngữ, thi ca và nghệ thuật nhờ Kinh thánh, sự hiểu biết về Kinh thánh cũng được soi sáng như thể "để đáp lại" bằng cách nhiễu xạ [diffraction] thành những từ ngữ và góc nhìn khác về thế giới. Đây cũng là điều xảy ra tại Nicée trong việc sử dụng homoousios, làm sáng tỏ sự hiểu biết của Giáo hội về mối quan hệ con thảo của Chúa Giêsu Kitô trong khi biến đổi thuật ngữ mà nó mang lấy.

86. Trong giả định về văn hóa này, một vị trí độc đáo và quan trọng phải được dành cho mối quan hệ giữa văn hóa Do Thái và văn hóa Hy Lạp. Homoousios sẽ xuất hiện ở đây như là thành quả của sự tổng hợp đặc biệt mạnh mẽ diễn ra giữa nền văn hóa Sê-mit, vốn đã được Mặc Khải chạm đến và biến đổi, nhưng cũng được hình thành bởi những cuộc gặp gỡ và bất đồng với các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác – người Ai Cập, người Canaan, người Lưỡng Hà, người La Mã – và thế giới Hy Lạp. Trong hơn ba thế kỷ trước khi Chúa Giêsu ra đời và cho đến thế kỷ thứ ba Công nguyên, việc giảng dậy và đời sống trí thức của Do Thái giáo theo văn hóa Hy Lạp không chỉ được diễn đạt bằng tiếng Aram mà còn bằng tiếng Hy Lạp, với Bản Bẩy Mươi là trọng tâm. Những lời dạy của Chúa Giêsu đã được ghi lại và truyền lại bằng tiếng Hy Lạp, nhằm mục đích truyền đạt Tin mừng cho mọi người bằng ngôn ngữ chung của lưu vực Địa Trung Hải, nhưng cũng vì Tân Ước là một phần trong lịch sử mối quan hệ của người Do Thái với văn hóa và ngôn ngữ Hy Lạp. Giống như trong Bản Bẩy Mươi, những ảnh hưởng này đi theo cả hai hướng. Ví dụ, panta ta ethnē [mọi dân tộc]của Mt 28:19 dịch ý tưởng cổ xưa của người Do Thái về tất cả các quốc gia đổ xô đến Giêrusalem, và măthētēs (môn đệ-học trò) dịch chữ Talmudim tiếng Aram. Ngược lại, các nhà truyền giáo sử dụng tiếng Hy Lạp của tòa án để diễn giải phiên tòa và cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, tác giả của Công vụ lấy cảm hứng từ sử thi Odyssey để kể lại chuyến hành trình của Thánh Phao-lô và sau này thường phản ảnh các yếu tố của triết học Khắc kỷ, giống như một số đoạn trong Tân Ước mang dấu vết của vốn từ vựng hữu thể học Hy Lạp[141]. Hoàn toàn tự nhiên khi Kitô giáo mới ra đời tiếp tục sự tổng hợp tư tưởng Sê-mit và Hy Lạp, trong cuộc đối thoại với các tác giả Do Thái-Hy Lạp và Hy Lạp-La Mã, để giải thích Kinh thánh và phát triển tư tưởng riêng của mình. Sự phong phú của cách diễn đạt Hy Lạp của Do Thái giáo và Ki-tô giáo do đó có thể gợi ý rằng có một chiều kích sáng lập trong sự ghép nối văn hóa Hy Lạp vào văn hóa Do Thái, điều này sẽ giúp giải thích bằng tiếng Hy Lạp tính độc đáo và tính phổ quát của sự cứu rỗi trong Chúa Giêsu Kitô đứng trước lý trí triết học[142]. Rõ ràng là một bộ phận lớn các Ki-tô hữu, đặc biệt là những người sống bên ngoài biên giới của Đế quốc La Mã, không thuộc về khu vực văn hóa này và đã sử dụng tài năng của mình để phục vụ cho việc thể hiện đức tin trong thế giới nói tiếng Syria, ở Armenia và Ai Cập, nhưng họ cũng tự đặt mình vào mối quan hệ với tư tưởng Hy Lạp, cho phép bản thân được truyền cảm hứng từ tư tưởng đó và đồng thời cũng tách mình ra khỏi nó.

87. Công đồng Nicée không chỉ đơn thuần là một biến cố tiếp nhận và nuôi dưỡng văn hóa thông qua Mặc khải, mà còn là dịp cho những cuộc gặp gỡ giữa các nền văn hóa. Cuộc gặp gỡ của các nền văn hóa này là một khía cạnh quan trọng của biến cố Khôn ngoan mà Chúa Giêsu Kitô mang đến, vì Mặc Khải kết nối và đưa các nền văn hóa vào sự hiệp thông với nhau, tạo nên mức độ liên văn hóa cao nhất có thể. Sự trao đổi và thai nghén lẫn nhau vốn là những bộ phận cấu thành nên mọi nền văn hóa, chỉ tồn tại trong quá trình chúng tiếp xúc với nhau, và do đó phát triển, làm giàu cho nhau, và đôi khi đối lập và gây nguy hiểm cho nhau. Tuy nhiên, sức mạnh đổi mới của Mặc Khải mang đến bước nhảy vọt về chất lượng trong cường độ của những mối quan hệ này. Một mặt, bằng cách cho phép tiếp cận nguồn siêu việt của chân lý và lòng tốt, đến gốc rễ của tính phổ quát của tinh thần con người khiến cho sự giao tiếp của họ trở nên khả hữu [143], nó mở ra hoàn toàn không gian chung cho các cuộc gặp gỡ và trao đổi của họ. Mặt khác, biến cố Chúa Giêsu Kitô là sức mạnh hoán cải và giải phóng khỏi những thế lực giam cầm và đối lập với nhau hiện hữu trong cuộc sống của các dân tộc và nền văn hóa. Chỉ có nền văn hóa nào được gọi là "được cứu rỗi" mới có thể vượt qua chính mình mà không đánh mất chính mình, và mở lòng với người khác để được họ làm giàu cũng như làm giàu cho họ. Việc lắng nghe Lời Chúa và Truyền thống, và do đó lắng nghe lời của Đấng Khác, có thể nói là giúp cho tâm trí và các nền văn hóa quen với việc lắng nghe người khác [144]. Điều này không dẫn đến sự đối lập bên ngoài và kém cỏi của các nền văn hóa, cũng không dẫn đến sự hợp nhất thành một tổng thể không rõ ràng, mà dẫn đến sự liên văn hóa được bảo tồn và nâng cao, trong đó mỗi nền văn hóa vượt qua chính mình trong khi được củng cố trong tính nhất quán của riêng mình, nhờ vào một hình thức giao thoa giữa các nền văn hóa [145]. Đây là lý do tại sao vấn đề là phải duy trì cả sự mới lạ thực sự lẫn "sự nâng cao" của các nền văn hóa, chẳng hạn như thực tế là những người chấp nhận Tin mừng của Chúa Kitô sẽ bảo tồn bản sắc văn hóa của họ và thấy mình được củng cố bởi nó [146]: "Các Ki-tô hữu không phân biệt mình với những con người khác về quốc gia, ngôn ngữ hoặc trang phục [...]. Trong khi tuân theo các phong tục địa phương về trang phục, thực phẩm và các khía cạnh khác của cuộc sống, họ thể hiện bản chất đáng ngưỡng mộ và theo mọi lý lẽ, là nghịch lý của nền cộng hòa của họ"[147].

88. Trên thực tế, tính liên văn hóa là biểu hiện của một vấn đề sâu xa hơn, tạo nên nền tảng của nó: kế hoạch thần thiêng về sự thống nhất của các dân tộc và con đường gian khổ để đạt được sự thống nhất trong đa dạng này. Đây là một trong những chủ đề chính của lịch sử cứu rỗi trong Kinh Thánh. Câu chuyện điển hình về Tháp Babel trong Sáng thế 11:1-9 nhấn mạnh đến sự căng thẳng giữa sự phong phú của nhiều ngôn ngữ và nền văn hóa, một mặt, và khả năng của con người trong việc phá vỡ sự thống nhất của ngôi nhà chung, làm mờ đi các logos của oikos [gia hộ]. Lời kêu gọi Áp-ra-ham, lời hứa với ông rằng trong ông “mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” (St 12:3), là phản ứng cứu rỗi đầu tiên của Thiên Chúa. Các tiên tri mở rộng lời hứa này cho các dân tộc trên trái đất bằng cách công bố sự hiệp nhất của tất cả các quốc gia xung quanh dân được chọn và Lề Luật [148]. Tân Ước trình bày sự hiệp nhất này được hiện thực hóa nơi Đấng Mê-xi-a, Đấng đã dùng máu và thịt mình để "phá đổ bức tường ngăn cách, là sự thù hận" giữa Israel và các dân tộc, để "từ đôi bên, dựng nên trong Người một con người mới" (Ê-phê-sô 2:14.15b). Vì thế, các quốc gia được liên kết với dân của Giao ước, được “nhận vào cùng một cơ nghiệp, là chi thể của cùng một thân thể, là những người đồng hưởng cùng một lời hứa” (Ê-phê-sô 3:6). Điều này có thể xảy ra nơi Chúa Kitô, Đấng duy nhất và phổ quát, là Đấng duy trì sự khác biệt và bản sắc, và là Đấng đảm nhận toàn thể nhân loại bằng cách đảm nhận một nhân loại có vị trí về mặt phả hệ và văn hóa. Biểu tượng của Babel, Lễ Ngũ Tuần của những lưỡi lửa trong Công vụ 2:1-18, là sự biểu hiện và hiện thực hóa quyền năng hiệp thông của các logos nhân bản, cuối cùng xuất phát từ Logos của Thiên Chúa [149]. Không phải trong sự hiệp nhất có tính hợp nhất của một ngôn ngữ duy nhất mà Chúa Thánh Thần mang lại sự hiệp thông cho những người Do Thái thuộc các ngôn ngữ và nền văn hóa khác nhau, nhưng bằng cách truyền cảm hứng cho sự hiểu biết lẫn nhau, một hình ảnh về những gì sẽ là Giáo hội quy tụ mọi quốc gia, tất cả đều hướng tới sự hoàn thành của nó, khi "144,000 người được đóng ấn" của mười hai chi tộc Israel và "đám đông vô số không ai có thể đếm được, thuộc mọi quốc gia" “Các dân tộc, bộ tộc, dân tộc và ngôn ngữ” sẽ hiện thực hóa sự hiệp thông trọn vẹn vào ngày tận thế của nhân loại trong thành Giêrusalem mới (Khải Huyền 7:4.9).

89. Chiều kích liên văn hóa mà Công đồng Nicée là biểu hiện sáng lập cũng có thể được coi là một mô hình cho giai đoạn đương thời khi Giáo hội hiện diện ở nhiều khu vực văn hóa khác nhau: văn hóa Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh, Châu Đại Dương, văn hóa đại chúng mới của Châu Âu, chưa kể đến hình thức văn hóa mới do cuộc cách mạng kỹ thuật số và khoa học công nghệ mang lại. Tất cả các vũ trụ văn hóa đương thời này dường như rất xa lạ với nền văn hóa Hy Lạp cổ thời vốn chào đón theo cách khai mở hình thức hội nhập văn hóa tín điều đạt được trong biến cố Nicée. Một mặt, thực sự cần nhấn mạnh rằng chính trong những phạm trù Hy Lạp này mà Giáo hội đã diễn đạt theo cách chuẩn mực và do đó, chúng luôn luôn đoàn kết với kho tàng đức tin [150]. Tuy nhiên, mặt khác, để trung thành với các thuật ngữ xuất phát từ thời đại đó và tìm thấy nguồn gốc sống động của nó ở đó, Giáo hội có thể lấy cảm hứng từ các Nghị phụ Nicée để tìm kiếm những cách diễn đạt đức tin có ý nghĩa ngày nay bằng các ngôn ngữ và bối cảnh khác nhau. Với ân sủng của Chúa Thánh Thần, các cộng đồng Kitô giáo, các nhà thần học và các mục tử của họ, trong sự hiệp thông hiệu quả với Huấn quyền, phải tự mình thực hiện, trong hoàn cảnh văn hóa và ngôn ngữ của riêng mình, một công việc tương tự như công việc trong quá khứ để khẳng định sự hiệp nhất triệt để của Chúa Con và Chúa Cha. Công đồng Nicée vẫn là hình mẫu của mọi cuộc gặp gỡ liên văn hóa và khả năng tiếp nhận hoặc hình thành những cách thức mới đích thực để diễn tả đức tin tông đồ.

2.3 Sự trung thành sáng tạo của Giáo hội và vấn đề dị giáo

90. Việc nhận thức rằng Công đồng Nicée là thời điểm của biến cố Khôn ngoan do Chúa Giêsu Kitô mang lại cho phép chúng ta đọc lại một cách tinh tế hơn lịch sử các tà thuyết mà Công đồng đã phản ứng. Lạc giáo, cố tình đi chệch khỏi chứng tá tông đồ và làm tổn hại đến tính toàn vẹn của nó, bị các Giáo Phụ tri nhận như một sự mới lạ đã từ bỏ con đường của quy luật đức tin (regula fidei) và truyền thống (traditio) và chính vì điều này mà xa rời thực tại lịch sử của Chúa Kitô. Lời chỉ trích dành cho Arius chính là lời chỉ trích về việc đưa ra điều gì đó mới mẻ [151]. Tuy nhiên, liên quan đến sự mới mẻ [novum] được khai mở bởi biến cố Chúa Giêsu Kitô, chúng ta có thể thấy rõ hơn khi hiểu lạc giáo cũng là một sự kháng cự cơ bản, thụ động và chủ động, đối với sự mới mẻ siêu nhiên mở ra tư tưởng và nền văn hóa của con người vượt ra ngoài chính chúng –sự mới mẻ của ân sủng mà ngôn ngữ đức tin mới được diễn tả bằng homoousios làm chứng cho. Gần như không thể tránh khỏi việc con người, với tất cả khả năng của họ, trong toàn bộ hữu thể của họ, sẽ chống lại sự mới lạ chưa từng nghe thấy này, thứ có thể biến đổi và biến hình con người. Nó có nghĩa sự chống đối và do đó tội lỗi của “con người cũ” (Rm 6:6; xem thêm Ep 2:15), sự khó khăn trong việc hiểu biết và chấp nhận trọn vẹn sự bao la của Thiên Chúa và tình yêu của Người, cũng như phẩm giá vô biên của con người. Con đường chậm rãi, thận trọng nhưng đầy thử thách của những nỗ lực đầu tiên nhằm hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm Đấng Chịu Đóng Đinh và sự phục sinh vinh quang của Người, sự chuyển tiếp từ lời rao giảng của các tông đồ đến những bước đầu tiên của điều mà ngày nay chúng ta gọi là thần học, do đó đi kèm với những căng thẳng liên tục và nhiều ý kiến khác nhau đi chệch khỏi sự trọn vẹn của chứng tá tông đồ và được gọi bằng thuật ngữ bất chính thống [hétérodoxie], cũng như lạc giáo.

91. Thay vì xem xét kỹ lưỡng các lạc thuyết của những thế kỷ đầu, chúng ta hãy làm nổi bật sự chống đối này đối với điều mới mẻ của Mặc Khải thông qua một vài ví dụ. Thường được coi là lạc giáo đầu tiên, học thuyết duy lý của những người theo thuyết Ngộ đạo đã làm suy yếu tính hiện thực của mầu nhiệm nhập thể thông qua thuyết ảo thân [Docetism] và bằng cách giản lược lịch sử thánh thành những câu chuyện thần thoại, nó phủ nhận tính toàn vẹn của sự cứu rỗi con người, đẩy nó xuống hàng linh đạo mây khói. Trong cuộc chiến chống lại thuyết ngộ đạo, Thánh Irénée nhấn mạnh rằng đó là sự chống lại quan niệm cho rằng Thiên Chúa có khả năng và mong muốn bước vào lịch sử, để kết hợp với nhân loại cho đến cùng, đến mức thực sự trở thành con người và biết đến cái chết. Đó là sự chống lại niềm tin vào vẻ đẹp của sự đơn nhất, của vật chất và của lịch sử, cũng được mặc khải trong biến cố Chúa Giêsu Kitô và được Cựu Ước và Tân Ước làm chứng. Các Giáo phụ sau này không ngần ngại sử dụng các khái niệm và khuôn khổ tư tưởng từ triết học Hy Lạp để tinh chỉnh tư tưởng Kitô giáo. Khi làm như vậy, họ buộc phải phá vỡ các khuôn khổ tư duy vốn không thể cho phép người ta quan niệm rằng Logos có thể trở thành xác thịt, rằng Logos hay Nous (νοῦς) nói lên tính thần thánh ngang bằng với nguồn gốc mà chúng xuất phát, hoặc có thể có một tính đa dạng không mâu thuẫn với tính thống nhất thần linh và thậm chí còn tốt đẹp trong tính thống nhất này. Những người ủng hộ lạc thuyết về Chúa Kitô và Chúa Ba Ngôi là những người không thể cho phép những khuôn khổ tư tưởng này, bất kể sự phong phú và đóng góp thực sự của chúng vào việc suy nghĩ về tín lý Kitô giáo, được mở rộng bởi sự bao la đáng kinh ngạc của nous (νοῦς) Christou (suy nghĩ của Chúa Ki-tô). Đây vẫn là khó khăn mà chúng ta thấy trong sự tác động của các luồng tư tưởng về Chúa Kitô ở phương Đông trong suốt thế kỷ thứ 3, theo một nghĩa nào đó, điều này mở đường cho tà thuyết Arius. Chúng ta phải tránh việc biếm họa những lập trường khác nhau của những người ủng hộ các trào lưu này, bởi vì họ trước hết là những nhà tư tưởng cá nhân, nhưng tất cả đều phải đấu tranh với những khó khăn giống nhau trong việc duy trì sự phong phú Ba Ngôi của Thiên Chúa duy nhất và tính triệt để của việc đảm nhận trọn vẹn một nhân tính duy nhất bởi Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha: một số người làm cho nền thần học Ba Ngôi đối diện với khuynh hướng duy phụ thuộc [subordinationniste] và một Kitô học có nguy cơ trở thành ảo thân thuyết [Docetist], trong khi những người khác phản đối các hình thức của thuyết hình thái Ba Ngôi (modalisme= thuyết cho rằng Ba Ngôi chỉ là ba cách thế của cùng một Ngôi Vị duy nhất) và thuyết Nghĩa tử (adoptianisme= nhận làm con nuôi). Chính cùng những sự chống đối này của các sơ đồ tư tưởng cũ đã tự phát biểu, vài thập niên trước Công đồng Nicée, trong lời dạy của Arius: đối với ông, không thể quan niệm được rằng Chúa Con, khác với Chúa Cha, Đấng đã sinh ra và chết, có thể đồng vĩnh hằng và ngang hàng với Thiên Chúa, mà không làm suy yếu sự hiệp nhất và siêu việt của Thiên Chúa và do đó làm suy yếu ơn cứu chuộc của con người.

92. Những sức đề kháng này hoàn toàn dễ hiểu vì chúng có tính nhân bản. Chúng làm chứng, mặc dù theo hướng tiêu cực, cho ánh sáng đáng kinh ngạc được chiếu rọi lên tri nhận về Thiên Chúa và ơn gọi thần thiêng của con người thông qua biến cố Chúa Giêsu Kitô và về sự biến đổi không kém phần đáng kinh ngạc của tư tưởng và văn hóa nhân bản được triển khai trong biến cố Khôn ngoan xuất phát từ đó. Không có gì thuộc về con người bị xóa bỏ, nhưng để tiếp cận được tính bao la của chân lý Thiên Chúa đòi hỏi sự Mặc khải của chính Thiên Chúa và ân sủng có thể hoán cải và nâng cao các khả năng và thể hiện của con người. Theo một nghĩa nào đó, sự chống lại các lạc giáo cho phép chúng ta thấy được sức mạnh mới mẻ vô biên của Công đồng Nicée.

3. Biến cố giáo hội: Công đồng Nicée, công đồng chung đầu tiên

3.1 Theo bản chất và cơ cấu của mình, Giáo hội là một phần của biến cố Chúa Giêsu Kitô.

93. Công đồng Nicée không chỉ là một biến cố trong lịch sử tín lý, mà còn có thể được hiểu là một biến cố của Giáo hội, tương ứng với một giai đoạn cơ bản trong tiến trình xây dựng Giáo hội. Trong suốt hành trình dài sau Công đồng Nicée, "Công đồng Chung" đã trở thành ngọn hải đăng về định hướng và quyết định về tín lý và pháp lý cho toàn thể Giáo hội, là nơi hiệp thông và có thẩm quyền tối cao. Liệu chúng ta có thể thấy trong đó, từ quan điểm về cấu trúc của nó, một bước ngoặt chỉ đạo sự tiếp tục đời sống của Giáo hội, tương tự như những gì Kinh Tin Kính Nicée đại diện từ quan điểm tiếp cận Thiên Chúa (biến cố Chúa Giêsu Kitô) và tư tưởng con người (biến cố Khôn ngoan)? Điều này sẽ đúng nếu Công đồng Chung như vậy có thể được coi như một thành quả và là một biểu thức chuyên biệt có tính Giáo hội về biến cố Chúa Giêsu Kitô.

94. Ngay từ khi mới thành lập, Giáo hội đã ý thức rằng mình là một phần trong tính liên tục của dân được chọn, một hội đồng được triệu tập (qāhāl/ekklēsia – cf. Hr 5:22) để sống Torah đã được mặc khải và thờ phượng Chúa là Thiên Chúa của họ. Giáo hội cũng coi mình như “dòng giống được tuyển chọn, là chức tư tế hoàng gia, là dân thánh, một dân tộc được thu nhận để rao truyền lời ngợi khen” (1 Pr 2:9) Thiên Chúa của Israel. Trong Công vụ Tông đồ, nó được trình bày như một cộng đồng phân định ý muốn của Thiên Chúa mà tác nhân chính là Chúa Thánh Thần [152], được hướng dẫn bởi những người nối dài vai trò của mười hai tông đồ, “những chứng nhân của Sự Phục sinh” (Công vụ 1:22). Theo một nghĩa nào đó, chính trong cộng đồng giáo hội, với tư cách là thân thể của Chúa Kitô, mà người ta có thể nhận ra "những tâm tình của Chúa Kitô" (Pl 2:5; xem § 77 ở trên).

95. Nhận thức này được thể hiện nơi các Giáo phụ đầu tiên, những người liên kết cấu trúc và hoạt động của Giáo hội với bản chất sâu xa và ơn gọi của Giáo hội. Vì vậy, vào đầu thế kỷ thứ 2, Thánh Ignace thành Antioche nhấn mạnh rằng các Giáo hội riêng biệt khác nhau coi nhau trong sự đoàn kết như là biểu hiện của một Giáo hội duy nhất. Các thành viên của cộng đoàn là synodoi, những người bạn đồng hành, trong đó mỗi người được kêu gọi đóng vai trò của mình theo trật tự thần thiêng tạo nên sự hòa hợp, được thể hiện qua cộng đoàn Thánh Thể. Như vậy, qua sự hiệp nhất và trật tự của mình, Giáo hội hát lời ngợi khen Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô, hướng tới sự hiệp nhất trọn vẹn sẽ được hiện thực hóa trong Vương quốc Thiên Chúa. Thánh Cyprien thành Carthage đã đào sâu giáo huấn này vào giữa thế kỷ thứ 3 bằng cách chỉ rõ nền tảng công đồng và giám mục mà đời sống của Giáo hội phải dựa vào: không có gì được thực hiện mà không có giám mục (nihil sine episcopo), nhưng tương tự như vậy, không có gì được thực hiện mà không có "hội đồng của bạn" (hội đồng của các linh mục và phó tế) hoặc không có sự đồng ý của người dân (nihil sine consilio vestro et sine consensu plebis)[153]. Sự hợp nhất liên kết với sự hợp nhất của Chúa Ba Ngôi, sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, sự đồng hành (synodos) hướng tới Vương quốc, sự trung thành với giáo lý của các Tông đồ và với việc cử hành Bí tích Thánh Thể, trật tự và sự hòa hợp của các thừa tác viên và những người đã chịu phép rửa tội, với một vai trò đặc biệt được trao cho các giám mục: những yếu tố này cho thấy rằng Giáo hội, ngay cả trong cấu trúc và hoạt động của mình, đã được khắc ghi sâu sắc trong biến cố Chúa Giêsu Kitô, như thời khắc và sự biểu thức đặc biệt của mình. Khi cử hành Công đồng Nicée, toàn bộ tiến trình công đồng diễn ra trước đó và với Công đồng Chung tìm được màn tán dương (point d’orgue) được chúng ta tưởng nhớ và cử hành.

3.2 Sự cộng tác về mặt cấu trúc của các đặc sủng của Giáo hội và con đường dẫn đến Nicée

96. Những yếu tố này vốn là đặc điểm thần học của Giáo hội, chỉ có thể là hoa trái của biến cố Mặc khải, đã được thể hiện trong hành trình lịch sử dẫn đến Công đồng chung Nicée thông qua sự tương tác của ba đặc sủng, được áp dụng vào việc quản trị, giảng dạy và ra quyết định của cộng đồng trong Giáo hội: trước hết là hệ thống phẩm trật tam phân, sau đó là các giáo viên và công đồng. Một thứ tự ưu tiên, đặt các tông đồ lên hàng đầu, dường như đã được thiết lập rõ ràng trong bộ thư của Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã thiết lập trong Hội Thánh, trước hết là các tông đồ, thứ đến là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy…” (1 Cr 12:28; x. Ep 4:11). Đặc điểm đầu tiên là sự phát triển dần dần phẩm trật tam phân gồm giám mục, linh mục và phó tế. Phẩm trật này giám sát các nhà tiên tri và giáo viên lưu động trong 150 năm đầu tiên của Kitô giáo (thường được gọi chung là "tông đồ"), đã thay thế họ ở một mức độ nào đó và trở thành cơ cấu địa phương của việc quản trị Giáo hội. Hình ảnh giám mục nói riêng thể hiện chiều kích tông đồ của Giáo hội. Từ thế kỷ thứ 4 trở đi, các giáo tỉnh được thành lập để thể hiện và thúc đẩy sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương, với một vị giáo phẩm giáo đô (métropolite) đứng đầu.

97. Vì các Kitô hữu được kêu gọi rao giảng về Chúa Kitô và truyền đạt lời dạy của Người cùng lời dạy của các Tông đồ cho muôn dân, nên không có gì ngạc nhiên khi đặc điểm thứ hai của Kitô giáo trong thời kỳ tiền Nicée là tầm quan trọng mang tính quyết định của các trường học và giáo viên, những người dạy các dự tòng và giải thích Kinh thánh. Họ có thể là các thừa tác viên được thụ phong hoặc không. Ví dụ, Pélage đã giảng dạy ở Rome vào đầu thế kỷ thứ 5 khi ông không phải là một linh mục, cũng giống như Mélanie Cả và Rufin ở Jerusalem, và Thánh Jérôme ở Bethléem, và sau đó ở Rome. Bản thân Origène đã lãnh đạo Trường Alexandrie sau cái chết của cha ông là Léonidas, trước khi được thụ phong.

98. Cuối cùng, sau nửa sau thế kỷ thứ 2 và đầu thế kỷ thứ 3, đặc biệt là ở Tiểu Á, thượng hội đồng đã đảm nhận vai trò ngày càng quan trọng trong việc quyết định các vấn đề quan trọng về kỷ luật, thờ phượng và giảng dạy. Lúc đầu, các Thượng Hội Đồng là địa phương, nhưng việc gửi các lá thư của Thượng Hội Đồng truyền đạt các quyết định của họ (acta) tới các Giáo Hội khác, việc trao đổi các phái đoàn và các yêu cầu công nhận lẫn nhau, chứng tỏ "niềm tin vững chắc rằng các quyết định được đưa ra là biểu thức của sự hiệp thông với tất cả các Giáo Hội", vì "mỗi Giáo Hội địa phương là biểu thức của Giáo Hội duy nhất và Công Giáo".[154] "Chúng ta hãy lưu ý rằng Thượng Hội Đồng có một chiều kích pháp lý hoặc giáo luật rất rõ ràng, như một định chế lập pháp. Các tài liệu và bộ sưu tập giáo luật của Thượng hội đồng được tập hợp tại kho lưu trữ của các giám mục, đặc biệt là ở Rome: sự phát triển của giáo luật và sự phát triển của các Thượng hội đồng song hành và hỗ trợ lẫn nhau. Không thể cho rằng sự thay đổi hướng tới một Giáo hội được định chế hóa, giống như nhà nước chỉ là do việc Constantine hợp pháp hóa Giáo hội. Được coi như một polis (thành phố) phản ảnh Thành phố của Thiên Chúa, Jerusalem trên trời (x. Is 60 và 62; 65:18; Kh 3:12; 21:1-27), hoặc như một synodos theo nghĩa đen là những người đi cùng con đường với Chúa Giêsu hướng tới Vương quốc, với Người đứng đầu họ như proestos, hay chủ tịch của họ, Giáo hội về bản chất có tính "chính trị" và định chế [155].

99. Ba đặc sủng này phát triển theo cách riêng và khác nhau trong Giáo hội, nhưng không có đặc sủng nào tách biệt hoặc thoát ly khỏi hai đặc sủng kia. Mặc dù căng thẳng tự nhiên nảy sinh giữa và bên trong chúng, nhưng chúng đã làm phong phú, bổ sung thông tin và củng cố lẫn nhau. Giáo viên thường tham gia với tư cách là thành viên của các thượng hội đồng. Tương tự như vậy, các giám mục ngay từ đầu đã là những giáo viên và nhà thuyết giáo theo gương mẫu của Thánh Ignace thành Antioche. Rõ ràng, các giám mục đã chủ trì các thượng hội đồng và đóng vai trò lãnh đạo như những người bảo vệ sự chính thống của đức tin và việc thực hành. Hơn nữa, trong vai trò bí tích của mình, giám mục chủ trì buổi cử hành Thánh Thể mở đầu và bế mạc mỗi Thượng hội đồng, nguồn gốc và đỉnh cao của “cuộc hành trình “cùng nhau” là các synodos [156]. Một dấu chỉ của việc tiếp nhận các quyết định của công đồng, cũng như của sự hiệp thông của các tín hữu với các giám mục của họ, được thiết lập trong sự kế vị tông đồ giữa lòng “Catholica [Công Giáo]”, Giáo hội của Thiên Chúa, là một và duy nhất, Thánh Thể được biểu lộ và hiện thực hóa một cách hữu hình, việc thuộc về thân thể Chúa Kitô và thuộc về nhau giữa các Kitô hữu (x. 1 Cr 12:12)[157].

100. Những yếu tố này của quá trình xây dựng Giáo hội không chỉ thể hiện nguồn gốc của nó trong Biến cố Chúa Giêsu Kitô, mà còn có thể nhận ra trong những quá trình này một sự tương tự nào đó với những gì tạo nên biến cố Khôn ngoan được phân tích ở trên. Cũng như tư tưởng của con người, được đổi mới sâu sắc nhờ biến cố Chúa Giêsu Kitô, tiếp nhận và biến đổi các nền văn hóa nhân loại, đặc biệt là từ sự giao thoa giữa tư tưởng Sê-mit, vốn đã được Mặc Khải tác động từ bên trong, với văn hóa Hy Lạp và các nền văn hóa khác, theo cùng một cách, ba chiều kích hay đặc sủng mà chúng ta đã ghi nhận đều xuất phát từ cả các định chế Do Thái và các phiên bản địa phương của các định chế Hy Lạp-La Mã trong những thế kỷ đầu tiên của thời đại chúng ta, cả dân sự lẫn thánh thiêng. Một mặt, Do Thái giáo của Đền thờ thứ hai có hệ thống giáo sĩ, trường phái và giáo hội riêng. Mặt khác, vì không có trường học cụ thể nào dành cho họ nên hầu hết các giáo viên Ki-tô giáo đều được đào tạo thành nhà hùng biện và phiên dịch trong enkyklios paideia, hay hệ thống giáo dục chung của thế giới Hy Lạp-La Mã, và do đó, họ dựa vào thuật hùng biện và triết học, những thứ mà họ đã góp phần đưa vào di sản giáo lý Ki-tô giáo. Thượng hội đồng (concilium trong tiếng Latinh) cũng đã là một định chế cổ xưa trong thế giới Hy Lạp-La Mã khi các Ki-tô hữu dành cho nó một vị trí quan trọng. Bây giờ, những khía cạnh khác nhau này mang những chiều kích riêng của chúng, có thể nói là biến đổi, khi chúng phục vụ cho sứ mệnh của Giáo hội là công bố Tin Mừng và trở thành dấu chỉ hữu hiệu của sự hiệp nhất cho nhân loại.

3.3 Công đồng chung Nicée

101. Vào năm 325, người ta cử hành tại Nicée một công đồng, vốn được ghi nhận một phần trong quá trình này như một điểm thành tựu, nhưng cũng là một hình thức đặc biệt xét về tầm quan trọng đại kết của nó. Được hoàng đế triệu tập để giải quyết một cuộc tranh chấp địa phương đã lan rộng đến tất cả các giáo hội của Đế quốc La Mã phương Đông và nhiều giáo hội ở phương Tây, hội nghị này đã tập hợp các giám mục từ nhiều vùng khác nhau ở phương Đông và các sứ giả của giám mục Rome. Do đó, lần đầu tiên các giám mục từ toàn bộ Oikoumenē đã tụ họp tại một công đồng. Lời tuyên xưng đức tin và các quyết định giáo luật của nó được công bố như chuẩn mực cho toàn thể Giáo hội. Sự hiệp thông và hiệp nhất chưa từng có được trong Giáo hội nhờ biến cố Chúa Giêsu Kitô được thể hiện rõ ràng và hữu hiệu theo một cách mới, thông qua một cấu trúc có phạm vi phổ quát, và việc công bố Tin Mừng của Chúa Kitô trong toàn bộ sự bao la của nó cũng nhận được một công cụ có thẩm quyền và phạm vi chưa từng có:

"Tại Công đồng Nicée, lần đầu tiên, thông qua việc thực hiện thừa tác vụ của các giám mục theo tinh thần đồng nghị, l’ἐξουσία [quyền lực] của Chúa phục sinh đã được phát biểu một cách định chế ở bình diện hoàn vũ. Một kinh nghiệm tương tự đã diễn ra trong các công đồng chung liên tiếp của thiên niên kỷ đầu tiên, qua đó bản sắc của Giáo hội duy nhất và Công Giáo đã được phác thảo một cách chuẩn mực [158].

102. Với Công đồng Nicée, ý tưởng về một công đồng hay một công đồng chung đã được áp đặt. Mặc dù không một pháp lệnh (acta) nào của nó còn tồn tại, nhưng theo mọi sác suất, và mặc dù được tiếp nhận chậm chạp và khó khăn, bản tuyên ngôn homoousios và các quyết định của Nicée vẫn tồn tại. Sau quá trình tiếp nhận lâu dài này – vốn là đặc điểm của bất cứ công đồng nào – Nicée đã trở thành hình mẫu lý tưởng của công đồng trong tâm trí nhiều người. Sự trình bày truyền thống của nó như một công đồng thống nhất, được Chúa Thánh Thần soi sáng, đã giúp nó trở thành công đồng lý tưởng trong truyền thống sau này và dần dần tạo ra sự tôn trọng trong số các Ki-tô hữu đối với các công đồng đại kết. Công đồng Nicée đã mở đường cho các công đồng chung tiếp theo và do đó mở đường cho một phương thức công đồng hay công nghị mới sẽ đánh dấu đời sống của Giáo hội cho đến ngày nay, cả trong vai trò xác định và tuyên bố đức tin cũng như trong việc biểu lộ sự hiệp nhất của toàn thể Oikoumenē được đại diện trong đó.

Kỳ tới: Chương Bốn