1. Đức Giám Mục mở khóa đào tạo để bảo vệ các linh mục khỏi những trò gian lận tài chính
Đức Cha Claudio Cipolla của Padua đã công bố một khóa đào tạo mới của giáo phận sau khi một linh mục lớn tuổi điều hành một hiệp hội bác ái bị lừa hơn 450,000 đô la. Ngài nhấn mạnh rằng đây không phải là trường hợp duy nhất các linh mục bị lừa gạt tại Ý.
Trong một tuyên bố ngày 18 tháng 5, Đức Cha Cipolla cho biết vụ việc liên quan đến vị linh mục lớn tuổi, ở độ tuổi 80, “chúng tôi rất đau đớn, và âu lo cho cả cá nhân ngài lẫn hiệp hội mà ngài điều hành. Chúng tôi đặc biệt biết ơn Cảnh sát Tài chính vì cuộc điều tra mà họ đã thực hiện.”
Hôm 18 tháng 5 Cảnh sát Tài chính Ý thông báo họ đã bắt giữ 11 người liên quan đến vụ lừa đảo, diễn ra trong khoảng thời gian hai năm khi vị linh mục lớn tuổi còn phụ trách tổ chức bác ái.
Theo Cảnh sát Tài chính, cuộc điều tra của họ cho thấy những kẻ lừa đảo “đã phát triển một kịch bản có cơ sở rõ ràng bao gồm những lời nói dối, chẳng hạn như những bất hạnh trong gia đình, tai nạn và những thay đổi bất thường trong lĩnh vực tư pháp nhằm mục đích khiến vị linh mục đem lòng trắc ẩn, và vì tình bác ái muốn giúp đỡ người khác, mà tin rằng giải pháp khả thi duy nhất là quyên góp một khoản tiền lớn cho họ”.
Các đoạn băng nghe lén của cảnh sát cho thấy bọn tội phạm đã gọi điện cho linh mục khoảng 14,000 lần trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2018 đến tháng 7 năm 2020, phát minh ra một cách có hệ thống các nhu cầu “hoàn toàn không tồn tại” để từ đó có thể nhận được các khoản quyên góp bằng tiền mặt; hoặc được cho dùng thẻ tín dụng trả trước với hứa hẹn sẽ hoàn trả tiền.
Khi vị linh mục về hưu, không còn quyền truy cập vào tiền của hiệp hội, ngài đã bị chúng đe dọa và vì thế đã phải nhờ đến cảnh sát.
“Chúng tôi biết rằng lĩnh vực bác ái là mục tiêu thường bị nhắm đến của những kẻ gian”, Đức Cha Cipolla nói trong tuyên bố của ngài, đồng thời cho biết giáo phận của ngài trong nhiều năm đã “đặc biệt cảnh giác trước các tình huống lừa đảo khác nhau nhắm vào các linh mục”.
Để ngăn chặn những tình huống tương tự có thể lặp lại, ngài cho biết giáo phận hiện đang cộng tác với Cảnh sát Tài chính trong nỗ lực “ngăn chặn sự xuất hiện của những trường hợp như vậy càng nhiều càng tốt” thông qua các khóa đào tạo dành cho hàng giáo sĩ của giáo phận, với mục tiêu bảo đảm số tiền được định sẵn là dành cho việc từ thiện “cuối cùng không nằm trong tay những người làm bộ nghèo hoặc các băng nhóm có tổ chức”.
Vào ngày 14 tháng 4, Giáo phận Padua đã tổ chức một khóa học được phát trực tiếp với tiêu đề “Những chiêu lừa đảo dưới tháp chuông”, bao gồm một số chuyên gia, trong đó có cả cảnh sát tài chính, là những người đã nói về các dấu hiệu lừa đảo hoặc tống tiền và tầm quan trọng của việc cảnh giác. Các nguồn bổ sung đã được xuất bản trên tờ báo hàng tuần của giáo phận, La Difesa del Popolo.
Trong phát biểu của ngài trong khóa học được phát trực tiếp, Đức Cha Cipolla lưu ý rằng vụ việc liên quan đến vị linh mục lớn tuổi của hiệp hội bác ái không phải là một trường hợp cá biệt.
Source:Crux
2. Linh mục chống phá thai tại La Crosse nói rằng ngài sẽ phản đối yêu cầu từ chức của giám mục bản quyền
Hôm Chúa Nhật 23 tháng 5, Cha James Altman, một linh mục gây nhiều tranh cãi tại Giáo phận La Crosse, là người đã đưa ra một video lan truyền vào năm ngoái cho rằng người Công Giáo không thể là đảng viên Đảng Dân chủ, cho biết giám mục của ngài đã yêu cầu ngài từ chức cha sở.
“Nói thẳng ra, gia đình thân mến, Đức Cha William Patrick Callahan đã yêu cầu tôi từ chức cha sở, kể từ thứ Sáu vừa qua, hai ngày trước, vì tôi gây chia rẽ và kém hiệu quả”, Cha Altman, cha sở của giáo xứ St. James the Less ở La Crosse, Wisconsin, cho biết trong bài giảng được đăng trực tuyến vào ngày 23 tháng 5, Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
“Họ muốn đầu tôi trên một cái đĩa, họ muốn cái đầu của tôi ngay bây giờ, vì đã nói ra sự thật”.
Cha Altman nói rằng luật sư giáo luật của ngài đã yêu cầu giáo phận biện giải cho yêu cầu từ chức, cũng như xem xét hồ sơ của ngài tại Tòa Giám Mục. Cha James Altman nói rằng ngài đang phản đối yêu cầu này.
Cha Altman đã gây tranh cãi vì nhiều tuyên bố công khai mà ngài đưa ra vào năm 2020 và 2021 về chính trị, phân biệt chủng tộc, nữ quyền và đại dịch coronavirus.
Trong video lan truyền được đăng trực tuyến ngày 20 tháng 8 năm 2020, Cha Altman nói rằng không người Công Giáo nào có thể trở thành đảng viên Dân chủ vì sự ủng hộ của giới lãnh đạo đảng đối với việc phá thai.
Trong video dài mười phút được xem hơn 1,2 triệu lần trên YouTube, Fr. Altman nói, “ Sẽ có 60 triệu trẻ sơ sinh bị phá thai đứng ở cổng thiên đường ngăn cản lối vào của mọi đảng viên Đảng Dân chủ.” Ngài lưu ý đến cam kết của Đảng Dân chủ trong việc quyết liệt bảo vệ luật phá thai. Ngài cũng chỉ trích “trò lừa bịp biến đổi khí hậu” và than thở về tình trạng người nước ngoài sống bất hợp pháp trên đất Mỹ gây ra các tội hình sự.
Đức Cha Callahan nói rằng Cha Altman đã gây ra một “vết thương” cho Giáo Hội và nói rằng ngài sẽ sửa chữa vị linh mục một cách riêng tư.
“Tôi đã bắt đầu quá trình này, không phải dưới ánh sáng rực rỡ của đấu trường công cộng, nhưng như Phúc âm chỉ dẫn, một cách riêng tư,” Đức Cha Callahan hôm 9 tháng 9, năm ngoái 2020.
“Giáo luật chỉ ra rằng trước khi các hình phạt được đưa ra, chúng ta cần bảo đảm rằng sự sửa chữa, quở trách trong tình huynh đệ hoặc các biện pháp mục vụ khác phải được sử dụng trước nhưng vẫn không đủ để sửa chữa vụ tai tiếng,” Đức Cha Callahan nói, khi tham chiếu đến điều 1341 của Bộ Giáo luật.
Tuy nhiên, Đức Giám Mục Joseph Strickland của Giáo phận Tyler, Texas đã lên tiếng ủng hộ Cha Altman trong một tweet ngày 5 tháng 9. Ngài nói:
“Cha James Altman đang gặp rắc rối khi nói ra sự thật. Ban đầu tôi ủng hộ ngài khi nói lên sự thật một cách táo bạo trong cuộc bầu cử. Tôi tiếp tục ủng hộ ngài vì đã nói sự thật trong Chúa Giêsu Kitô. Ngài truyền cảm hứng cho nhiều người giữ vững đức tin trong những ngày đen tối này. Chúng ta hãy cầu nguyện cho ngài,” Đức Cha Strickland tuyên bố.
Source:Catholic News Agency
3. Cựu ngoại trưởng Pompeo: Trung Quốc vẫn tiến hành nghiên cứu dịch bệnh như trước khi có COVID
Trung Quốc tiếp tục tiến hành nghiên cứu dịch bệnh trong phòng thí nghiệm của họ giống như họ đã làm trước đại dịch COVID-19, vì vậy Hoa Kỳ có trách nhiệm yêu cầu Đảng Cộng sản Trung Quốc tiết lộ những gì họ biết về loại virus chết người và sự khởi đầu của nó, cựu Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo cho biết hôm thứ Hai.
“Đảng Cộng sản Trung Quốc biết rõ điều gì đã xảy ra ở đây và nó bắt đầu từ đâu,” Ông Pompeo, hiện là cộng tác viên của Fox News, nói trong chương trình “American Newsroom”. “Điều này thật nguy hiểm. Chúng ta có thể lại phải đối diện với một cái gì đó tương tự như thế này một lần nữa, khi họ gieo rắc trên toàn thế giới”.
Bình luận của ông được đưa ra sau khi một báo cáo tình báo chưa được tiết lộ trước đó của Mỹ được công bố vào cuối tuần rằng ba nhà nghiên cứu từ Viện Vi rút học Vũ Hán của Trung Quốc đã phải vào bệnh viện vào tháng 11 năm 2019, vài tháng trước khi Trung Quốc tiết lộ sự bùng phát COVID-19.
Ông Pompeo chỉ ra rằng ông, và các thành viên khác của chính quyền Trump và những người bảo thủ đang cảnh báo về khả năng coronavirus mới đến từ một phòng thí nghiệm của Trung Quốc.
“Chúng tôi đã dành rất nhiều thời gian để giải quyết vấn đề này và vào tháng Giêng, chúng tôi đã có thể giải mật rất nhiều tài liệu mà tôi đã biết trước đó rất sớm”, ông nói thêm. “Thật là phẫn nộ khi thấy các nhà khoa học, thậm chí cả chính phủ, và các nhà khoa học của chính phủ Hoa Kỳ hiện nay phủ nhận điều này khi họ chắc chắn đã xem qua các thông tin giống như tôi đã từng thấy. Điều này bao gồm cả Bác sĩ Anthony Fauci. Chúng ta cần biết những gì đã xảy ra ở đây”.
Ông Pompeo nói rằng cuối cùng sẽ có câu trả lời thẳng thắn về việc đại dịch bắt đầu như thế nào, nhưng nó sẽ không đến sớm.
“Sẽ có ai đó từng làm việc trong phòng thí nghiệm này và quyết định rằng họ có thể lẻn ra khỏi Trung Quốc và nói sự thật, tôi tin là như thế. Đáng buồn thay, khi điều đó xảy ra thì đã quá trễ”.
Trong khi đó, ông nhấn mạnh động thái tái gia nhập Tổ chức Y tế Thế giới của chính quyền Biden là “phần thưởng cho người Trung Quốc”, khi chính quyền mới đảo ngược chính sách của cựu Tổng thống Donald Trump.
“Họ đã thông đồng để giữ thông tin này ngoài tầm với của thế giới”, Ông Pompeo nói. “Có nhiều điều mà chính phủ Hoa Kỳ có thể làm để áp lực lên Đảng Cộng sản Trung Quốc cho đến khi họ trở nên minh bạch về vấn đề này. Chúng tôi biết họ đã che đậy loại virus này. Tôi tin rằng chúng ta sẽ tìm thấy bằng chứng phù hợp với một vụ rò rỉ trong phòng thí nghiệm và đó là những gì chúng ta sẽ thấy. Nếu tôi sai, tôi hy vọng Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ tiến ra và chứng minh tôi chỉ là một kẻ ngu ngốc”.
Ông Pompeo nhớ lại rằng vào đầu tháng Giêng năm 2020, chính quyền khi đó đã làm việc “rất chăm chỉ” để có được thông tin “khi chúng tôi đang cố gắng tìm ra những gì sắp xảy ra với thế giới”.
“Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hoàn toàn chìm trong bóng tối”, Ông Pompeo nói. “Họ không nhận điện thoại hoặc trả lời các câu hỏi của chúng tôi. Chúng tôi đã gửi yêu cầu. Chúng tôi không thể nhận được một câu trả lời thẳng thắn. Đại sứ của chúng tôi không thể nhận được câu trả lời thẳng thắn”.
Ông nói thêm rằng chính phủ Trung Quốc “biết họ có vấn đề và không muốn thế giới biết. Họ vẫn có một số vấn đề và họ vẫn không muốn chúng ta biết.”
Source:Reuters
4. Chúc lành và báng bổ - Nhận định của Đức Hồng Y Gerhard Ludwig Müller
Trong một cử chỉ được xem là nổi loạn chống lại Tòa Thánh, hôm 10 tháng 5, hơn một trăm linh mục Công Giáo trên khắp nước Đức, và cả các Giám Mục Đức, bao gồm cả Giám Mục Georg Bätzing, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Đức, đã chủ sự các buổi chúc lành cho các kết hiệp đồng tính. Diễn biến này được xem là một hành động nổi loạn chống lại một tuyên bố của Bộ Giáo Lý Đức Tin hồi tháng Hai, theo đó Giáo Hội không thể chúc lành cho tội lỗi.
Đức Hồng Y Gerhard Ludwig Müller, nguyên tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin có bài nhận định sau đăng trên tờ First Things ngày 24 tháng 5.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
by Gerhard Ludwig Müller
Chúc lành và báng bổ
Vào ngày 10 tháng 5, hơn một trăm linh mục Công Giáo trên khắp nước Đức đã thực hiện các buổi ban phép lành cho các kết hiệp đồng giới. Đây là phản ứng của họ đối với một tuyên bố vào tháng Hai của Bộ Giáo lý Đức tin tái khẳng định rằng Giáo hội không thể chúc lành cho các kết hiệp như vậy. Về mặt thần học, việc dàn dựng các chúc lành giả tạo cho các cặp nam hoặc nữ đồng tính luyến ái là một sự báng bổ - một chế giễu đối với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã viết thư cho các tín hữu thành Thêsalônica rằng Thiên Chúa không muốn gì khác hơn là “anh em nên thánh, tức là xa lánh gian dâm, mỗi người hãy biết lấy cho mình một người vợ để sống cách thánh thiện và trong danh dự, chứ không buông theo đam mê dục vọng như dân ngoại, là những người không biết Thiên Chúa” (1 Tx 4: 3–5).
Nơi hợp pháp và thiêng liêng cho sự kết hợp thể xác của người nam và người nữ là hôn nhân, hay bí tích phu phụ tự nhiên. Bất kỳ hoạt động tình dục được lựa chọn tự do nào ngoài hôn nhân đều là vi phạm nghiêm trọng thánh ý của Thiên Chúa (Dt 13: 4). Tội lỗi chống lại sự khiết tịnh thậm chí còn lớn hơn nếu cơ thể của một người cùng giới tính là công cụ để kích thích ham muốn tình dục. “Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, còn kẻ gian dâm thì phạm đến chính thân xác mình. Chẳng lẽ anh em không biết rằng thân thể của anh em là một đền thờ của Chúa Thánh Thần sao?” (1 Cr 6:18-19).
Những tội lỗi nghiêm trọng chống lại Mười Điều Răn, được tóm tắt trong điều răn yêu mến Thiên Chúa và người lân cận, sẽ làm mất đi ân sủng thánh hóa và sự sống đời đời, nếu chúng ta không ăn năn những tội lỗi đó trong lòng, xưng tội với linh mục và lãnh nhận ơn xá giải giao hòa chúng ta với Thiên Chúa và Giáo hội. “Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp” (1 Cr 6: 9-10).
Trong Kinh Thánh, phúc lành của Thiên Chúa lần đầu tiên được đề cập đến khi con người được tạo ra theo hình ảnh Ngài và giống Ngài. Định chế hôn nhân chia sẻ sự thật rằng sự sáng tạo của chúng ta với tư cách là những người nam và người nữ (St 1:27) thể hiện sự tốt lành tự bả chất của Thiên Chúa. Khi một người nam và một người nữ tự do đồng ý và trong hôn nhân trở thành “một xương một thịt” (St 2:24; Mt 19: 5), lời hứa của Thiên Chúa ngay từ thuở ban đầu sẽ áp dụng cho họ: “Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều’” (St 1:28).
Thiên Chúa đã xác định số lượng những người, bởi công việc sáng tạo của cha mẹ họ, sẽ được sinh ra trong cuộc sống này, và là những người, với tư cách là những cá nhân độc nhất, được tiền định “theo thánh ý và lòng nhân ái của Người, Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giêsu Kitô.” (Ep 1: 5). Mỗi cá nhân được cha và mẹ sinh ra và nâng niu là một sự mặc khải về vinh quang của Thiên Chúa, và điều này cho thấy rằng sự khác biệt được tạo ra giữa nam và nữ và sự hiệp thông trong hôn nhân của họ là những phước lành cho họ, cho Giáo hội của Thiên Chúa Ba Ngôi, và cho tất cả nhân loại.
Lời chúc hôn phối của linh mục trong nghi thức hôn nhân Công Giáo kêu cầu lòng nhân lành được bày tỏ của Thiên Chúa và cầu xin ơn trợ giúp của Người trong lời cầu nguyện chuyển cầu của Giáo hội (ex opere operantis). Điều đó cũng thông báo cho đôi vợ chồng ân sủng thánh hóa của hôn nhân thông qua lời thề vợ chồng của họ (ex opere operato). Đây là lý do tại sao tiềm năng về thể xác và tinh thần cho sự sống trong hành vi vợ chồng và sự cởi mở của hành vi ấy đối với con cái, là những người mà Thiên Chúa muốn bày tỏ vinh quang và ơn cứu rỗi của Ngài, không chỉ tự nó là tốt và không phải là tội lỗi, mà còn là một hành động sinh sản có công, được tính vào cuộc sống vĩnh cửu (x. Thomas Aquinas, Bình luận về 1 Cr 7, lectio 1; Summa Contra Gentiles IV, Cap. 78).
Lời chúc hôn phối được liên kết chặt chẽ với hôn nhân như một định chế cho sự sáng tạo và là một bí tích do Chúa Kitô thiết lập. Lời chúc hôn phối là lời cầu nguyện mạnh mẽ của Giáo hội dành cho cô dâu và chú rể để họ có thể tham gia vào ơn cứu rỗi: để hôn nhân của họ có thể xây dựng Giáo hội và thúc đẩy thiện ích của vợ chồng, con cái và xã hội (Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội Lumen Gentium 11).
Lời chúc hôn phối không giống như các phúc lành và các cử hành thánh hiến khác. Nó không thể tách rời khỏi mối liên hệ cụ thể của nó với bí tích hôn nhân; và không được áp dụng cho các mối quan hệ đối tác chưa kết hôn, hoặc tệ hơn, bị lạm dụng để biện minh cho những kết hợp tội lỗi.
Tuyên bố của Bộ Giáo lý Đức tin vào ngày 22 tháng Hai đơn giản bày tỏ điều mà mọi tín hữu Công Giáo đã được hướng dẫn về những điều cơ bản trong đức tin mà chúng ta đều biết: Giáo hội không có thẩm quyền chúc lành cho các kết hiệp cùng giới tính.
Thật khó tin khi các giám mục và các nhà thần học đột nhiên nhấn mạnh vào sự cấp bách mục vụ trong việc chúc lành cho các cặp đồng tính luyến ái ở những khu vực mà trong nhiều tháng qua các tín hữu đã bị tước mất sự an ủi và ân sủng của các bí tích trong thời kỳ coronavirus. Sự kiện này cho thấy nền tảng giáo lý, luân lý và phụng vụ đã chìm xuống thấp đến mức nào. Trong khi các giám mục thản nhiên cấm tham dự Thánh lễ, cấm thăm viếng người bệnh và cấm đám cưới trong nhà thờ vì nguy cơ lây nhiễm bệnh, thì họ lại tuyên bố rằng cần phải chúc lành khẩn cấp cho các cặp đồng tính. Thật khó tin biết chừng nào.
Vì vậy, vụ tai tiếng ở Đức không chỉ liên quan đến cá nhân và lương tâm của họ. Nó cũng không chỉ báo hiệu mối nguy cho an sinh của họ ở đời tạm này và phần rỗi vĩnh cửu của họ. Thay vào đó, những gì chúng ta đang chứng kiến là sự phủ nhận có tính cách dị giáo đối với đức tin Công Giáo trong bí tích hôn nhân và phủ nhận chân lý nhân chủng học rằng sự khác biệt giữa nam và nữ thể hiện ý muốn của Thiên Chúa trong việc tạo dựng.
Chủ nghĩa bài Công Giáo từ lâu đã ghi dấu trong nền văn hóa Đức ở nền tảng, cũng như sự thù địch ngu xuẩn đối với Đức Giáo Hoàng là người kế vị Thánh Phêrô. Tinh thần người Đức có khuynh hướng đi theo chủ nghĩa lý tưởng hóa, tin rằng tinh thần và đạo đức của nó vượt quá giới hạn của những gì mang tính bí tích và hữu hình, và trên cả những hình thái được Rôma xác định nhưng bị coi chỉ là do con người tạo ra từ đầu đến cuối. Cuối cùng, tính kiêu ngạo này dẫn trở lại nơi giam cầm cơ thể và bản năng không thể cứu rỗi của nó. Vì nhiều người tin rằng “chống lại Rôma” là một dấu chỉ của sự thật, những kẻ kích động cố gắng áp đặt quan điểm của họ, ngay cả khi nó đe dọa sự hợp nhất của Giáo hội và mâu thuẫn với giáo huấn của các Tông đồ. Trộn lẫn “kinh nghiệm sống” với mặc khải có một lịch sử đáng buồn ở Đức. Dù được chấp nhận một cách ngây thơ hay tự nguyện, sự tách biệt sai lầm này thúc đẩy tinh thần Kitô hướng tới một nền ngoại giáo mới chỉ được ngụy trang mỏng manh dưới lớp áo phụng vụ Kitô Giáo.
Vào đầu những năm 1930, hàng triệu người đã bị biến thái bởi sự chống đối Giáo Hội Công Giáo, và cả sự phản đối “tính chính thống” của Giáo Hội Tin lành. Nhà tuyên truyền của Đức Quốc xã Alfred Rosenberg đã phỉ báng Giáo Hội tại Đức là chịu khuất phục trước quyền lực của Rôma và đang xiển dương “các luật lệ, mặc khải, giáo đường và tín ngưỡng ngày nay như những giáo điều cao hơn nhu cầu thiết yếu của người dân Đức đang đấu tranh cho tự do bên trong và bên ngoài”.
Trên thực tế, sự sống và chân lý là một trong Chúa Kitô (Ga 14: 6). Và tình yêu không phải là thứ làm cho ta hạnh phúc, thỏa mãn bản năng của ta, làm tê liệt ta trong chủ nghĩa hư vô, và tạm thời xoa dịu căn bệnh tâm hồn của ta. “Anh em đừng yêu thế gian và những gì ở trong thế gian. Kẻ nào yêu thế gian thì nơi kẻ ấy không có lòng mến Chúa Cha, vì mọi sự trong thế gian: như dục vọng của tính xác thịt, dục vọng của đôi mắt và thói cậy mình có của, tất cả những cái đó không phát xuất từ Chúa Cha, nhưng phát xuất từ thế gian; mà thế gian đang qua đi, cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi” (1 Ga 2:15-17)
Các giám mục và những nhà thần học người Đức này coi dân chúng như những kẻ ngu ngốc; họ tuyên bố có kiến thức chú giải thần bí cho phép họ giải thích những câu Kinh thánh lên án những điều trái với tự nhiên một cách nào đó lại tương thích với những khẳng định về sự kết hợp đồng giới. (Điều này được thực hiện bằng cách chia nhỏ tình yêu vợ chồng thành các khía cạnh riêng lẻ, và một số trong đó được áp dụng cho các kết hợp đồng giới.) Nhưng các luật lệ phò đồng tính được vận động bởi một nhóm đồng tính nam có trong tay hàng tỷ đô la không thể phá hủy sự thật về bản chất con người. Phúc lành của Thiên Chúa chỉ có thể được truyền đạt bởi Giáo hội của Ngài.
“Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Trong Đức Kitô, từ cõi trời, Người đã thi ân giáng phúc cho ta hưởng muôn vàn ơn phúc của Thánh Thần.” Phước lành này là sức mạnh hữu hiệu của tình yêu thương, giúp giải thoát chúng ta khỏi lòng tự ái để chúng ta có thể trở thành anh chị em với nhau, và liên kết chúng ta với nhau như con cái của Thiên Chúa. Nguyên tắc này là tối quan trọng: “Đừng dùng sự tự do của mình làm cơ hội cho xác thịt, nhưng hãy nhờ tình yêu thương mà trở thành tôi tớ của nhau” (Gal 5:13).
Cảnh tượng của những buổi chúc phúc đồng giới không chỉ đặt vấn đề về tính ưu việt của thẩm quyền giáo huấn của ngai tòa Phêrô, vốn dựa trên mặc khải, mà còn đặt câu hỏi về thẩm quyền của chính sự mặc khải của Thiên Chúa. Điều mới mẻ trong nền thần học quay trở lại với ngoại giáo này là sự khăng khăng trâng tráo tự gọi mình là Công Giáo, gây hiểu lầm rằng người ta có thể gạt bỏ Lời Chúa trong Thánh Kinh và Truyền thống Tông đồ, và coi những điều đó chỉ là quan điểm ngoan đạo và những biểu hiện của cảm xúc và lý tưởng tôn giáo có thời hạn nhất định cần phải tiến hóa và phát triển cho phù hợp với những trải nghiệm, nhu cầu và tinh thần mới. Ngày nay, chúng ta được biết rằng việc giảm lượng khí thải CO2 còn quan trọng hơn việc tránh xa những tội lỗi chết người khiến chúng ta xa cách Thiên Chúa mãi mãi.
Tiến Trình Công Nghị không được giáo luật của Giáo Hội Công Giáo công nhận. Nó được thúc đẩy bởi các định kiến chống giáo sĩ: như cho rằng các linh mục và giám mục bị ám ảnh bởi quyền lực; những người giữ lời thề độc thân thì bị cho là có xu hướng tình dục đồi bại; hay cho rằng hàng giáo sĩ cố tình ngăn cản phụ nữ khỏi các nhóm nam giới của họ và bác bỏ việc phong cho phụ nữ những danh hiệu cao trong Giáo Hội.
Vì chân lý Phúc Âm và sự hiệp nhất của Giáo hội, Rôma không được im lặng theo dõi, hy vọng rằng mọi thứ sẽ không trở nên quá tệ, hoặc cho rằng người Đức có thể được vỗ về bằng những chiến thuật khôn khéo và những nhượng bộ nhỏ. Chúng ta cần một tuyên bố rõ ràng về nguyên tắc với những hệ quả thực tế. Điều này là cần thiết để sau năm trăm năm chia rẽ, tàn dư của Giáo Hội Công Giáo ở Đức không bị tan rã, gây ra những hậu quả tàn khốc cho Giáo hội hoàn vũ.
Quyền tối thượng được trao cho Giáo hội Rôma không chỉ vì các đặc quyền của Ngai Tòa Phêrô, mà người nắm giữ có thể thực thi theo ý mình, nhưng hơn thế nữa vì nhiệm vụ nghiêm trọng của Đức Giáo Hoàng, được Chúa Giêsu giao cho ngài, là bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội hoàn vũ trong đức tin được mặc khải.
Tại Lễ Trọng kính hai Thánh Phêrô và Phaolô, Đức Giáo Hoàng Lêô Cả đã nói về thử thách về sự kiên định cần có của tất cả các Tông đồ trong cuộc Khổ nạn: “Tuy nhiên, Chúa đặc biệt quan tâm đến Thánh Phêrô và đặc biệt cầu nguyện cho đức tin của Phêrô (Lc 22:32), như thể những người khác sẽ kiên định hơn nếu lòng dũng cảm của người lãnh đạo không bị lung lay. Nơi sức mạnh của Thánh Phêrô, tất cả mọi người đều được củng cố, vì sự trợ giúp của ân sủng thiêng liêng được coi là sức mạnh ban cho Phêrô sẽ truyền qua ngài đến các Tông đồ” (Bài giảng 83: 3).
Source:First Things