Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Đức Thánh Cha chủ sự lễ cầu nguyện cho các Hồng Y, Giám Mục quá cố

Trưa thứ Sáu 4 tháng 11, Đức Thánh Cha đã chủ sự thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô để cầu nguyện cho các Hồng Y và Giám Mục qua đời trong 12 tháng qua.

Đồng tế với Đức Thánh Cha có gần 60 Hồng Y và Giám Mục hiện diện ở Roma, trước sự tham dự của gần 1 ngàn tín hữu.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nhắc đến các hoạt động của các vị chủ chăn đoàn chiên của Chúa Kitô đã tận tụy phục vụ và hy sinh vì phần rỗi của những người đã được ủy thác cho các vị chăm sóc, đã thánh hóa họ nhờ các bí tích và dìu dắt họ trên con đường cứu độ.

Ngài nói:

“Đầy quyền năng của Chúa Thánh Linh, các vị chủ chăn ấy đã loan báo Tin Mừng, và với tình phụ tử, đã cố gắng thương yêu tất cả mọi người, đặc biệt là những người nghèo, người vô phương thế tự về và những người cần được trợ giúp”.

Đức Thánh Cha cũng nói rằng: “Qua sứ vụ, các vị chủ chăn ấy đã in vào tâm hồn các tín hữu chân lý đầy sức an ủi, theo đó “ơn thánh và lòng thương xót của Chúa dành cho những người được Ngài tuyển chọn” (Kn 3,9), Nhân danh Thiên Chúa từ bi và tha thứ, đôi tay các vị đã chúc phúc và xá giải, những lời của các vị đã an ủi và lau khô nước mắt, sự hiện diện của các vị đã làm chứng một cách hùng hồn rằng lòng từ nhân của Thiên Chúa thật là vô tận và lòng thương xót của Chúa thật là vô biên. Một số vị chủ chăn ấy đã được kêu gọi làm chứng tá cho Tin Mừng đến mức độ anh hùng, chịu đựng những u sầu nặng nề”.

Và Đức Thánh Cha kết luận rằng “Dưới ánh sáng mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô, cái chết của các vị là bước vào cuộc sống sung mãn. Và dưới ánh sáng ấy chúng ta cảm thấy càng được gần gũi với những người anh em quá cố của chúng ta: cái chết có vẻ phân ly chúng ta với các vị, nhưng quyền năng của Chúa Kitô và Thần Khí của Ngài liên kết chúng ta với các vị ấy càng sâu xa hơn nữa. Chúng ta tiếp tục cảm thấy các vị ở cạnh trong sự hiệp thông của các thánh”.

2. Ðức Thánh Cha dâng lễ cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.

Hôm mùng 2 tháng 11, toàn thể Giáo Hội tưởng nhớ và cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời. Ðức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh lễ vào 4h chiều tại Nghĩa trang Prima Porta của Roma, cách Thành Vatican 15km về phía bắc. Trước Thánh lễ, Ðức Thánh Cha đăng trên tweet lời mời gọi cầu nguyện ngay cả cho “những người đã qua đời mà không còn ai nhớ tới”.

Chia sẻ trong Thánh lễ, Ðức Thánh Cha nói: nhớ về những người quá cố với niềm hy vọng vào sự phục sinh.

Ông Gióp đã đi trong bóng tối khi ông cận kề cái chết. Trong giây phút đau khổ tột cùng, ông tuyên xưng niềm hy vọng: “Tôi biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất!... Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Ðấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ” (Gióp 19:25.27).

Khi tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố, có hai ý nghĩa. Một là cảm giác buồn bã: nghĩa trang gợi nhớ sự buồn bã, buồn vì những người thân yêu của chúng ta đã ra đi, cũng buồn bã khi nghĩa trang gợi nhắc tương lai về cái chết của mỗi người. Thế nhưng, trong nỗi buồn này, chúng ta mang theo những bó hoa gợi nhắc dấu chỉ niềm hy vọng. Như thế, nỗi buồn và niềm hy vọng đan xen nhau. Và đây là tất cả những gì chúng ta cảm thấy trong ngày hôm nay: một ký ức về những người thân yêu, và hướng tới niềm hy vọng.

Chúng ta cảm thấy rằng, niềm hy vọng này nâng đỡ chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta đều phải làm cuộc hành trình này. Tất cả chúng ta sẽ trải qua hành trình này. Kẻ trước người sau, đau buồn ít hay nhiều, nhưng là tất cả mọi người. Thế nhưng chúng ta có bông hoa của niềm hy vọng, niềm hy vọng đặt nơi cái neo của sự phục sinh.

Người đầu tiên đã làm điều này, người đầu tiên đã phục sinh là Chúa Giêsu. Chúng ta bước đi trên con đường mà Người đã đi. Người mở cửa cho chúng ta, và cánh cửa là chính Người. Với Thập giá, Chúa Giêsu mở ra cánh cửa hy vọng cho chúng ta để chúng ta sẽ ở nơi chiêm ngưỡng Thiên Chúa. “Tôi biết rằng Ðấng bênh vực tôi vẫn sống, và sau cùng, Người sẽ đứng lên trên cõi đất!... Chính tôi sẽ được ngắm nhìn Người, Ðấng mắt tôi nhìn thấy không phải người xa lạ.”

Hôm nay chúng ta trở về nhà với hai điều khắc ghi: một kí ức về quá khứ về những người thân yêu của chúng ta đã qua đời, và một niềm hy vọng về tương lai về con đường mà chắc chắn chúng ta sẽ đi. Cùng với sự đảm bảo chắc chắn từ lời hứa của Chúa Giêsu: “Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6:40).

3. Đức Thánh Cha đau buồn vì tất cả các nhà thờ trong vùng Norcia bị động đất tàn phá hoàn toàn

Tất cả các nhà thờ ở Norcia (tiếng Ý gọi là Nursia), nơi sinh của Thánh Biển Đức, đã bị phá hủy bởi các trận động đất ngày 30 tháng 10. Cả ngôi nhà thờ kính thánh Biển Đức từ thời Trung Cổ cũng bị san bằng.

Các tu sĩ Biển Đức ở Norcia cho biết

“Tất cả các nhà thờ ở Norcia bị san thành bình địa. Tất cả, không sót một ngôi nhà thờ nào. Mái nhà sụp xuống nền nhà thờ. Nhưng thật là một phép lạ vì không trường hợp tử vong nào.”

Sau khi về lại Vatican sau chuyến tông du Thụy Điển, vào tối thứ tư, Đức Thánh Cha Phanxicô gọi điện cho Đức Tổng Giám Mục tổng giáo phận Spoleto-Norcia, là Đức Cha Renato Boccardo, để bày tỏ sự gần gũi của ngài với dân chúng trong thung lũng Valnerina, được hình thành bởi sông Nera, chảy từ vùng Marche của Ý vào vùng Umbria. Thung lũng này là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nhất bởi các trận động đất từ 26 đến 30 tháng Mười.

Đức Tổng Giám Mục đang ở Norcia trong chuyến viếng thăm của tổng thống Italia Sergio Mattarella. Tổng thống đã đi thị sát các vùng bị thiệt hại nặng nhất bởi các trận động đất.

Đức Tổng Giám mục Boccardo cho biết ngài giải thích cho Đức Thánh Cha về “những khó khăn và nỗi sợ hãi của người dân giờ đây đang lâm vào tình cảnh vô gia cư và không cảm thấy an toàn. Trong hai tháng đầy những trận động đất, chúng tôi chịu nhiều mất mát to lớn các di sản đức tin và nghệ thuật trong thung lũng của chúng tôi.”

Ông nói thêm đó Đức Thánh Cha Phanxicô bảo đảm với ông những lời cầu nguyện và ban phép lành cho người dân chịu ảnh hưởng.

“Đức Giáo Hoàng cho biết ngài rất buồn bởi sự sụp đổ rất nhiều tòa nhà thiêng liêng, biểu tượng đức tin và bản sắc của người dân”, Đức Tổng Giám mục Boccardo nói.

4. Đức Thánh Cha nói về vấn đề phong chức linh mục cho nữ giới

Về vấn đề có hay không việc phong chức linh mục cho nữ giới trong Giáo Hội Công Giáo trong những thập kỷ tới, và nếu không, tại sao không, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cho biết như sau: “lời chung cuộc về vấn đề này đã rõ ràng” và đã được đưa ra bởi Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và “điều này được giữ nguyên”.

Đồng thời, Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng Giáo Hội học Công Giáo có hai chiều kích: chiều kích Phêrô là chiều kích của các Tông Đồ - Phêrô và Đoàn Tông Đồ là mục vụ của các Giám Mục – và chiều kích thánh mẫu Maria là chiều kích nữ giới của Giáo Hội. Và điều này tôi đã nói hơn một lần rồi. Tôi tự hỏi, ai quan trọng hơn trong nền thần học và trong nền thần bí của Giáo Hội: các tông đồ hay Đức Maria, trong ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống? Đó là Đức Maria! Còn hơn thế nữa: Giáo Hội là phụ nữ. Đó là “La” Chiesa giống cái, chứ không phải “Il” Chiesa giống đực. Đó là Giáo Hội phụ nữ. Đó là Giáo Hội hiền thê của Chúa Giêsu Kitô. Đó là một mầu nhiệm phu thê. Và dưới ánh sáng của mầu nhiệm này người ta hiểu cái tại sao của hai chiều kích này: chiều kích phêrô, nghĩa là giám mục và chiều kích thánh mẫu Maria, với tất cả những gì là chức làm mẹ của Giáo Hội, nhưng trong nghĩa sâu thẳm nhất. Không có Giáo Hội mà không có chiều kích nữ giới này, bởi vì Giáo Hội là nữ giới.

5. Chuyện đau buồn: Đánh nhau ngay tại Bức Tường Than Khóc

Bạo loạn đã xảy ra giữa những người Do Thái thuộc phái chính thống và những người Do Thái thuộc phái bình đẳng nam nữ vào ngày thứ Tư 2 tháng 11 ngay tại Bức tường Than Khóc trong khu vực Cổ Thành Giêrusalem. Những tranh cãi đã nhanh chóng bùng phát thành một vụ đánh đấm dữ dội lôi cuốn 12 giáo sĩ Do Thái và khoảng 200 người khác. Không ai chết nhưng rất nhiều người bị thương phải đưa vào nhà thương cấp cứu.

Neshot HaKotel, tiếng Anh gọi là Women of the Wall, nghĩa là nhóm Phụ nữ giành quyền bình đẳng tại Bức tường Than Khóc, là nhóm nữ quyền Do Thái muốn giành được quyền cầu nguyện tại Bức tường Than Khóc, hay còn gọi là Kotel, theo cách của họ bao gồm ca hát, nhảy múa, rước và đọc lớn những đoạn văn từ Torah và mặc các phẩm phục tôn giáo vẫn thường dành riêng cho nam giới.

Các giáo sĩ Do Thái tại Bức tường Than Khóc quy định rằng nam nữ không được cầu nguyện chung mà phải đứng tại các khu vực dành riêng tách biệt với nhau. Các giáo sĩ Do Thái cũng cấm không cho phụ nữ được mặc các phẩm phục tôn giáo và không được chạm đến sách Torah.

Phong trào Neshot HaKotel thường tổ chức các buổi cầu nguyện mỗi tháng một lần với các ý chỉ đặc biệt cho phụ nữ. Để lôi cuốn nhiều người tham gia, ban đầu họ chấp nhận quy định nam nữ không được đứng chung cầu nguyện với nhau. Nhưng việc họ ca hát, nhảy múa, đọc lớn những đoạn văn từ Torah và mặc các phẩm phục tôn giáo vẫn khiến cho nhiều người Do Thái bảo thủ và cực đoan bất bình. Nhiều cuộc biểu tình cuả cả hai bên nổ ra và nhiều người bị bắt.

Tháng Năm năm 2013, một thẩm phán phê bình Tòa Án Tối Cao Israel cấm phụ nữ không được rước sách Torah và không được mặc phẩm phục shawls là không có cơ sở. Đầu tháng Giêng năm nay, Hội Đồng Nội Các Israel chuẩn y một kế hoạch thành lập một khu vực tại Bức tường Than Khóc nơi nam nữ có thể đứng chung. Khu vực này cũng không thuộc thẩm quyền tài phán của Hội Đồng Giáo Sĩ Do Thái.

Tuy nhiên kế hoạch này gặp những chống đối dữ dội. Một số đảng trong liên minh cầm quyền của thủ tướng Benjamin Netanyahu đe doạ rút lui nếu kế hoạch này được thực hiện.

Do đó, các cãi vã lại tiếp tục diễn ra mỗi tháng một lần khi các phụ nữ nhóm Neshot HaKotel đến đây cầu nguyện. Tuy nhiên, đây có lẽ là lần đầu tiên các tranh cãi đã bùng nổ thành một vụ thượng cẳng tay, hạ cẳng chân.

6. Đức Giám Mục San Diego khuyên các linh mục nên tránh ủng hộ hay kết án các ứng viên tổng thống

Đức Giám Mục Robert McElroy của San Diego, California, đã khuyên tất cả các linh mục trong giáo phận của ngài hãy kiềm chế và tránh đừng ủng hộ hay lên án các ứng cử viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm nay được diễn ra vào ngày thứ Ba 8 tháng 11.

Đức Cha McElroy đã đưa ra thông báo sau khi đảng Dân Chủ Mỹ phản ứng trước các báo cáo theo đó một bản tin giáo xứ trong giáo phận San Diego nói rằng người Công Giáo sẽ phạm một tội nghiêm trọng nếu họ bỏ phiếu cho Hillary Clinton.

Ngài viết:

“Hãy để tôi nhấn mạnh một lần nữa, là trong khi chúng ta có một vai trò đạo đức trong việc giải thích cách thức giáo huấn Công Giáo liên quan thế nào đến các chính sách công cộng nhất định, chúng ta không nên ủng hộ các ứng cử viên cụ thể. Không nên dùng các phương tiện truyền thông giáo xứ hoặc các bản tin để ủng hộ các ứng cử viên hoặc các đảng phái bằng những ngôn ngữ được che đậy về việc chọn lựa các ứng viên, hay tham gia vào các hoạt động chính trị đảng phái”.

Đức Giám Mục McElroy nhắc nhở các linh mục rằng hoạt động chính trị đảng phái có thể gây nguy hiểm cho tình trạng được miễn thuế của Giáo Hội. Ngài nhắc các linh mục rằng mọi tài liệu liên quan đến chính trị của các giáo xứ nên được chấp thuận bởi giáo phận, các giám mục Công Giáo tại California, và Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ.

7. Hầu hết các khu vực Kitô Giáo trong thành Mosul đã được giải phóng

Lực lượng đặc biệt của Iraq cho biết họ đã chiếm lại được thêm sáu quận phía đông thành phố Mosul vào hôm thứ Sáu 4 tháng 11. Bất chấp lời hô hào của trùm khủng bố Baghdadi ra lệnh cho các chiến binh thánh chiến không được rút lui, bọn khủng bố Hồi Giáo IS tiếp tục rút chạy khỏi phần phía Đông sông Tigris.

Sáu quận được giải phóng hôm thứ Sáu là Malayeen, Samah, Khadra, Karkukli, Quds và Karama.

Các vùng được giải phóng cho đến nay chỉ là một phần nhỏ của thành phố Mosul, là một thành phố bao la được chia thành hàng chục khu dân cư và công nghiệp, và là quê hương của 2 triệu người trước khi bị quân khủng bố Hồi Giáo IS chiếm vào tháng 6 năm 2014.

Các vùng được giải phóng thuộc về phần phía Đông của thành phố Mosul, trong khu vực có đa số dân là người Công Giáo nghi lễ Canđê. Theo thông tấn xã Assyrian International, hầu hết các khu vực Kitô Giáo trong thành Mosul đã được giải phóng. Hơn 300 ngôi nhà thờ trong các khu vực này bị quân khủng bố Hồi Giáo IS đốt phá và cướp bóc. Hầu hết đều bị đặt bom khi bọn khủng bố Hồi Giáo IS rút chạy.

Cuộc chiến tại Mosul là hoạt động quân sự lớn nhất tại Iraq kể từ cuộc xâm lược của Mỹ vào năm 2003, và có khả năng quyết định số phận của cái gọi là “Nhà nước Hồi giáo” được hình thành tại Mosul vào tháng 8 năm 2014.

Chiến cuộc được xem là dễ dàng với quân Iraq trong các khu vực Kitô Giáo nơi vẫn được xem là “khu nhà giàu” trong thành phố Mosul. Nơi đây nhà cửa ít và đường phố rộng rãi. Khu vực phía tây của sông Tigris, nơi đa số dân là Hồi giáo Sunni, được kể là cam go hơn nhiều. Nhà cửa trong khu vực phía Tây đông đúc, nhỏ hẹp, chằng chịt các đường hẻm. Đây cũng là nơi có lẽ quân khủng bố Hồi Giáo IS được sự ủng hộ nhiều hơn. Liên Hiệp Quốc cho biết quân khủng bố Hồi Giáo IS đã tuyển mộ một số đông trẻ con trong khu vực này tham gia chiến đấu chống lại các lực lượng liên quân.

Trong một bài phát biểu được đưa ra hôm thứ Năm 3 tháng 11, trùm khủng bố Baghdadi hô hào các chiến binh thánh chiến không được rút lui trong cuộc “chiến tranh tổng lực” chống lại các lực lượng đang dàn trận chống phá Nhà nước Hồi giáo. Y nói các chiến binh thánh chiến phải trung thành với các chỉ huy của họ.

Baghdadi đang trốn ở đâu là một đề tài được nói đến nhiều trong những ngày qua. Tờ The Independent trích thuật nguồn tin của tình báo Kurd nói Baghdadi đang trốn trong thành Mosul. Trong khi đó, Ngoại trưởng Anh là ông Boris Johnson nói tình báo của Vương quốc Anh tin rằng hắn đã bỏ trốn khỏi Mosul, và đang trốn trong khu vực Baaj, 130 km về phía tây Mosul.

8. Giới hạn trong việc chia sẻ Thánh Thể giữa Công Giáo và Tin lành Luther

Trong chuyến viếng thăm Thụy điển của Ðức Giáo hoàng Phanxicô từ ngày 31 tháng 10 đến 01 tháng 11 năm 2016, Ðức Hồng Y Kurt Koch, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh Cổ võ Hiệp nhất Kitô hữu đã nói về những giới hạn trong việc chia sẻ Bí tích Thánh Thể giữa các tín hữu Công Giáo và Tin lành Luther.

Ðức Hồng Y giải thích về việc Giáo Hội Công Giáo phân biệt giữa “eucharistic hospitality” nghĩa là hiệp thông hiếu khách cho một số cá nhân và “eucharistic communion” nghĩa là hiệp thông Thánh Thể.

Từ ngữ hospitality được dùng để chỉ việc chào đón các vị khách lãnh nhận Thánh Thể trong một số trường hợp đặc biệt hay với một số điều kiện nhất định nào đó khi họ nhìn nhận bí tích như là sự hiện diện thật sự của Chúa Kitô. Ví dụ về Eucharistic hospitality là trường hợp thầy Roger Schutz, sáng lập cộng đoàn Taizé, là tín hữu Tin lành cải cách, thầy vẫn lãnh nhận Thánh Thể trong Thánh lễ Công Giáo. Còn hiệp thông Thánh Thể lại nói đến một tình trạng lãnh nhận Thánh Thể bình thường của những người được xem như thuộc về cùng gia đình.

Ðức Hồng Y Koch đã nói trong một cuộc họp báo: “Ðối với các tín hữu Công Giáo, hiệp thông Thánh Thể là một mục đích của đối thoại đại kết và sẽ là “một dấu chỉ hữu hình của hiệp thông trong Giáo Hội” hay hiệp nhất trọn vẹn. Ðó là lập trường của Giáo Hội Công Giáo và Giáo Hội tiếp tục khẳng định điều này.

Ðức Hồng Y cũng nói đến vấn đề hospitality trong trường hợp hôn nhân hỗn hợp. Ngài xác định đó là một câu hỏi mục vụ, cần thảo luận, đặc biệt là ở cấp độ giáo phận. Theo ngài, việc đưa ra một tuyên ngôn chúng cho toàn Giáo Hội rất khó khăn, vì hoàn cảnh mục vụ ở mỗi đất nước khác nhau.

Trong tuyên ngôn chung được Ðức Phanxicô và Giám mục Munib Younan của Tin lành Luther, chủ tịch Hiệp hội Luther thế giới cùng ký vào ngày 31 tháng 10 năm 2016, hai vị nhìn nhận việc nhiều thành viên của các cộng đoàn khao khát đón nhận Thánh thể từ cùng một bàn tiệc như là cách diễn tả sự hiệp nhất trọn vẹn. Tuyên ngôn cũng nhìn nhận trách nhiệm mục vụ chung giải cơn đói khát thiêng liêng được trở nên một trong Chúa Kitô của các tín hữu. Ðức Giáo hoàng Phanxicô và Ðức Giám mục Munib Younan không cho phép thêm những trường hợp chia sẻ Thánh Thể nhưng diễn tả mong đợi cho vết thương trong thân mình Chúa Kitô được chữa lành với sự giúp đỡ của việc gia tăng các cuộc đối thoại thần học.

9. Đức Thánh Cha nói về vấn đề người tị nạn

Trong cuộc họp báo trên chuyến bay trở về Rôma sau chuyến thăm của ngài tới Thụy Điển, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói về một loạt các chủ đề bao gồm việc chào đón những người tị nạn, việc phong chức linh mục cho nữ giới, quan hệ với các phong trào canh tân trong Thánh Linh, cuộc hội đàm với Tổng thống Venezuela, hiện trạng tục hóa trong xã hội, các chuyến tông du sắp tới của ngài bên ngoài Ý Đại Lợi và nạn buôn bán người.

Câu hỏi đầu tiên được đặt ra với Đức Thánh Cha là phản ứng của ngài trước thực trạng là ngày càng có nhiều người đến từ Syria hay Iraq xin tỵ nạn tại các nước Âu châu, và lục địa này đã phản ứng với sự sợ hãi, hay tệ hơn có người nghĩ rằng những người tỵ nạn này có thể đe dọa nền văn hóa của Kitô giáo Thụy Điển, là quốc gia có truyền thống dài tiếp đón người tỵ nạn, nhưng bây giờ đã bắt đầu đóng cửa biên giới của mình.

Đức Thánh Cha cho biết với tư cách là người Á Căn Đình và Nam Mỹ ngài cám ơn nước Thụy Điển rất nhiều vì sự tiếp đón này, bởi vì có rất nhiều người Á Căn Đình, Chilê, Uruguay đã được tiếp nhận vào Thuỵ Điển trong thời các chế độ quân phiệt độc tài. Thụy Điển đã có một truyền thống lâu dài tiếp nhận người tỵ nạn. Nhưng không phải chỉ tiếp nhận thôi, mà còn hội nhập họ, tìm nhà cửa, trường học và công việc làm ngay cho họ, hội nhập họ vào cuộc sống của một dân tộc.

Điều thứ hai, cần phải phân biệt người di cư và người tỵ nạn. Người di cư phải được đối xử với vài luật lệ nào đó, bởi vì di cư là một quyền, nhưng là một quyền được luật lệ xác định. Trái lại người tỵ nạn đến từ một tình trạng chiến tranh, lo âu, đói khổ, một tình trạng kinh khủng, và quy chế tỵ nạn cần săn sóc họ nhiều hơn và cho họ công việc làm nhiều hơn.

Liên quan tới khiá cạnh hội nhập các nền văn hóa chúng ta không có gì phải hoảng hốt, bởi vì Âu châu đã được tạo thành với một sự hội nhập liên tục của các nền văn hóa, biết bao nền văn hóa.

Với những nước đóng cửa biên giới, Đức Thánh Cha tin rằng trên lý thuyết không thể khép kín tâm hồn đối với một người tỵ nạn, nhưng cũng cần sự thận trọng của giới lãnh đạo: họ phải rất rộng mở tiếp đón người tỵ nạn, nhưng cũng phải tính toán xem có thể ổn định người tỵ nạn như thế nào. Bởi vì không phải chỉ tiếp đón một người tỵ nạn mà thôi, nhưng cũng cần phải hội nhập họ nữa. Và nếu một nước có khả năng hội nhập 20 người thôi, chẳng hạn, thì hãy làm tới đó thôi. Một nước khác có khả năng nhiều hơn, thì làm nhiều hơn. Nhưng luôn luôn phải có con tim rộng mở: đóng cửa không phải là nhân đạo, đóng con tim không phải là nhân bản, và về lâu về dài phải tính sổ với điều đó.

10. Indonesia: Hồi giáo biểu tình rầm rộ chống lại viên thống đốc Tin Lành

Cảnh sát ở Jakarta đã phải sử dụng hơi cay để giải tán một cuộc biểu tình đông tới hơn 100,000 người Hồi giáo nhằm phản đối viên thống đốc của thủ đô Indonesia.

Ông Basuki Tjahaja Purnama, sinh năm 1966, đã trở thành Thống đốc Jakarta thứ 17 vào năm 2014. Ông là người Kitô hữu đầu tiên giữ chức vụ này, và bây giờ đang tranh cử cho một nhiệm kỳ mới.

Một số người Hồi giáo đã phản đối vai trò của ông, với lý luận rằng người Hồi giáo không nên thuộc thẩm quyền của một kẻ “vô đạo” Cuộc biểu tình quy mô lớn vào ngày 04 tháng 11 dường như để minh họa sức mạnh ngày càng gia tăng của các lực lượng Hồi giáo vũ trang ở Indonesia, là đất nước có dân số Hồi giáo lớn nhất thế giới, nhưng cũng là một đất nước có một lịch sử lâu dài về sự hợp tác giữa các tôn giáo.

Các cuộc biểu tình chống Purnama cũng được thúc đẩy bởi lý do ông là người gốc Trung Hoa. Người Indonesia thường căm ghét người Trung Hoa.

11. Đặc phái viên Vatican tại Liên Hiệp Quốc ca ngợi Li Băng, Jordani chấp nhận người tị nạn

Phát biểu hôm 04 tháng 11 trong một phiên họp của Liên Hợp Quốc về công tác nhân đạo với những người tị nạn Palestine, đại diện của Vatican đã ca ngợi Li Băng và Jordani về “sự hợp tác lâu dài của họ” trong công tác nhân đạo này, và nói rằng cả hai nước đều cần sự giúp đỡ của quốc tế trong việc đối phó với dòng người tị nạn.

Đức Tổng Giám Mục Bernardito Auza nhận xét rằng Li Băng và Jordani, bất chấp tài nguyên hạn chế của mình, đã mở rộng vòng tay với nhiều người tị nạn Palestine trong quá khứ và hiện nay đang “anh dũng, cùng với một số nước khác trong khu vực, đón tiếp dòng người tị nạn từ Iraq và Syria.”

Đức Tổng Giám Mục báo cáo rằng có hơn 5 triệu người Palestine là những người hiện đang cần hỗ trợ nhân đạo. Tổng hợp vấn đề, ngài cho biết, những người tị nạn là những nạn nhân của các “tội ác đáng ghê tởm”, cố ý nhắm mục tiêu vào các trại tị nạn ở Syria. Đáng tiếc là “không có nhiều hy vọng là tất cả những hành vi man rợ chống lại dân thường và những người tị nạn Palestine sẽ sớm được kết thúc.”

12. Tòa án Nigeria tha bổng các can phạm đã ăn quịt lại còn đánh chết một phụ nữ Công Giáo

Giáo phận Kano đã bày tỏ sự buồn phiền của mình trước một phán quyết của Toà Thượng Thẩm Kano, Nigeria tha bổng cho 5 bị can đã đánh chết một phụ nữ Công Giáo.

Bridget Patience Agbahime, là một phụ nữ Công Giáo bán hàng rong trên đường phố Kano, đã bị đánh đến chết vào tháng Sáu sau khi một người thanh niên trẻ ăn quịt của cô rồi hô hoán lên là cô đã xúc phạm tiên tri Muhammad.

Mặc dù những người chung quanh phủ nhận cáo buộc này, 4 người đàn ông khác cùng với người ăn quịt đã xông vào đánh cô đến chết.

Giáo phận Kano nằm ở phía Bắc Nigeria có 198,000 người Công Giáo chiếm tỉ lệ 1.8% trong tổng số 11,184,000 dân đa số theo Hồi Giáo.

13. Ý cầu nguyện của Đức Thánh Cha trong tháng 11

Trong tháng Mười Một, Đức Thánh Cha đặc biệt cầu nguyện cho người di cư được các quốc gia đón nhận.

Ý chung: Cầu cho số đông người di cư và tị nạn, được các quốc gia đón tiếp và trợ giúp, trong nỗ lực thể hiện tình liên đới với họ.

Ý truyền giáo: Cầu cho tại các giáo xứ, các linh mục và giáo dân cộng tác nhiệt thành với nhau để phục vụ cộng đoàn.

Kính mời quý vị cùng hiệp thông cầu nguyện với Đức Thánh Cha qua đoạn video sau:

Từng quốc gia đơn lẻ có thể giải quyết vấn đề những người buộc phải di cư không? Chúng ta phải vượt qua sự thờ ơ và nỗi sợ chấp nhận người khác. Bởi vì người khác đó có thể là chính bạn. Hoặc là bản thân tôi...

Hãy hiệp ý với Cha trong ý chỉ cầu nguyện này. Để số đông người di cư và tị nạn, được các quốc gia đón tiếp và trợ giúp trong nỗ lực diễn tả tình liên đới.

14. Đức Thánh Cha tiếp kiến 200 đại diện các tôn giáo

Trong buổi tiếp kiến 200 vị đại diện các tôn giáo sáng thứ năm 3-11, Đức Thánh Cha cổ võ sự gặp gỡ an bình giữa tín đồ các tôn giáo và một nền tự do tôn giáo đích thực.

Các vị đại diện tôn giáo gặp gỡ và suy tư về đề tài lòng từ bi thương xót. Đức Thánh Cha nhắc đến chủ đề Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp kết thúc trong Giáo Hội Công Giáo và nhắc đến sự kiện trong các truyền thống tôn giáo và văn hóa khác cũng đề cao sự cảm thương, từ bi, bất bạo động, như những giá trị thiết yếu và chỉ dẫn con đường sự sống.

Ngài khẳng định rằng “mầu nhiệm thương xót không được cử hành bằng lời nói mà thôi, nhưng nhất là bằng hành động, với một lối sống thực sự từ bi thương xót, với lòng yêu thương vô vị lợi, phục vụ anh em, và chia sẻ chân thành. Đó cũng là lối sống mà Giáo Hội rất mong ước đảm nhận, cả trong nghĩa vụ “cổ võ sự hiệp nhất và tình bác ái giữa con người với nhau” (Nostra Aetate, 1). Lối sống mà các tôn giáo cũng được kêu gọi đón nhận, nhất là thời nay, đó là trở thành sứ giả hòa bình và kiến tạo tình hiệp thông; và khác với những người xách động xung đột, chia rẽ và khép kín, thời nay chính là thời kỳ của tình huynh đệ. Vì thế, điều quan trọng là tìm cách gặp gỡ giữa chúng ta, một cuộc gặp gỡ không có tinh thần tôn giáo hỗn hợp, “làm cho chúng ta cởi mở đối thoại để biết nhau rõ hơn và cảm thông nhau; loại bỏ mọi hình thức khép kín và khinh rẻ, và mọi hình thức bạo lực và kỳ thị” (Misericordiae Vultus, 23).

Đức Thánh Cha cũng nói đến sự dấn thân chung giữa tín đồ các tôn giáo trong lãnh vực bảo vệ thiên nhiên. Ngài nói:

“Lòng thương xót cũng mở rộng cho thế giới chung quanh chúng ta, cho căn nhà chung mà chúng ta được kêu gọi gìn giữ và bảo tồn, chống lại sự tiêu thụ vô độ và ham hố. Chúng ta cần dấn thân giáo dục về sự điều độ và tôn trọng, về một lối sống đơn giản và có trật tự hơn, trong đó chúng ta sử dụng các tài nguyên thiên nhiên một cách khôn ngoan và điều độ, nghĩ đến toàn thể nhân loại và các thế hệ mai sau, chứ không phải chỉ nghĩ đến những lợi lộc của phe nhóm riêng và những lợi lộc của thời nay mà thôi. Đặc biệt ngày nay “cuộc khủng hoảng trầm trọng về môi trường đòi tất cả chúng ta phải nghĩ đến công ích và tiến bước trên con đường đối thoại, vốn đòi phải kiên nhẫn, khổ hạnh và quảng đại” (Laudato sì, 201).

“Con đường này thật là tuyệt vời đối với chúng ta; cần loại bỏ những con đường không có mục tiêu, dẫn đến sự đối nghịch nhau và khép kín. Cần làm sao để đừng xảy ra tệ nạn: các tôn giáo, vì thái độ của một số tín đồ, thông truyền một sứ điệp hỗn độn và trái ngược với sự điệp thương xót. Rất tiếc là không có ngày nào chúng ta không nghe nói về bạo lực, xung đột, bắt cóc, tấn công khủng bố, gây ra các nạn nhân và tàn phá. Và thật là điều kinh khủng khi người ta tìm cách biện minh cho những hành động man rợ như thế nhân danh tôn giáo hoặc nhân danh chính Thiên Chúa...”

15. Đức Hồng Y Trần Nhật Quân thỉnh cầu Tòa Thánh đừng “đầu hàng” Bắc Kinh

Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, nguyên Giám Mục Hương Cảng, đã cảnh báo mạnh mẽ chống lại một thỏa thuận đang được đề xuất, mà ngài lo ngại rằng, sẽ khiến cho chính phủ Trung Quốc có thể kiểm soát và thao túng Giáo Hội Công Giáo.

Giữa lúc có nhiều báo cáo cho thấy một hiệp ước giữa Roma và Bắc Kinh đang sắp xảy ra, trong đó Tòa Thánh sẽ chấp nhận các vị giám mục đã được “tấn phong” bởi bọn cầm quyền Trung Quốc mà không cần sự chuẩn y của Vatican, Đức Giám Mục về hưu của Hương Cảng cảnh báo rằng một thỏa thuận như thế có thể khiến cho Giáo Hội trở nên “hoàn toàn tùng phục một nhà nước vô thần.”

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Wall Street Journal, Đức Hồng Y Trần Nhật Quân bày tỏ lo ngại rằng Vatican đã sẵn sàng nhượng bộ những nguyên tắc quan trọng “với hy vọng đạt được một thỏa thuận.”

Đức Hồng Y cũng thẳng thừng bày tỏ mối nghi ngại về mong muốn rõ rệt của Đức Thánh Cha Phanxicô muốn đạt được một hiệp ước. “Tôi xin lỗi phải nói rằng dù rất thiện chí, nhưng đôi khi ngài đã làm nhiều điều vô lý”.

Ngài giải thích như sau: “Đức Thánh Cha Phanxicô không có kiến thức thực sự về cộng sản,” Theo Đức Hồng Y, lớn lên tại Á Căn Đình, Đức Giáo Hoàng đã thấy cộng sản như là một đối tượng bị bách hại, chứ không phải là những kẻ khủng bố. Trong khi đó, ở Trung Quốc, Giáo Hội đã phải chịu đựng sự khủng bố của cộng sản.

Theo thỏa thuận được đề xuất, Vatican được tin là sẽ công nhận hầu hết các giám mục được tấn phong bởi chế độ Trung Quốc. Đổi lại, Bắc Kinh sẽ công nhận quyền của Tòa Thánh bổ nhiệm các giám mục mới. Tuy nhiên, những giám mục sẽ được chọn từ một danh sách do Hội Công Giáo Yêu nước đưa ra. Theo Đức Hồng Y, nếu điều này xảy ra, bọn cầm quyền Trung Quốc có thể kiểm soát các bổ nhiệm Giám Mục và chỉ giới thiệu các ứng viên nào sẵn sàng công nhận uy quyền của chính phủ. Ngoài ra, những thỏa thuận này không đề cập đến tình trạng của các giám mục “thầm lặng” và các linh mục hiện đang chịu sự sách nhiễu của chính phủ, nhiều người đang bị bắt giữ.

Đức Hồng Y Trần Nhật Quân nhìn nhận rằng hầu hết các giám mục của Giáo Hội Công Giáo “chính thức” được công nhận bởi Bắc Kinh “rất trung thành với Giáo Hội.” Tuy nhiên, ngài nhấn mạnh rằng họ là những “con rối” của chế độ Bắc Kinh. Đức Hồng Y nói: “Tôi thà rằng không có những giám mục như thế thì hơn”.

Trong một diễn biến liên quan, một linh mục Trung Quốc viết blog dưới một cái tên giả, cũng đưa ra một lý luận tương tự. Ngài viết:

“Nhiều người nói rằng các cuộc đàm phán giữa Trung Quốc và Vatican đã đạt được với giá phải trả của Giáo Hội thầm lặng. Trong thực tế, nếu Đức Giáo Hoàng ban cho Bắc Kinh quyền bổ nhiệm giám mục, thì toàn bộ Giáo Hội tại Trung Quốc bị hy sinh. ‘Vì lợi ích của Giáo Hội tại Trung Quốc’ mà chính Giáo Hội tại Trung Quốc bị hy sinh, trao quyền bính thiêng liêng của mình cho một chính phủ vô thần. Tôi không nghĩ rằng Vatican có thể chọn một bước tiến thiếu nghiêm túc như vậy!”

Trong quá trình đàm phán với cộng sản Trung quốc, hiển nhiên là Tòa Thánh không thể công bố hết những chi tiết các thỏa thuận với Bắc Kinh. Điều đó là có thể hiểu được. Tuy nhiên, rõ ràng là những lo ngại của Đức Hồng Y Trần Nhật Quân và Giáo Hội thầm lặng tại Trung Quốc xuất phát từ một thực tế không thể phủ nhận được là các vị này không hề được hỏi ý kiến bất chấp những kinh nghiệm phong phú của các vị về cộng sản, và về đất nước của chính họ.

16. Liên Hiệp Quốc âu lo về tình trạng dân chúng Mosul trong vùng lửa đạn

Hiện vẫn đang có gần 1.5 triệu người sống trong thành Mosul, là những người có nguy cơ bị kẹt trong một cuộc chiến đô thị tàn bạo. Liên Hiệp Quốc cho biết như trên và cảnh báo về tiềm năng của một cuộc khủng hoảng nhân đạo những người tị nạn chiến cuộc. Trong khi đó, các quan chức Iraq cáo buộc quân khủng bố Hồi Giáo IS đang bắt nhiều thường dân làm bia đỡ đạn.

Phát ngôn viên nhân quyền Liên Hiệp Quốc là ông Ravina Shamdasani nói hôm thứ Sáu 5 tháng 11 là một ngày trước đó bọn khủng bố Hồi Giáo IS đã giết chết hàng trăm người, trong đó có 50 chiến binh thánh chiến đào ngũ và 180 người là cựu nhân viên chính phủ Iraq.

Ông Ravina Shamdasani cho biết thêm là “Quân khủng bố Hồi Giáo IS đã vận chuyển 1,600 người từ thị trấn Hammam al-Alil, trong khu vực Tal Afar ở phía tây Mosul, vào trong thành Mosul làm bia đỡ đạn chống lại các cuộc không kích, và nói với người dân trong vùng phải giao cho quân khủng bố Hồi Giáo IS các bé trai trên 9 tuổi để xung vào hàng ngũ các chiến binh thánh chiến”.

Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc nói số người phải di dời từ khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Mosul đã tăng lên 30,000. Chỉ riêng trong ngày thứ Sáu 4 tháng 11, 8,000 người đã chạy trốn khỏi các khu vực giao tranh. Hầu hết những người mới đến đến là từ quận Kokjali, nơi quân đội Iraq đã chiếm lại được vào hôm thứ Ba 1 tháng 11.

Các con số người tị nạn này không bao gồm hàng ngàn người dân các thôn làng bị quân khủng bố Hồi Giáo IS buộc phải vào thành Mosul làm bia đỡ đạn cho chúng.

Cư dân Mosul, nói với Reuters qua điện thoại, là quân chiến binh thánh chiến Hồi Giáo IS đã triển khai các bệ phóng tên lửa và súng cối ngay trong các khu dân cư, cả trên mái nhà của họ. Không quân Mỹ trong một trường hợp thương tâm đã tấn công vào một dàn phóng tên lửa của IS khiến cho một gia đình 6 người sống lân cận bị chết thảm.

17. Ngày Năm Thánh dành cho các tù nhân

Hôm Chúa Nhật 6 tháng 11, Đức Thánh Cha đã cử hành ngày năm thánh đặc biệt dành cho các tù nhân với sự tham dự của đông đảo tù nhân và gia đình họ từ khắp nước Ý cũng như các quốc gia lân cận.

Hôm 3/11, trong buổi họp báo trình bày về ngày Năm thánh dành cho tù nhân cũng như ngày Năm Thánh dành cho người vô gia cư vào ngày 13/11, Đức Tổng Giám mục Rino Fisichella, chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh cổ võ tái truyền giảng Tin Mừng, đã nói: “Đây là lần đầu tiên mà một số đông các tù nhân từ các miền nước Ý và các nước khác hiện diện ở đền thờ Thánh Phêrô để cử hành Năm Thánh với Đức Giáo Hoàng Phanxicô.”

Đức Tổng Fisichella cũng nói đến sự quan tâm đặc biệt của Đức Phanxicô dành cho các tù nhân; trong mỗi chuyến đi nước ngoài, Đức Phanxicô lập đi lập lại ý muốn viếng thăm các tù nhân và trao cho họ sứ điệp của sự gần gũi và hy vọng.”

Ngày Năm Thành các tù nhân nhắm đặc biệt đến các tù nhân và gia đình của họ, các nhân viên và các tuyên úy nhà tù, cũng như các hiệp hội trợ giúp hệ thống nhà tù. Đây là một phần trong Năm Thánh Lòng Thương xót được Đức Phanxicô đề ra.

Trong số những người ghi dah tham dự có 4000 tù nhân, trong đó có 1000 tù nhân từ 12 quốc gia, bao gồm Anh, Ý, Latvia, Madagascar, Malaysia, Mêxicô, Hà lan, Tây ban nha, Hoa kỳ, Nam Phi, Thụy điển và Bồ đào nha. Cũng có một đoàn Tin lành Luther từ Thụy Điển. Bên caạnh đó còn có khoảng 50 tù nhân và cựu tù nhân đến từ Hoa kỳ.

Các tù nhân thuộc mọi án tù khác nhau, bao gồm tù nhân vị thành viên, việc tham dự sự kiện này sẽ trao cho họ một tương lai và hy vọng hơn là kết án và thời hạn tù. Sẽ không có sự tham dự của các tử tù.

Các cử hành của ngày Năm thánh tù nhân bắt đầu vào thứ 7, 05/11, với việc chầu Thánh Thể và xưng tội tại một số nhà thờ ở Roma. Cuối cùng là hành trình tiến qua cửa Thánh.

Đền thờ Thánh Phêrô đã được mở cửa lúc 7.30 sáng; lúc 9 giờ đã có các chứng từ của một số người tham dự. Phần chứng từ bao gồm chia sẻ của một tù nhân về kinh nghiệm hoán cải, trong đó nạn nhân cũng sẽ cùng trình bày với tù nhân mà họ đã hòa giải với nhau; một người anh của nạn nhân bị giết sẽ nói về lòng thương xót và tha thứ; một tù nhân trẻ đang thụ án và một cảnh sát nhà tù, người hàng ngày tiếp xúc với các tù nhân.

Sau Thánh lễ có buổi tiếp tân cử hành Lòng Thương xót tại đại thính đường Phaolô VI.

Phần trưng bày các sản phẩm được các tù nhân làm trong nhà tù được đặt tại lâu đài Thiên thần.

Trong Thánh lễ, chính các tù nhân đã hướng dẫn phụng vụ. Mình Thánh được lãnh nhận trong Thánh lễ cũng do chính các tù nhân ở nhà tù Milan thực hiện như một phần của chương trình “Ý nghĩa của Bánh” được tổ chức cho Năm Thánh Lòng Thương xót.

Đức Tổng Fisichella cho biết các tù nhân tham dự được các hội đồng Giám mục và tuyên úy nhà tù chọn. Việc tham dự được Vatican đề nghị và việc họ tham dự là sự đáp lời mời của Đức Giáo Hoàng. Ngài cũng cho biết là mỗi nước có luật riêng để lo liệu việc di chuyển các tù nhân.

Còn ngày dành cho các người vô gia cư vào ngày 13/11 được tổ chức cho những người vì những lý do khác nhau, từ vấn đề kinh tế bấp bênh cho đến các bệnh tật khác nhau, từ sự cô đơn cho đến thiếu những liên hệ gia đình, họ có những khó khăn hòa nhập vào xã hội và thường chọn ở bên lề xã hội, không có nhà hay một nơi để sống. Đã có 6000 người từ các quốc gia trên thế giới ghi danh, bao gồm Pháp, Đức, Bồ đào nha, Anh, Tây ban nha, Ba lan, Hà lan, ý, Hunggari, Slovac, Crôát và Thụy sĩ.

Đức Tổng Fisichella nhận định là hai ngày Năm Thánh dành cho tù nhân và dành cho người vô gia cư sẽ được sống với cùng sự sốt sắng và kinh nghiệm cầu nguyện mà chúng ta đã thấy trong suốt Năm Thánh