NGHIÊN CỨU PHÉP KỴ HÚY TẠI VIỆT NAM
Bài 1 : Đại cương phép kỵ húy tại Trung Quốc
Mục đích của bài nghiên cứu này là tìm hiểu phép kỵ húy là gì và ảnh hưởng của nó thế nào đối với xã hội. Việt Nam du nhập tục lệ này từ Trung Quốc nên muốn hiểu phép kỵ húy tại Việt Nam, ta cần biết đại cương về phép kỵ húy tại Trung Quốc. Do đó, nội dung bài viết này gồm hai tiết: tiết A : tìm hiểu phép kỵ húy tại Trung Quốc, tiết B : tìm hiểu phép kỵ húy tại Việt Nam.
TIẾT A. ĐẠI CƯƠNG PHÉP KỴ HÚY TẠI TRUNG QUỐC
1. Định Nghĩa: Theo Hán Việt Tự Ðiển của Ðào Duy Anh, kỵ húy hay tỵ húy có nghĩa là kiêng tránh. Về mặt pháp chế sử, kỵ húy là một định chế chính trị được triều đại nhà Chu của Trung Quốc đặt ra để ngăn cấm dân gian đọc hay viết tên vua. Ý hướng của pháp chế này là gây ấn tượng thần thánh trong lòng dân chúng đối với vương quyền. Từ chốn triều đình, pháp chế này lan ra ngoài dân gian và được áp dụng trước hết cho thần thánh, đến giai cấp quý tộc, và sau cùng là toàn xã hội. Khi ở mức toàn xã hội, thì định chế chính trị này biến thành tục lệ mang tính đạo đức. Cữ tên là giữ lễ, là khuôn phép đạo đức của nền luân lý Khổng Mạnh. Do đó người ta cũng nói phép húy thay vì tục lệ kỵ húy.
2. Nguồn Gốc Phép Kỵ Húy: Theo Lý Nham Linh và Cố Đạo Hinh, tục lệ kỵ húy bắt đầu có tại Trung Quốc từ thời Tây Chu ( 1045-771 TCN) và kéo dài hết đời nhà Thanh (1644-1912). Tuy nhiên, việc áp dụng phép húy chặt chẽ hay lỏng lẻo là tùy mỗi triều đại, mỗi ông vua.
Nói chung, triều đại nào ở Trung Quốc cũng áp dụng phép húy cho vị sáng lập triều đại, vua đang trị vì, và 6 vị tiền nhiệm. Tổng cộng là 8 vị. Bảy trong 8 vị được thờ trong thái miếu nên phép kỵ húy liên hệ đến sự thờ cúng tổ tiên. Ngoài tên vua, phép kỵ húy có thể bao gồm tên hoàng khảo, hoàng hậu, tên lăng miếu.
Ngoài dân gian, phép húy được áp dụng cho những người lớn tuổi, các chức việc chánh quyền, các thần thánh. Trong gia đình, phép húy được áp dụng cho những bậc có vai vế trên mình như ông bà, cha, mẹ, bác, chú. Nói chung là các bậc trưởng thượng.
3. Phân Loại Kỵ Húy: Có ba loại kỵ húy là quốc húy, thánh húy và gia húy. Quốc húy thuộc loại trọng húy là tên các vua mà thần dân tuyệt đối phải tránh. Thánh húy là tên của các thần thánh trong đình miếu. Gia húy là tên mà con cháu phải tránh vì đó là tên của các bậc trưởng thượng trong gia đình.
Nếu căn cứ theo tầm mức quan trọng thì có hai loại kỵ húy. Trọng húy áp dụng cho tên vua sáng lập triều đại và vua đang trị vì. Khinh húy áp dụng cho tên các vua đã chết và tên những người thân thuộc như hoàng khảo, hoàng hậu, hoàng thái hậu, tên đệm, đôi khi cả niên hiệu của vua đang trị vì.
4. Phương Pháp Tránh Phạm Húy: Để tránh phạm húy, người Trung Quốc đã áp dụng 5 phương pháp sau:
a. Phương pháp dùng tên tự: Phương pháp này thường được các sử gia áp dụng. Ðể tránh tên chính, sử gia dùng tên tự của người ấy. Ví dụ khi viết về Hán Cao Tổ, thay vì phải nói tên chính là Lưu Bang thì Tư Mã Thiên đã chép: Cao Tổ người làng Trọng Dương, ấp Phong, quận Bái, họ Lưu, tên tự là Quý.
b. Phương pháp khuyết tự: Theo phương pháp này, người ta bỏ trống chỗ đáng lẽ phải viết tên, hoặc khoanh tròn, hoặc ghi chữ Húy, hoặc viết chữ Mỗ là đại danh từ không chỉ cái gì. Phương pháp này dùng cho các trường hợp trọng húy.
c. Phương pháp cải tự: Theo phương pháp này, người ta có thể thay thế tiếng húy bằng tiếng đồng nghĩa, hay tiếng có sự liên hệ mật thiết đến tên phải kiêng cữ. Phương pháp này có từ thời nhà Tần (221-207 TCN). Tần Trang Tương Vương có tên húy là Sở nên khi Vương Tiến đánh nước Sở, sử chép là đánh nước Kinh. Như vậy Sở đổi thành Kinh. Tần Thủy Hoàng tên húy là Chính, nên tháng Giêng Âm Lịch gọi là Chính Nguyệt được đổi thành Đoan Nguyệt. Nhà Hán húy chữ Bang, trong tên của Lưu Bang, nên Bang đổi thành Quốc, và húy chữ Doanh đổi thành chữ Mãn. Khi đổi thành chữ khác, nguyên tắc là phải chọn chữ đồng nghĩa: Chính và Đoan đồng nghĩa, Bang và Quốc đều có nghĩa là nước, Doanh và Mãn có nghĩa là đầy đủ. Phương pháp cải tự dành cho trường hợp trọng húy.
d. Phương pháp khuyết bút: Từ đời vua Cao Tông nhà Đường (tr.v.650-683), để tránh húy, người ta áp dụng phương pháp khuyết bút là phương pháp bỏ bớt đi một nét trong chữ phải kiêng húy. Phương pháp này áp dụng cho trường hợp khinh húy.
e. Phương pháp cải âm: Phương pháp này áp dụng trong lời nói. Để tránh kỵ húy, người ta có thể nói trại, tức phát âm trệch đi một tí. Ví dụ tên húy của Tần Thủy Hoàng là Chính có thể phát âm là Chinh. Chính và Chinh có ý nghĩa khác nhau.
5. Biện Pháp Chế Tài: Đối với những người phạm húy, biện pháp chế tài được các triều đại Trung Quốc áp dụng khác nhau. Theo luật nhà Đường, người cố tình xúc phạm tên húy của các nhà vua thờ trong thái miếu, sẽ bị phạt tội đồ 3 năm. Nếu lầm lỡ, bị đánh từ 80 trượng đến 50 roi, tùy theo trường hợp nặng nhẹ. Luật nhà Minh và Thanh phạt nặng hơn, từ 100 trượng đến 90 roi.
6. Ảnh Hưởng Của Phép Húy: Tại Trung Quốc, tục lệ kỵ húy đưa đến sự thay đổi tên người, địa danh, tên quan chức, tên vật. Xin nêu một số thí dụ:
a. Thay đổi về tên và họ. Theo Lý Nham Linh và Cố Đạo Hinh, Văn Ngạn Bác trước đây có họ Kính. Cụ tổ bốn đời vì tránh chữ Kính trong tên Thạch Kính Đường, nên đổi họ Kính ra họ Văn. Đến đời Hán, gia tộc này lấy lại họ Kính, nhưng đến đời Tống, lại đổi thành họ Văn.
Tống Cao Tông có tên húy là Triệu Cấu nên họ Cú, một dòng họ rất lớn, phải đổi thành nhiều họ. Họ Cú phải đổi sang họ khác vì Cú và Cấu trong tiếng Hán có mặt chữ rất giống nhau.
b. Thay đổi về danh xưng cơ quan công quyền: Vì tránh tên húy của Đường Cao Tông là Lý Thế Dân mà Dân Bộ phải đổi ra Hộ Bộ.
c. Thay đổi về địa danh: Vì tránh tên húy của Triệu Vương là Lưu Lương mà địa danh Thọ Lương đời Hán đổi thành Thọ Trương.
d. Thay đổi ngôn ngữ thông thường. Vì kỵ húy tên mẹ của Tư Mã Lập là Xuân mà bộ sách Xuân Thu phải đổi ra Dương Thu. Vì kỵ húy tên Trĩ của Hán Lã Hậu mà chim trĩ phải đổi ra dã kê.
e. Tạo ra một thứ tên mới gọi là tên tự: Để người khác dễ dàng tránh tên húy của mình, người Trung Quốc đã đặt ra tên tự. Tên tự là tên dùng để gọi thay cho tên húy. Ví dụ Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh. Tên tự đã được chúng tôi trình bày trong chương một, mục hai.trong sách Sơ Thảo Tính Danh Học Việt Nam. Nhà xuất bản Thằng Mõ, Hoa Kỳ 2003.
Ngày Mai : Phép Kỵ Húy tại Việt Nam
Bài 1 : Đại cương phép kỵ húy tại Trung Quốc
Mục đích của bài nghiên cứu này là tìm hiểu phép kỵ húy là gì và ảnh hưởng của nó thế nào đối với xã hội. Việt Nam du nhập tục lệ này từ Trung Quốc nên muốn hiểu phép kỵ húy tại Việt Nam, ta cần biết đại cương về phép kỵ húy tại Trung Quốc. Do đó, nội dung bài viết này gồm hai tiết: tiết A : tìm hiểu phép kỵ húy tại Trung Quốc, tiết B : tìm hiểu phép kỵ húy tại Việt Nam.
TIẾT A. ĐẠI CƯƠNG PHÉP KỴ HÚY TẠI TRUNG QUỐC
1. Định Nghĩa: Theo Hán Việt Tự Ðiển của Ðào Duy Anh, kỵ húy hay tỵ húy có nghĩa là kiêng tránh. Về mặt pháp chế sử, kỵ húy là một định chế chính trị được triều đại nhà Chu của Trung Quốc đặt ra để ngăn cấm dân gian đọc hay viết tên vua. Ý hướng của pháp chế này là gây ấn tượng thần thánh trong lòng dân chúng đối với vương quyền. Từ chốn triều đình, pháp chế này lan ra ngoài dân gian và được áp dụng trước hết cho thần thánh, đến giai cấp quý tộc, và sau cùng là toàn xã hội. Khi ở mức toàn xã hội, thì định chế chính trị này biến thành tục lệ mang tính đạo đức. Cữ tên là giữ lễ, là khuôn phép đạo đức của nền luân lý Khổng Mạnh. Do đó người ta cũng nói phép húy thay vì tục lệ kỵ húy.
2. Nguồn Gốc Phép Kỵ Húy: Theo Lý Nham Linh và Cố Đạo Hinh, tục lệ kỵ húy bắt đầu có tại Trung Quốc từ thời Tây Chu ( 1045-771 TCN) và kéo dài hết đời nhà Thanh (1644-1912). Tuy nhiên, việc áp dụng phép húy chặt chẽ hay lỏng lẻo là tùy mỗi triều đại, mỗi ông vua.
Nói chung, triều đại nào ở Trung Quốc cũng áp dụng phép húy cho vị sáng lập triều đại, vua đang trị vì, và 6 vị tiền nhiệm. Tổng cộng là 8 vị. Bảy trong 8 vị được thờ trong thái miếu nên phép kỵ húy liên hệ đến sự thờ cúng tổ tiên. Ngoài tên vua, phép kỵ húy có thể bao gồm tên hoàng khảo, hoàng hậu, tên lăng miếu.
Ngoài dân gian, phép húy được áp dụng cho những người lớn tuổi, các chức việc chánh quyền, các thần thánh. Trong gia đình, phép húy được áp dụng cho những bậc có vai vế trên mình như ông bà, cha, mẹ, bác, chú. Nói chung là các bậc trưởng thượng.
3. Phân Loại Kỵ Húy: Có ba loại kỵ húy là quốc húy, thánh húy và gia húy. Quốc húy thuộc loại trọng húy là tên các vua mà thần dân tuyệt đối phải tránh. Thánh húy là tên của các thần thánh trong đình miếu. Gia húy là tên mà con cháu phải tránh vì đó là tên của các bậc trưởng thượng trong gia đình.
Nếu căn cứ theo tầm mức quan trọng thì có hai loại kỵ húy. Trọng húy áp dụng cho tên vua sáng lập triều đại và vua đang trị vì. Khinh húy áp dụng cho tên các vua đã chết và tên những người thân thuộc như hoàng khảo, hoàng hậu, hoàng thái hậu, tên đệm, đôi khi cả niên hiệu của vua đang trị vì.
4. Phương Pháp Tránh Phạm Húy: Để tránh phạm húy, người Trung Quốc đã áp dụng 5 phương pháp sau:
a. Phương pháp dùng tên tự: Phương pháp này thường được các sử gia áp dụng. Ðể tránh tên chính, sử gia dùng tên tự của người ấy. Ví dụ khi viết về Hán Cao Tổ, thay vì phải nói tên chính là Lưu Bang thì Tư Mã Thiên đã chép: Cao Tổ người làng Trọng Dương, ấp Phong, quận Bái, họ Lưu, tên tự là Quý.
b. Phương pháp khuyết tự: Theo phương pháp này, người ta bỏ trống chỗ đáng lẽ phải viết tên, hoặc khoanh tròn, hoặc ghi chữ Húy, hoặc viết chữ Mỗ là đại danh từ không chỉ cái gì. Phương pháp này dùng cho các trường hợp trọng húy.
c. Phương pháp cải tự: Theo phương pháp này, người ta có thể thay thế tiếng húy bằng tiếng đồng nghĩa, hay tiếng có sự liên hệ mật thiết đến tên phải kiêng cữ. Phương pháp này có từ thời nhà Tần (221-207 TCN). Tần Trang Tương Vương có tên húy là Sở nên khi Vương Tiến đánh nước Sở, sử chép là đánh nước Kinh. Như vậy Sở đổi thành Kinh. Tần Thủy Hoàng tên húy là Chính, nên tháng Giêng Âm Lịch gọi là Chính Nguyệt được đổi thành Đoan Nguyệt. Nhà Hán húy chữ Bang, trong tên của Lưu Bang, nên Bang đổi thành Quốc, và húy chữ Doanh đổi thành chữ Mãn. Khi đổi thành chữ khác, nguyên tắc là phải chọn chữ đồng nghĩa: Chính và Đoan đồng nghĩa, Bang và Quốc đều có nghĩa là nước, Doanh và Mãn có nghĩa là đầy đủ. Phương pháp cải tự dành cho trường hợp trọng húy.
d. Phương pháp khuyết bút: Từ đời vua Cao Tông nhà Đường (tr.v.650-683), để tránh húy, người ta áp dụng phương pháp khuyết bút là phương pháp bỏ bớt đi một nét trong chữ phải kiêng húy. Phương pháp này áp dụng cho trường hợp khinh húy.
e. Phương pháp cải âm: Phương pháp này áp dụng trong lời nói. Để tránh kỵ húy, người ta có thể nói trại, tức phát âm trệch đi một tí. Ví dụ tên húy của Tần Thủy Hoàng là Chính có thể phát âm là Chinh. Chính và Chinh có ý nghĩa khác nhau.
5. Biện Pháp Chế Tài: Đối với những người phạm húy, biện pháp chế tài được các triều đại Trung Quốc áp dụng khác nhau. Theo luật nhà Đường, người cố tình xúc phạm tên húy của các nhà vua thờ trong thái miếu, sẽ bị phạt tội đồ 3 năm. Nếu lầm lỡ, bị đánh từ 80 trượng đến 50 roi, tùy theo trường hợp nặng nhẹ. Luật nhà Minh và Thanh phạt nặng hơn, từ 100 trượng đến 90 roi.
6. Ảnh Hưởng Của Phép Húy: Tại Trung Quốc, tục lệ kỵ húy đưa đến sự thay đổi tên người, địa danh, tên quan chức, tên vật. Xin nêu một số thí dụ:
a. Thay đổi về tên và họ. Theo Lý Nham Linh và Cố Đạo Hinh, Văn Ngạn Bác trước đây có họ Kính. Cụ tổ bốn đời vì tránh chữ Kính trong tên Thạch Kính Đường, nên đổi họ Kính ra họ Văn. Đến đời Hán, gia tộc này lấy lại họ Kính, nhưng đến đời Tống, lại đổi thành họ Văn.
Tống Cao Tông có tên húy là Triệu Cấu nên họ Cú, một dòng họ rất lớn, phải đổi thành nhiều họ. Họ Cú phải đổi sang họ khác vì Cú và Cấu trong tiếng Hán có mặt chữ rất giống nhau.
b. Thay đổi về danh xưng cơ quan công quyền: Vì tránh tên húy của Đường Cao Tông là Lý Thế Dân mà Dân Bộ phải đổi ra Hộ Bộ.
c. Thay đổi về địa danh: Vì tránh tên húy của Triệu Vương là Lưu Lương mà địa danh Thọ Lương đời Hán đổi thành Thọ Trương.
d. Thay đổi ngôn ngữ thông thường. Vì kỵ húy tên mẹ của Tư Mã Lập là Xuân mà bộ sách Xuân Thu phải đổi ra Dương Thu. Vì kỵ húy tên Trĩ của Hán Lã Hậu mà chim trĩ phải đổi ra dã kê.
e. Tạo ra một thứ tên mới gọi là tên tự: Để người khác dễ dàng tránh tên húy của mình, người Trung Quốc đã đặt ra tên tự. Tên tự là tên dùng để gọi thay cho tên húy. Ví dụ Gia Cát Lượng tự là Khổng Minh. Tên tự đã được chúng tôi trình bày trong chương một, mục hai.trong sách Sơ Thảo Tính Danh Học Việt Nam. Nhà xuất bản Thằng Mõ, Hoa Kỳ 2003.
Ngày Mai : Phép Kỵ Húy tại Việt Nam