1. 'Người Đức chỉ có thể giết tôi một lần': Câu chuyện phi thường của Stanisław Jackowski

Trong thời kỳ Đức Quốc xã xâm lược Ba Lan, 32 người Do Thái đã đến nhà Jackowski để tìm nơi ẩn náu. Ông đã liều mạng để giúp đỡ tất cả họ. Vì thế, Stanisław Jackowski là một trong số ít những người được viện Yad Vashem của chính phủ Israel trao tặng danh hiệu Người Công Chính Giữa Các Dân Nước khi ông vẫn còn sống. Giáo Hội tại Ba Lan và Hoa Kỳ đã cùng khởi xướng cuộc điều tra để phong Chân Phước cho ông vì các nhân đức anh hùng.

Tác giả Richard C. Lukas đã dịch một tài liệu từ viện Yad Vashem sang tiếng Anh và đăng trên tờ National Catholic Register với nhan đề “‘The Germans Can Kill Me Only Once’: The Extraordinary Story of Stanisław Jackowski”, nghĩa là “'Người Đức chỉ có thể giết tôi một lần': Câu chuyện phi thường của Stanisław Jackowski”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.

“Tôi không coi mình là anh hùng,” người đàn ông Công Giáo Ba Lan ngoan đạo nói với tôi.

“Nhưng anh đã cứu sống 32 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái trong thời gian Đức xâm lược Ba Lan!”.

Stanisław Jackowski, người thích dùng tên gọi thu nhỏ của Ba Lan là Staszek, đã trả lời: “Tôi đã làm những gì tôi phải làm. Suy cho cùng, người Do Thái cũng là con người.”

“Điều gì đã cho anh sức mạnh để liều mạng sống của mình vì nhiều người như vậy?” Tôi hỏi.

“Đức tin Công Giáo của tôi,” ông trả lời không chút do dự. “Tôi cầu nguyện với Chúa mỗi ngày.”

Vào đêm trước Thế chiến II, Jackowski là một người làm xe ngựa trẻ tuổi ở Stanisławów, Ba Lan (bây giờ, với sự thay đổi biên giới, đó là thành phố Ivano-Frankivsk ở Ukraine). Phần lớn dân số bao gồm người Ukraine, người Ruthenia và người Nga. Người Ba Lan và người Do Thái là nhóm thiểu số.

Jackowski, một chàng trai độc thân ngoài 20 tuổi, không bao giờ nghĩ rằng ngôi nhà khiêm tốn của mình, cách trụ sở Gestapo địa phương chưa đầy hai dãy nhà, sẽ trở thành nơi ẩn náu cho rất nhiều người Do Thái tìm kiếm nơi ẩn náu khỏi những kẻ khủng bố người Đức.

Hành trình dũng cảm của Jackowski bắt đầu bằng nỗ lực tìm kiếm và giải cứu Max Saginur, một người bạn học cũ. Tình bạn của họ đã bị cả cha mẹ hai bên ngăn cản. Trừ khi họ đã đồng hóa, ít người Do Thái tìm kiếm mối quan hệ cá nhân gần gũi với người Ba Lan ngoại đạo.

Hầu hết người Do Thái ở Ba Lan thời chiến đều không đồng hóa và nói tiếng Yiddish. Rất ít người trong số họ biết hoặc nói được tiếng Ba Lan đủ tốt để đánh lừa người Đức. Chỉ có 10% người Do Thái ở Ba Lan chịu đồng hóa và nói tiếng Ba Lan lưu loát.

“Hiếm khi một người Do Thái Ba Lan nghĩ rằng cần phải học tiếng Ba Lan; hiếm khi một người Do Thái quan tâm đến lịch sử hoặc chính trị Ba Lan,” Isaac Bashevis Singer, nhà văn Do Thái vĩ đại sinh ra ở Ba Lan, nhận xét. “Tôi cảm thấy tình hình kỳ lạ và thường cân nhắc đến việc chuyển đến Palestine.”

Sau khi chinh phục Ba Lan vào tháng 10 năm 1939, Đức Quốc xã đã bắt đầu cuộc khủng bố, sát hại hơn 10.000 người Do Thái ở Stanisławów và dồn 20.000 người nữa vào khu ổ chuột mà sau đó đã bị bỏ trống.

Nhìn thấy tình hình khủng khiếp và tuyệt vọng mà người Do Thái đang phải đối mặt, nhiệm vụ của Jackowski là tìm Max Saginur và vợ anh ta, Gitya, trở nên đặc biệt cấp bách. Anh ta tìm thấy người bạn và vợ của anh ta. Nhưng họ lại có hai người họ hàng, những người cũng đi cùng gia đình Saginur đến nhà Jackowski.

Jackowski hiểu điều mà mọi người Ba Lan đều biết — việc giúp đỡ một người Do Thái sẽ phải chịu án tử hình. Ngay cả hành động đơn giản là đưa cho một người Do Thái một ly nước và một miếng bánh mì cũng là lý do để bị hành quyết.

Jackowski đã phân chia một khu vực phía sau bếp cho bốn vị khách của mình. Nhưng điều đó đã không thành công vì thiếu oxy ở nơi ẩn náu. Hơn nữa, tiếng động của bốn người có thể được nghe thấy ở phần còn lại của ngôi nhà, đó có thể là một thảm họa đối với Jackowski và người Do Thái nếu người Đức lục soát nơi này.

“Đó là lúc tôi quyết định xây một hầm trú ẩn kiên cố trong tầng hầm,” Jackowski nói.

Năm tháng trôi qua, nhiều người Do Thái đến nhà Jackowski để tị nạn. Jackowski đã giúp đỡ tất cả họ.

“Trước khi mọi chuyện kết thúc, tôi đã xây dựng ba hầm trú ẩn để chứa số lượng đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái ngày càng tăng”, ông nói. Ông buộc phải tiếp nhận một số người Do Thái đe dọa sẽ tố cáo ông với người Đức nếu ông không cho họ nơi trú ẩn và thức ăn.

Một số người Do Thái mà ông cứu đến từ một “cái giỏ” khác, “cái giỏ” là một từ thông dụng lúc bấy giờ để mô tả nơi ẩn náu. Những người Do Thái này đã ẩn náu với một gia đình Ba Lan khác, những người biết rằng người Đức sắp phát hiện ra nơi ẩn náu của họ.

Những nỗ lực của Jackowski nhằm cứu càng nhiều người Do Thái càng tốt không phải lúc nào cũng thành công. Ông đã chuẩn bị để tiếp nhận sáu bác sĩ Do Thái, nhưng trước khi các bác sĩ có thể đến nhà Jackowski, quân Đức đã bắt giữ họ. Thay vì chờ bị quân Đức giết, các bác sĩ đã tự tử bằng cách uống thuốc độc.

“Thật không dễ dàng để chăm sóc 32 người chỉ cách trụ sở Gestapo một vài bước chân, nhưng vẫn giữ được bí mật về điều đó,” Jackowski nói trong khi mắt ông ngấn lệ. Các hầm trú ẩn kiên cố của ông được trang bị đầy đủ nước, giường và thậm chí cả bếp để nấu ăn.

Một kỹ sư Do Thái được ông bao bọc đã chỉ cho ông cách thức để dòng điện không chạy qua đồng hồ đo. Ông trao đổi và mua thức ăn cho những người được ông bao bọc từ những người nông dân. Trong một cuộc phỏng vấn, ông đã đề cập đến những người nông dân đã sẵn lòng và ẩn danh để lại những thùng đựng thức ăn trước cửa nhà ông.

Tò mò với những bình luận của ông, tôi hỏi: “Có bao nhiêu người nông dân Samaritanô nhân hậu ở đó?”

“Tôi biết phải có rất nhiều người như vậy vì người Đức liên tục tịch thu thực phẩm, khiến các gia đình Ba Lan không còn gì để ăn,” ông giải thích. “Họ cho tôi những gì ít ỏi mà họ có.”

Theo một nguồn tin Do Thái, Jackowski luôn đối xử với khách của mình một cách tôn trọng, gọi họ là “quý bà” và “quý ông”. Ông dành phần lớn buổi tối của mình với họ. “Tôi trò chuyện, đùa giỡn và chơi bài với họ, cố gắng giữ vững tinh thần của họ và cho tôi”. Một phụ nữ Do Thái, người mà ông bao bọc, đã phụ trách kể chuyện cho trẻ em để giải trí.

Một trong những đứa trẻ Do Thái được Jackowski cứu là Nina Dannenberg Frisch. “Tôi luôn sợ hãi”, cô bé nói. Trước khi được Jackowski chăm sóc, cô bé và cha mẹ đã tìm đường đến một khu rừng gần thành phố. Họ ở trong một trại tị nạn mà 40 người Do Thái khác đã chạy được đến đó trước. Khi quân Đức vô tình phát hiện ra nơi ẩn náu, mọi người đã bỏ chạy trong hoảng loạn. Với sự giúp đỡ của một phụ nữ nông dân Ba Lan, Frisch và những người khác đã quay trở lại nơi ẩn náu sau khi mối đe dọa từ quân Đức đã qua. Thật không may, mẹ của Frisch đã bị quân Đức giết chết.

Cuối cùng, Frisch và cha cô, được một người phụ nữ Ba Lan khác hộ tống, đã đến nhà Jackowski. Frisch ăn mặc như một cô gái trẻ Ba Lan, đeo một cây thánh giá quanh cổ, để tránh sự nghi ngờ của người Đức. Trên đường đến nhà Jackowski, Frisch nhớ lại, “Họ bảo tôi nhìn xuống vì tôi có mái tóc đen và đôi mắt nâu. Tôi không giống một người Aryan điển hình.”

“Không có cách nào để mô tả Staszek là người như thế nào,” Fritsch nói. Bà mô tả người đàn ông Công Giáo tốt bụng này là một “vị cứu tinh.” Jackowski đã nhận Frisch và cha cô, người đã sống với ông trong 10 tháng.

Jackowski vừa giải quyết xong một vấn đề đe dọa thì một vấn đề khác lại phát sinh. Ông bị bắt trong một cuộc truy quét của Đức nhằm bắt giữ nhiều người đàn ông Ba Lan khỏe mạnh để lao động cưỡng bức ở Đức. May mắn thay, ông đã trốn thoát trước khi quân Đức đưa ông đi. Jackowski nói, “32 con người phụ thuộc vào tôi. Mạng sống của họ đang bị đe dọa. Nếu tôi ra đi, họ sẽ phải chịu số phận bi đát. Tôi không thể để điều đó xảy ra.”

Khi Jackowski trở về nhà, ông hoàn toàn tin rằng quân Đức sẽ tìm thấy mình. Ông ngay lập tức nhảy xuống hầm trú ẩn cùng những người Do Thái mà ông phụ trách.

“Tôi có súng và đạn dược ở đó. Mọi người đều được trang bị vũ khí, sẵn sàng giết người Đức nếu họ mở cửa sập. Nhưng, tạ ơn Chúa, họ không tìm thấy nó,” ông nói. Mặc dù ông không tiết lộ nơi ông có được súng và đạn dược, nhưng có vẻ như ông có nguồn cung cấp từ Ba Lan, có lẽ là trong tổ chức du kích Ba Lan.

Người Đức quyết tâm tìm và giết người Do Thái và người Ba Lan đã giúp họ. Hơn nữa, ông là một kẻ chạy trốn khỏi lưới truy quét của Đức. Ông đã khôn ngoan giải thích với các gia đình Do Thái rằng cần phải lập một kế hoạch trốn thoát. Sử dụng xẻng và xô đơn giản, Jackowski và những người đàn ông Do Thái đã đào một đường hầm từ ngôi nhà đến hệ thống cống rãnh có thể được sử dụng để trốn thoát khỏi thành phố. Nhưng, cuối cùng đường hầm không bao giờ phải sử dụng đến.

Khi tôi hỏi Jackowski về nguy cơ bị người Đức giết vì đã giúp đỡ người Do Thái, ông trả lời một cách thực tế: “Người Đức chỉ có thể giết tôi một lần thôi.”

Khi Ba Lan được giải phóng, 32 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em Do Thái đã ra khỏi hầm trú ẩn kiên cố để một lần nữa được ngắm bầu trời đầy sao và bầu trời trong xanh.

Stanisław Jackowski sống sót sau chiến tranh, kết hôn và có gia đình. Sau chiến tranh, một số người Do Thái mà ông đã cứu đã bày tỏ lòng biết ơn bằng cách giúp ông di cư đến Hoa Kỳ, nơi ông bắt đầu một cuộc sống mới.


Source:National Catholic Register

2. Sứ điệp Ngày Thế Giới giới Trẻ của Đức Thánh Cha: Hãy hy vọng vào Chúa và bạn sẽ không chán chường!

Đức Thánh Cha Phanxicô công bố sứ điệp cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 39 và khuyến khích những người trẻ đón nhận những thách thức của cuộc sống với hy vọng và lòng kiên trì.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã gửi một sứ điệp đến những người trẻ trên khắp thế giới cho Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 39. Sứ điệp có tựa đề “Những ai hy vọng vào Chúa sẽ tiến tới và không biết mệt mỏi”, tập trung vào chủ đề hy vọng và sự bền bỉ, lấy cảm hứng từ lời của tiên tri Isaia.

Trong sứ điệp của mình, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích những người trẻ coi cuộc sống như một cuộc hành hương, một cuộc tìm kiếm hạnh phúc, dù phải nhìn nhận là cũng có những mệt mỏi. Đức Thánh Cha cho biết chính xác là trong hành trình này, hy vọng phải tỏa sáng.

Những ai hy vọng vào Chúa thì không biết mệt mỏi

Trước một số khó khăn mà người trẻ phải đối diện, Đức Thánh Cha Phanxicô khuyến khích họ hãy kiên trì. Ngài nhấn mạnh rằng hy vọng không chỉ là một cảm giác thụ động mà là một sức mạnh tích cực, một sức mạnh cho phép chúng ta “tiến về phía trước, vì đó là một món quà từ chính Chúa”.

Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đề cập đến những mệt mỏi có thể xảy đến với những đấu tranh của cuộc sống. Ngài lưu ý rằng những mệt mỏi này là phổ biến đối với tất cả những ai bắt đầu những hành trình có ý nghĩa và giải pháp cho sự mệt mỏi như vậy không phải là nghỉ ngơi mà là “trở thành những người hành hương của hy vọng”.

Trong thông điệp của mình, Đức Thánh Cha mời gọi người trẻ hãy đón nhận cuộc sống một cách trọn vẹn, cảnh báo về sự trì trệ, nơi mọi người “đứng yên không muốn di chuyển”.

Ngài nhấn mạnh rằng sự thờ ơ này thường dẫn đến cảm giác vô vọng đến tê liệt. “Tôi thích sự mệt mỏi của những người đang tiến về phía trước, chứ không phải sự buồn chán của những người đứng yên”, Đức Thánh Cha nói.

Thánh Thể là con đường dẫn lên Thiên đàng

Đức Thánh Cha tiếp tục so sánh hành trình của những người trẻ với câu chuyện Kinh thánh về hành trình của Israel qua sa mạc.

Ngài trấn an họ rằng ngay cả trong những khoảnh khắc khủng hoảng và tuyệt vọng, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi dân Ngài. Thay vào đó, giống như một Người Cha yêu thương, Ngài nuôi dưỡng họ bằng sự hiện diện của Ngài, giống như Ngài đã ban manna cho dân Israel trong sa mạc.

Trước bối cảnh này, Đức Thánh Cha thúc giục những người trẻ khám phá lại món quà sâu sắc của bí tích Thánh Thể, bằng cách nhắc nhở họ rằng “Thánh Thể là con đường dẫn lên thiên đàng”.

Không phải khách du lịch mà là những người hành hương

Hướng tới Năm Thánh 2025, Đức Thánh Cha Phanxicô bày tỏ hy vọng rằng Năm thánh sắp tới là cơ hội để người trẻ tăng thêm mối sâu sắc, mối quan hệ của họ với Thiên Chúa và trải nghiệm lòng thương xót và tình yêu của Ngài.

Ngài đã gửi lời mời đến tất cả, Đức Thánh Cha nói: “Đừng lên đường như những du khách đơn thuần, mà là những người hành hương thực sự”, ngài nhắc nhở họ rằng hành trình hướng đến Năm Thánh không chỉ là hành trình về thể chất mà còn là hành trình về tinh thần.

Kết thúc thông điệp của mình, Đức Thánh Cha khuyến khích người trẻ hãy can đảm.

“Hãy can đảm lên”, ngài nói, trước khi bảo đảm với họ về những lời cầu nguyện của mình và giao phó những cuộc hành trình của họ cho Đức Trinh Nữ Maria. Với tấm gương của Mẹ, Đức Thánh Cha kết luận, người trẻ có thể “kiên trì trên hành trình của mình như những người hành hương của hy vọng và yêu thương”.

3. Các nữ tu dòng Cát Minh quyết định liên kết với Huynh Đoàn Thánh Piô X sau một năm bất hòa với Giám mục địa phương

Sau một loạt các cuộc tranh cãi và bất đồng với giám mục địa phương ở Fort Worth, một nhóm nữ tu dòng Cát Minh ở Arlington, Texas, đã tuyên bố vào hôm Thứ Năm, 19 Tháng Chín, rằng họ quyết định liên kết với Huynh Đoàn Thánh Piô X, một nhóm theo chủ nghĩa truyền thống không hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo và có tình trạng bất thường về mặt giáo luật.

Sau khi đưa ra “quyết định đồng thanh”, các nữ tu dòng Cát Minh nhặt phép của Tu viện Chúa Ba Ngôi ở Arlington, Texas, cho biết các sơ đã “hoàn thành các bước cuối cùng cần thiết để tu viện của chúng tôi được liên kết với Huynh Đoàn Thánh Piô X, những người sẽ bảo đảm đời sống bí tích và sự quản lý liên tục của chúng tôi”, theo thông báo hôm Thứ Năm, 19 Tháng Chín.

Đức Cha Michael Olson của Giáo phận Fort Worth đã đề nghị khôi phục lại đời sống bí tích tại tu viện nếu các nữ tu đồng ý tách khỏi Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò, một nhân vật gây tranh cãi mà Giáo Hội Công Giáo đã rút phép thông công vào mùa hè này vì tội ly giáo sau khi ngài từ chối tuân theo Đức Giáo Hoàng hoặc hiệp thông với Giáo hội.

Đức Cha Olson cũng đề nghị cung cấp một linh mục của Hội Linh mục Thánh Phêrô— một nhóm hiệp thông với Giáo hội và dành riêng cho Thánh lễ bằng tiếng Latinh — để cử hành các bí tích cho các nữ tu, với điều kiện họ cũng thừa nhận Mẹ Marie Nhập thể, bề trên của Dòng Cát Minh Chúa Ba Ngôi, là bề trên của họ, công nhận Đức Cha Olson là giám mục của họ và xóa nội dung gây tranh cãi khỏi trang web của tu viện.

Mẹ Marie là chủ tịch của Hiệp hội Chúa Kitô Vua tại Hoa Kỳ — một hiệp hội các tu viện dòng Cát Minh được Vatican giao nhiệm vụ giám sát tu viện vào năm 2023 trong bối cảnh bất đồng.

Mẹ Marie của Dòng Nhập Thể giải thích trong một tuyên bố do giáo phận đưa ra vào ngày 7 tháng 9 rằng mẹ đã “mở rộng… lời đề nghị của Đức Giám Mục Olson về một đời sống bí tích mới, theo hình thức phụng vụ mà họ ưa thích, nhưng với nỗi buồn sâu sắc nhất, hôm nay tôi xin báo cáo rằng không có nữ tu nào đưa ra bất kỳ phản hồi nào, cho dù là với tôi hay với giám mục của họ.”

Đức Giám Mục Olson đã đưa ra lời đề nghị trong lá thư ngày 26 tháng 7, và Mẹ Marie cho biết bà đã chia sẻ lá thư này với các chị em vào ngày hôm sau.

“Trong sáu tuần qua kể từ khi nhận được lời đề nghị này, các nữ tu không hề có dấu hiệu nào cho thấy họ mong muốn nhận được món quà bí tích, cũng không tỏ ra cởi mở với bất kỳ cuộc đối thoại nào với chúng tôi,” Mẹ Marie viết. “Ngoài ra, họ còn chọn duy trì trên trang web của mình một số liên kết và tuyên bố thể hiện sự khinh thường đối với giám mục của họ và làm lu mờ tuyên bố của họ về việc hiệp nhất với Rôma.”

Mẹ Marie đã yêu cầu các tín hữu trong Giáo phận Fort Worth “góp phần cầu nguyện và hy sinh nhiều hơn cho các chị em yêu dấu của Dòng Cát Minh Chúa Ba Ngôi.”

Các nữ tu cho biết trong tuyên bố của mình rằng trong vài năm qua, họ đã tìm thấy “nhiều niềm vui và sự đổi mới tinh thần trong việc khám phá lại sự phong phú của truyền thống phụng vụ lâu đời của Giáo hội”, ám chỉ Thánh lễ La tinh, phụng vụ Rôma được sử dụng trước khi Công đồng Vatican II ban hành Nghi thức Thánh lễ Mới.

“Phương châm của Thánh Giáo hoàng Piô X là: Khôi phục mọi sự trong Chúa Kitô,” tuyên bố tiếp tục. “Đó cũng là trường hợp của cộng đồng chúng tôi, trong nhiều năm qua, đã cầu nguyện để tìm cách trở lại với sự trọn vẹn của truyền thống Công Giáo của chúng ta và khôi phục mọi sự trong Chúa Kitô, trong cả đời sống phụng vụ và trong cách chúng ta sống ơn gọi Cát Minh của mình.”

Các nữ tu nói tiếp: “Chúng tôi có sự đồng cảm với Huynh Đoàn Thánh Piô X vì Huynh Đoàn này chú trọng đào tạo các linh mục thánh thiện, tận tụy, sẵn sàng hy sinh tất cả vì Chúa Kitô, điều này trùng hợp với ơn gọi cầu nguyện và hy sinh của chúng tôi trong lòng Giáo hội, cống hiến cuộc đời mình cho Giáo hội và đặc biệt là cho các linh mục”.

Đức cố Tổng giám mục người Pháp Marcel-François Lefebvre đã thành lập Huynh Đoàn Thánh Piô X vào những năm 1970 để thúc đẩy Thánh lễ La tinh, nhưng vào năm 1988, ngài đã tấn phong bất hợp pháp bốn giám mục mà không có sự cho phép của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, dẫn đến việc ngài bị vạ tuyệt thông cùng với bốn giám mục. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 đã dỡ bỏ vạ tuyệt thông này vào năm 2009 với hy vọng cuối cùng sẽ đưa Huynh Đoàn Thánh Piô X trở lại hiệp thông trọn vẹn với Giáo hội, mặc dù ngài đã giải thích trong một lá thư rằng Huynh Đoàn Thánh Piô X không có tư cách giáo luật và do đó “các linh mục của huynh đoàn không thực hiện các chức thánh hợp pháp trong Giáo hội”.

Theo trang web của Huynh Đoàn Thánh Piô X, huynh đoàn phản đối Công đồng Vatican II, trong đó có đoạn: “Huynh Đoàn Thánh Piô X chịu sự quản lý của giáo quyền của Giáo hội, được thể hiện trong các công đồng và giáo huấn của các Đức Giáo Hoàng, và dưới ánh sáng đó, Công đồng Vatican II và các Đức Giáo Hoàng sau này phải bị phán xét, vì những gì đúng cho đến năm 1965 không thể đột nhiên trở nên sai lầm được”.

Tu viện thông báo rằng các nữ tu đã bầu lại Mẹ Teresa Agnes làm bề trên trong nhiệm kỳ ba năm và chia sẻ rằng nhà nguyện của họ mở cửa cho những người cầu nguyện riêng. Tu viện mời “các tín hữu” tham dự Thánh lễ La tinh hàng ngày.

Một số tuyên bố của Vatican trong những năm qua đã cảnh báo người Công Giáo không nên tham dự Thánh lễ Huynh Đoàn Thánh Piô X trừ khi có những trường hợp nghiêm trọng, bao gồm các lá thư năm 1995 và 1998 của Đức ông Camille Perl, khi đó là thư ký của Ủy ban Giáo hoàng Ecclesia Dei.

“Các Thánh lễ mà Huynh Đoàn Thánh Piô X cử hành cũng hợp lệ, nhưng về mặt đạo đức, việc các tín hữu tham gia vào các Thánh lễ này được coi là bất hợp pháp trừ khi họ bị cản trở về mặt thể chất hoặc đạo đức khi tham gia Thánh lễ do một linh mục Công Giáo có uy tín cử hành”, lá thư năm 1995 của Đức ông Perl viết.

Một lá thư năm 1998 của Đức Ông nhắc lại: “Chính vì não trạng ly giáo này mà ủy ban giáo hoàng này liên tục ngăn cản các tín hữu tham dự Thánh lễ được cử hành dưới sự bảo trợ của Huynh Đoàn Thánh Piô X.”

Tuy nhiên, luật sư giáo luật của Catholic Answers là Jimmy Akin lưu ý rằng Bộ Luật Giáo hội cho phép các tín hữu Kitô được rước lễ theo bất kỳ nghi lễ Công Giáo nào (Điều 923).

“Nghi thức Thánh lễ năm 1962 — mà Huynh Đoàn Thánh Piô X sử dụng — là nghi thức Công Giáo được chấp thuận, do đó các tín hữu có thể tham dự và rước lễ,” Akin nói với CNA.

“Việc nó được cử hành trong một tình huống bất thường theo giáo luật không thay đổi điều này”, Akin nói. “Mỗi lần một linh mục phạm tội lạm dụng phụng vụ, điều đó tạo ra một tình huống bất thường theo giáo luật. Luật pháp không muốn giáo dân phải phán đoán tình huống bất thường theo giáo luật nào liên quan đến sự xa rời luật pháp, và do đó quyền tham dự và rước lễ của họ trong bất kỳ nghi lễ Công Giáo nào đều được bảo vệ “.

Vào tháng 4, các nữ tu đã bất chấp sắc lệnh của Vatican bằng cách yêu cầu một thẩm phán ban hành lệnh cấm đối với các bên mà Vatican đã giao nhiệm vụ giám sát tu viện, bao gồm hiệp hội các tu viện Carmelô và Đức Cha Olson. Sắc lệnh tháng 4 đã giao tu viện cho Hiệp hội Chúa Kitô Vua tại Hoa Kỳ và chủ tịch của hiệp hội, Mẹ Marie. Vatican đã chỉ thị cho các nữ tu chấp nhận thẩm quyền của Đức Cha Olson, vì họ đã đưa ra tuyên bố vào đầu năm nay từ chối thẩm quyền của ngài.

Trong tuyên bố ngày 7 tháng 9, Đức Giám Mục Olson cho biết ngài yêu cầu “tiếp tục cầu nguyện cho các nữ tu, cho Mẹ Marie và các thành viên của Hiệp hội Chúa Kitô Vua”.


Source:National Catholic Register

4. Medjugorje: Những điều người Công Giáo cần biết về những lần được cho là Đức Mẹ hiện ra

Tòa thánh đã thông báo tổ chức một cuộc họp báo về Medjugorje vào Thứ Năm, 19 Tháng Chín, lúc 11:30 sáng, giờ Rôma.

Thông báo của Vatican cho biết cuộc họp báo sẽ thảo luận về “những trải nghiệm tâm linh của những người hành hương tại thánh địa Medjugorje.” Không có thông tin nào khác được cung cấp, ngoài danh sách những người tham gia sẽ phát biểu:

Đức Hồng Y Victor Fernandez, Tổng Trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin,

Đức Cha Armando Matteo, thư ký của ban giáo lý của Bộ Giáo Lý Đức Tin, và

Andrea Tornielli, giám đốc biên tập của Bộ Truyền thông.

Trong khi chờ đợi kết quả của cuộc họp báo, tờ National Catholic Register có bài nhận định nhan đề “Medjugorje: What Catholics Should Know About the Alleged Marian Apparitions” nghĩa là “Medjugorje: Những điều người Công Giáo cần biết về những lần được cho là Đức Mẹ hiện ra”.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.

Kể từ ngày 24-25 tháng 6 năm 1981, đêm trước lễ Sinh Nhật của Thánh Gioan Tẩy Giả, khi sáu đứa trẻ ở một thị trấn nhỏ ở Bosnia-Herzegovina lần đầu tiên báo cáo rằng chúng nhìn thấy và nhận được thông điệp từ Đức Trinh Nữ Maria, hơn 40 triệu người hành hương từ khắp nơi trên thế giới đã đổ về thị trấn nhỏ mang tên Medjugorje.

Những người hành hương tham dự Thánh lễ tại Nhà thờ Thánh Giacôbê Tông Đồ của Medjugorje vào ban ngày và Thánh lễ buổi tối được cử hành ngoài trời để phục vụ đám đông lớn. Họ leo lên Podbrdo đầy đá — được gọi là Đồi Hiện ra — mang theo một bức tượng Đức Mẹ, đánh dấu nơi Đức Mẹ được cho là đã hiện ra. Những người hành hương cũng leo lên Núi Križevac, cầu nguyện Chặng Đàng Thánh Giá, đi đến cây thánh giá khổng lồ cao gần 12 m do dân làng xây dựng vào đầu thế kỷ 20. Họ xếp hàng dài tại tất cả các tòa giải tội, vì bí tích sám hối được cử hành hàng ngày.

Các linh mục dòng Phanxicô đã chăm lo cho nhu cầu tâm linh của người dân Croatia tại giáo xứ và khu vực có khí hậu Địa Trung Hải và đồng bằng màu mỡ thích hợp cho nông dân trồng nho từ thế kỷ 13, và các ngài đã liên hệ chặt chẽ với những người có thị kiến và khách hành hương ngay từ khi các lần hiện ra bắt đầu.

Sáu người có thị kiến là Marija Pavlovic-Lunetti, Ivan Dragicevic, Vicka Ivankovic-Mijatovic, Jakov Colo, Mirjana Dragicevic-Soldo và Ivanka Ivankovic-Elez. Luôn được gọi là “những người có thị kiến”, giờ họ đã là người lớn. Trong khi Vicka, Ivan và Marija vẫn được cho là nhận được một cuộc hiện ra hàng ngày vào thời điểm cụ thể là 6:40 chiều, những người khác hiện chỉ nhận được vào những ngày cụ thể. Mirjana được cho là nhận được các cuộc hiện ra một lần một tháng, cộng với một lần một năm vào ngày 18 tháng 3, ngày sinh nhật của cô; Ivanka báo cáo một lần một năm vào ngày 25 tháng 6, ngày kỷ niệm lần hiện ra đầu tiên, và Jakov một lần một năm vào Ngày Giáng Sinh.

Theo các thị nhân, Đức Mẹ đã đến Medjugorje để chỉ cho các tín hữu con đường đến với hòa bình và giúp hoán cải cuộc sống để trở về với Chúa, bao gồm cả việc đưa mọi người đến với Chúa Con của Mẹ, Chúa Giêsu. Vào đầu các lần hiện ra, Mẹ được cho là đã tự nhận mình là “Nữ Vương Hòa Bình”.

“Các con thân mến, đây là lý do tại sao Mẹ hiện diện giữa các con trong một thời gian dài như vậy: để dẫn dắt các con trên con đường của Chúa Giêsu. Mẹ muốn cứu các con và, qua các con, cứu cả thế giới. Nhiều người hiện đang sống mà không có đức tin; một số thậm chí không muốn nghe về Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn muốn có sự bình an trong lòng! Các con ơi, đây là lý do tại sao Mẹ cần lời cầu nguyện của các con: Cầu nguyện là cách duy nhất để cứu nhân loại” ( thông điệp 30 tháng 7 năm 1987).

Năm 'Hòn Đá'

Giống như David có năm viên đá để đánh bại Goliath (1 Samuel 17:40), các linh mục ở Medjugorje giải thích các thông điệp và chỉ dẫn của Đức Mẹ như năm viên đá để đánh bại Satan và cứu rỗi các linh hồn. Đó là:

1. Cầu nguyện hằng ngày, đặc biệt là lần hạt Mân Côi hằng ngày.

2. Ăn chay — vào thứ Tư và thứ Sáu vì thông qua việc ăn chay, chiến tranh có thể chấm dứt và các quy luật tự nhiên bị đình chỉ.

3. Đọc Kinh Thánh hằng ngày và đặt ở nơi dễ thấy trong nhà.

4. Xưng tội. Theo những người có thị kiến, Đức Mẹ Maria đã yêu cầu xưng tội hàng tháng đều đặn: “Xưng tội hàng tháng sẽ là phương thuốc cho Giáo hội ở phương Tây. Người ta phải truyền đạt thông điệp này đến phương Tây.” Ngay cả Thánh Gioan Phaolô II và Mẹ Teresa cũng đã tận dụng bí tích này hàng tuần. Đức Mẹ Maria cũng được cho là đã nói, “Hãy cầu nguyện, cầu nguyện! Cần phải tin tưởng vững chắc, đi xưng tội thường xuyên, và cũng phải rước lễ. Đó là sự cứu rỗi duy nhất.”

5. Thánh lễ và Bí tích Thánh Thể: Đức Mẹ được cho là nhấn mạnh đến Thánh lễ Chúa Nhật và việc rước Mình Thánh Chúa trong trạng thái ân sủng, lưu ý rằng Chúa Giêsu ban cho chúng ta ân sủng của Người trong Thánh lễ, và Đức Mẹ cũng được cho là đã nói thêm về tầm quan trọng của việc tham dự Thánh lễ hàng ngày khi có thể.

Ủy ban chính thức

Năm 1986, với tư cách là nhà lãnh đạo Bộ Giáo lý Đức tin, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger đã thành lập một ủy ban bao gồm các giám mục Nam Tư để điều tra. Năm 1991, tuyên bố chính thức từ Hội đồng Giám mục Nam Tư nêu rõ rằng vẫn chưa xác định được liệu các cuộc hiện ra có nguồn gốc siêu nhiên hay không; những người hành hương được phép đến Medjugorje; và các linh mục cũng được phép chăm sóc các nhu cầu tâm linh của những người hành hương.

Vào ngày 26 tháng 3 năm 2010, Đức Bênêđíctô XVI khi đó đã bổ nhiệm Hồng Y người Ý Camillo Ruini làm nhà lãnh đạo một ủy ban gồm các Hồng Y, nhà thần học, nhà tâm lý học và những người khác để điều tra Medjugorje. Vào năm 2016, ủy ban đã hoàn thành báo cáo của mình và một năm sau, Bộ Giáo Lý Đức Tin đã chuyển báo cáo này cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô. Vào thời điểm đó, ủy ban đã chia cuộc điều tra thành hai giai đoạn: bảy lần xuất hiện đầu tiên từ ngày 24 tháng 6 đến ngày 3 tháng 7 năm 1981 và tất cả những lần xảy ra sau đó và vẫn tiếp tục. Báo cáo thừa nhận bản chất siêu nhiên của bảy lần xuất hiện đầu tiên.

Bản báo cáo đưa ra bốn khuyến nghị: Đặt Medjugorje dưới sự kiểm soát của Vatican; cho phép các cuộc hành hương do Giáo Hội tổ chức; tuyên bố Medjugorje là đền thờ của giáo hoàng; và tuyên bố những lần hiện ra đầu tiên là xác thực và siêu nhiên. Sau đó, trong một cuộc họp báo trên chuyến bay năm 2017, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nói, “Liên quan đến những lần hiện ra được cho là vẫn tiếp diễn, báo cáo bày tỏ sự nghi ngờ.” Một năm sau khi Đức Giáo Hoàng bày tỏ sự nghi ngờ cá nhân về các sự kiện, vào tháng 5 năm 2018, Đức Phanxicô đã chỉ định Tổng giám mục người Ba Lan Henryk Hoser giúp giám sát mọi khía cạnh của các mục vụ tại Medjugorje, do đó đặt Medjugorje dưới sự kiểm soát của Vatican. Do đó, Đức Tổng Giám Mục Hoser, được chính thức bổ nhiệm là thanh tra tông tòa, đã cho phép các cuộc hành hương chính thức do giáo phận và giáo xứ tổ chức để thúc đẩy những thành quả tốt đẹp trong khi không xác thực mọi thứ. Năm 2019, Đức Giáo Hoàng Phanxicô chính thức cho phép các cuộc hành hương có tổ chức đến Medjugorje. Vào tháng 11 năm 2021, sau khi Đức Tổng Giám Mục Hoser qua đời, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã bổ nhiệm Giám mục người Ý Aldo Cavalli tiếp tục sứ mệnh tại Medjugorje.

10 'Bí mật'

Mỗi thị nhân được cho là đã được ban cho 10 “bí mật” liên quan đến các sự kiện trên thế giới trong tương lai gần. Không có bí mật nào có thể được tiết lộ, ngoại trừ cái gọi là “Bí mật thứ ba”. Đức Mẹ hứa sẽ để lại một dấu hiệu siêu nhiên, không thể phá hủy trên ngọn núi nơi Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên. Đức Mẹ được cho là đã nói rằng đó sẽ là một dấu hiệu cho những người vô thần, và nói thêm rằng:

“Các tín hữu không nên chờ đợi dấu hiệu trước khi hoán cải; hãy hoán cải ngay. Đây là thời gian ân sủng dành cho các con. Các con không bao giờ có thể cảm tạ Chúa đủ về ân sủng của Người. Đây là thời gian để đào sâu đức tin và hoán cải của các con. Khi dấu hiệu xuất hiện, sẽ quá muộn đối với nhiều người.”

Ngay sau khi Đức Mẹ kết thúc các lần hiện ra, người ta đã đưa tin, ba lời cảnh báo sẽ được ban cho thế giới. Mirjana sẽ tiết lộ chúng cho Cha Petar Ljubicic 10 ngày trước khi chúng xảy ra và ngài sẽ công bố chúng. Sau lần đầu tiên, dường như sẽ có một thời gian ân sủng và sự hoán cải lớn lao.

Hoa trái dồi dào

Những thành quả tâm linh là rõ ràng. Theo các báo cáo, vô số trong số hơn 40 triệu người đã đến Medjugorje từ đầu, dù là với ý định tâm linh thực sự hay vì tò mò, đã trở về nhà với đức tin mạnh mẽ hơn và quyết tâm thực hành những chỉ thị của Đức Mẹ. Có nhiều báo cáo về sự hoán cải và quay trở lại với đức tin. Các loại chữa lành khác nhau, từ thể xác đến tâm hồn, dường như cũng đã xảy ra. Nhiều ơn gọi đã được báo cáo xuất phát từ Medjugorje. Kể từ năm 1989, khi hai linh mục dòng Phanxicô ở đó tổ chức Lễ hội Thanh niên Quốc tế Medjugorje, được gọi là Mladifest, như một lễ hội thường niên của thanh niên Công Giáo, 50.000 người trẻ đã đến tham dự hàng năm từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 8.

Vào năm 2023, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi một thông điệp đến những người tham dự Mladifest, nói rằng, “Tôi vui mừng gửi lời đến những người đang tham gia Lễ hội Thanh niên tại Medjugorje, một dịp để kỷ niệm và đổi mới đức tin của các bạn. Tôi hy vọng các bạn sẽ sống những ngày này như một cuộc hành hương tâm linh dẫn các bạn đến gặp Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, trong việc Thờ phượng, trong việc Xưng tội, trong giáo lý Kinh thánh, trong lời cầu nguyện thầm lặng và Kinh Mân Côi, và cũng qua các chứng từ.”

Nhiều người đến Medjugorje đã ghi nhớ những gì Đức Mẹ, Nữ Vương Hòa Bình, được cho là đã nói: “Mẹ đến để nói với thế giới rằng Thiên Chúa hiện hữu. Ngài là sự viên mãn của cuộc sống, và để tận hưởng sự viên mãn và bình an này, bạn phải trở về với Thiên Chúa.”

Hiện tại, các tín hữu đang chờ đợi cuộc họp báo do Vatican tổ chức vào thứ năm về “trải nghiệm tâm linh” tại thị trấn nhỏ tự hào có lòng sùng kính Đức Mẹ lớn lao.


Source:National Catholic Register