1. Đức Giáo Hoàng Phanxicô họp báo trên máy bay chở ngài từ Singapore trở lại Vatican
Phát biểu trên chiếc máy bay chở ngài, một chuyến bay thuê bao của Singapore Airlines, Đức Giáo Hoàng khuyến khích người Công Giáo bỏ phiếu theo lương tâm của họ.
“Trong đạo đức chính trị, nói chung, họ nói rằng nếu bạn không bỏ phiếu, thì điều đó không tốt, mà là xấu. Bạn phải bỏ phiếu, và bạn phải chọn cái ác nhỏ hơn”, ngài nói.
“Cái ác nhỏ hơn là gì? Người phụ nữ đó, hay người đàn ông đó?” ngài nói tiếp, ám chỉ đến Phó Tổng thống Kamala Harris và đối thủ Cộng hòa của bà, cựu tổng thống Donald Trump. “Tôi không biết. Mỗi người, theo lương tâm của mình, phải suy nghĩ và làm điều này”.
Trong cuộc họp báo đầu tiên mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô phải đối mặt sau gần một năm, ngài đã bày tỏ sự hài lòng của mình với thỏa thuận ngoại giao gây tranh cãi của Vatican với Trung Quốc cộng sản, và ngài kiên quyết loại trừ khả năng tham dự lễ mở cửa lại Nhà thờ Đức Bà Paris. Đức Giáo Hoàng không được hỏi bất cứ câu hỏi nào về những vụ lạm dụng và tác phẩm nghệ thuật bị cáo buộc của Cha Marko Rupnik và một lần nữa, ngài nhấn mạnh rằng phá thai là “giết người”.
Phóng viên Anna Matranga của CBS News đã hỏi Đức Giáo Hoàng Phanxicô rằng ngài sẽ đưa ra lời khuyên gì cho một cử tri Mỹ phải quyết định giữa một ứng cử viên “ủng hộ phá thai và một ứng cử viên khác muốn trục xuất hàng triệu người di cư”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô trả lời: “Cả hai đều chống lại sự sống — cả người đuổi người di cư và người giết trẻ sơ sinh — cả hai đều chống lại sự sống”.
Harris, một đảng viên Dân chủ đã đưa phá thai không có hạn chế pháp lý trở thành trọng tâm trong chiến dịch tranh cử tổng thống của mình, và Ông Trump, người đã kêu gọi trục xuất có lẽ hàng triệu người nhập cư đã nhập cảnh bất hợp pháp vào Hoa Kỳ trong những năm gần đây, đang bị kẹt trong một cuộc cạnh tranh gay gắt khi chỉ còn 52 ngày nữa là đến cuộc bầu cử ngày 5 tháng 11.
Nhận xét của Đức Thánh Cha về “cái ác nhỏ hơn” ám chỉ đến giáo lý lâu đời của Giáo hội rằng khi phải lựa chọn giữa các ứng cử viên không hoàn toàn đồng tình với lập trường của Giáo hội về các vấn đề cơ bản “không thể thương lượng” — chẳng hạn như tính thánh thiêng của sự sống, hôn nhân và tự do tôn giáo — thì được phép bỏ phiếu chống lại ứng cử viên gây ra nhiều tác hại nhất.
Phá thai là ‘giết người’
Đức Giáo Hoàng nói tiếp rằng khoa học ủng hộ quan điểm sự sống bắt đầu từ khi thụ thai, đồng thời nói thêm rằng mặc dù mọi người có thể không thích sử dụng chữ “giết” khi thảo luận về chủ đề này, nhưng phá thai là “giết người”.
“Phá thai là giết một con người”, Đức Phanxicô nói.
“Giáo hội không cho phép phá thai vì phá thai là giết người”, ngài nói thêm. “Đó là giết người. Và chúng ta phải làm rõ điều này”.
Trong hướng dẫn cử tri được cập nhật của mình, các giám mục Hoa Kỳ tuyên bố: “Mối đe dọa phá thai vẫn là ưu tiên hàng đầu của chúng ta vì nó trực tiếp tấn công những anh chị em dễ bị tổn thương và không có tiếng nói nhất của chúng ta và hủy hoại hơn một triệu sinh mạng mỗi năm chỉ riêng tại quốc gia chúng ta”.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng nói mạnh mẽ về chủ đề nhập cư, khi nhắc lại chuyến thăm biên giới Mexico với Hoa Kỳ, nơi ngài đã cử hành Thánh lễ gần Giáo phận El Paso, nói rằng “đuổi người di cư đi” hoặc không chào đón họ là “tội lỗi”.
“Đuổi người di cư đi, không cho họ phát triển, không cho họ có cuộc sống, là một điều tồi tệ và ghê tởm. Đuổi một đứa trẻ khỏi bầu sữa mẹ là một hành vi giết người vì vẫn còn sự sống. Về những điều này, chúng ta phải nói thẳng thắn”, ngài nói.
Bình luận của Đức Giáo Hoàng được đưa ra ba ngày sau cuộc tranh luận tổng thống đầu tiên giữa Ông Trump và Harris, trong đó cả phá thai và di cư đều là những chủ đề tranh luận quan trọng. Cuộc tranh luận của Hoa Kỳ diễn ra khi Đức Giáo Hoàng Phanxicô đang ở cách xa gần 10,000 dặm để thăm các quốc đảo Đông Timor, Papua New Guinea, Indonesia và Singapore từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 9.
Trong cuộc họp báo kéo dài 45 phút trên chuyến bay — bị gián đoạn trong giây lát do nhiễu động mạnh trên máy bay chở Đức Giáo Hoàng — Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng trả lời các câu hỏi về lạm dụng tình dục của giáo sĩ, đối thoại Vatican-Trung Quốc, chiến tranh ở Gaza, án tử hình và các kế hoạch công du sắp tới của ngài
2. Đức Phanxicô nắm bắt được sự thật khắc nghiệt: Người Công Giáo Mỹ sẽ trở thành người vô gia cư về mặt chính trị
John L. Allen Jr., chủ bút tạp chí Crux, ngày 15 tháng 9 năm 2024, nhận định rằng đối với một vị giáo hoàng thường bị coi là có ác cảm với Hoa Kỳ – và, ta hãy thừa nhận điều đó, ấn tượng đó không hoàn toàn vô căn cứ – tuy nhiên, trong những bình luận gần đây của ngài về “điều ít tệ hại hơn trong hai điều tệ hại” liên quan đến cuộc đua Ông Trump/Harris, Đức Phanxicô dường như đã truyền tải được bản chất người Mỹ mà ngài vốn nghĩ một cách khá tốt.
Ý tôi là, có bao nhiêu người Mỹ, Công Giáo hay không, đôi khi cảm thấy trong các chu kỳ bầu cử gần đây chúng ta phải lựa chọn giữa hai phương án thiếu sót, buộc phải đưa ra những lựa chọn đáng thất vọng?
Thật vậy, có những người nhiệt tình ở cả hai phía của sự chia rẽ đảng phái của chúng ta, những người có lẽ không nhìn nhận mọi thứ theo cách đó, nhưng cách Đức Phanxicô đánh giá tình hình sẽ gây được tiếng vang với một bộ phận lớn người Mỹ, bất kể có tôn giáo hay không, những người đơn giản là không thể có được lập trường hoàn toàn, ngay thẳng và kiên định ủng hộ bất cứ phương án nào.
Tuy nhiên, đối với người Công Giáo Mỹ nói riêng, những bình luận của Đức Phanxicô trên chuyến bay trở về Rôma từ Singapore cũng đã chỉ ra một sự thật phũ phàng, một sự thật thường bị lãng quên giữa sự ồn ào và náo nhiệt của mùa bầu cử: Cụ thể, bất cứ người Mỹ nào coi trọng toàn bộ giáo lý xã hội Công Giáo thì đơn giản là không thể thoải mái với bất cứ đảng phái chính trị lớn nào của chúng ta.
Quan điểm này đã từng được John Carr, người khi đó là người vận động hành lang chính cho các giám mục Hoa Kỳ và hiện đang điều hành Sáng kiến về Tư tưởng Xã hội Công Giáo và Đời sống Công cộng tại Georgetown, đúc kết thành một câu nói nổi tiếng. Carr cho biết một người Công Giáo Mỹ đang cố gắng nhất quán trong việc áp dụng giáo lý của Giáo hội vào hệ thống hai đảng của Hoa Kỳ thì chắc chắn sẽ mãi “vô gia cư về mặt chính trị”.
Sự tương tác giữa các giáo hoàng và tổng thống trong nhiều năm chắc chắn đã chứng minh điều đó.
Khi Tổng thống Lyndon Johnson lên nắm quyền tại Hoa Kỳ vào năm 1963, chỉ vài tháng sau cuộc bầu cử của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, hầu hết các chuyên gia đều dự đoán rằng vị giáo hoàng có tư tưởng tiến bộ này sẽ tìm được tiếng nói chung với nhà lãnh đạo đảng Dân chủ về phong trào dân quyền và Cuộc chiến chống đói nghèo. Cả hai người đều thừa hưởng vai trò lãnh đạo từ những người tiền nhiệm đầy sức lôi cuốn, và cả hai đều chia sẻ một chương trình cải cách tiến bộ rộng rãi.
Mặc dù tất cả những điều đó đều đúng cho đến nay, nhưng vào thời điểm hai người gặp nhau tại Vatican vào tháng 12 năm 1967, các báo cáo chỉ ra rằng Đức Phaolô VI thực sự đã hét vào mặt Johnson tại một thời điểm, đập tay xuống bàn, về những bất đồng sâu sắc liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam.
Sau đó, người ta cũng cho rằng Giáo hoàng Gioan Phaolô II bảo thủ hơn sẽ cảm thấy thoải mái khi Tổng thống George W. Bush nhậm chức vào Tháng Giêng năm 2001, xét vì lập trường ủng hộ sự sống mạnh mẽ của Bush, sự ủng hộ của ông đối với các sáng kiến dựa trên đức tin và sự ngưỡng mộ rõ ràng của ông đối với Giáo Hội Công Giáo mặc dù ông xuất là người Thệ Phản.
Tuy nhiên, không có điều gì trong số đó ngăn chặn được một trong những cuộc khủng hoảng sâu sắc nhất trong lịch sử quan hệ Hoa Kỳ/Vatican khi Bush quyết định tham chiến ở Iraq vì sự phản đối mạnh mẽ của Đức Gioan Phaolô.
Tất nhiên, mô hình đó vẫn tiếp tục dưới thời Giáo hoàng Phanxicô. Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, một người Công Giáo tự do cổ điển của trường phái cũ, chưa bao giờ bỏ lỡ cơ hội bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Đức Phanxicô, nhưng Đức Giáo Hoàng và tổng thống có quan điểm trái ngược nhau rõ ràng về các vấn đề từ Ukraine và Gaza đến chính sách phá thai và lý thuyết phái tính.
Người ta có thể tiếp tục liệt kê những ví dụ về sự bất hòa như vậy - cách Gioan Phaolô II và Tổng thống Bill Clinton xung đột trong các hội nghị của Liên Hiệp Quốc về dân số và phụ nữ tại Cairo và Bắc Kinh, được tổ chức lần lượt vào năm 1994 và 1995, đặc biệt là về vấn đề “quyền” phá thai quốc tế, nhưng lại thấy mình hợp lực trong năm thánh 2000 để ủng hộ việc xóa nợ cho các quốc gia đang phát triển.
Hoặc, để trích dẫn một trường hợp khác, bất chấp sự tương phản rõ ràng giữa Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đíc-tô XVI và Tổng thống Barack Obama về nhiều vấn đề khác nhau, khi hai người gặp nhau tại Vatican vào năm 2009, phần lớn cuộc trò chuyện đều dành cho thông điệp Caritas in Veritate của Đức Bê-nê-đíc-tô, trong đó vị giáo hoàng ủng hộ việc phân phối lại của cải để phục vụ người nghèo, kêu gọi củng cố thẩm quyền chính trị thế giới và than thở về biến đổi khí hậu và suy thoái môi trường - tất cả các vấn đề mà vị giáo hoàng bảo thủ và tổng thống tự do có thể tìm thấy tiếng nói chung.
Vấn đề là, thực sự không quan trọng liệu một đảng viên Cộng hòa hay Dân chủ chiếm giữ Tòa Bạch Ốc. Trong cả hai trường hợp, sẽ có một số lĩnh vực mà Giáo hội và nhà nước sẽ hòa hợp, và những lĩnh vực khác thì không.
Động lực đó có một lời giải thích đơn giản: Mỗi bên trong sự chia rẽ đảng phái của Hoa Kỳ đều mạnh về một phần học thuyết xã hội Công Giáo nhưng tương đối yếu về phần khác.
Nói một cách đơn giản hóa quá mức, đảng Cộng hòa có xu hướng dễ dãi với giáo lý giáo hội về các vấn đề sự sống, tự do tôn giáo và việc ủng hộ của công chúng đối với các tổ chức tôn giáo, trong khi đảng Dân chủ thường gần gũi hơn với giáo lý về các vấn đề xã hội, bao gồm các nỗ lực chống đói nghèo, án tử hình, môi trường và quan hệ chủng tộc.
Nói cách khác, khi người Công Giáo Mỹ bước vào phòng bỏ phiếu, họ luôn cố gắng đóng một cái chốt vuông vào một lỗ tròn.
Trong thời gian chuẩn bị cho chiến tranh Iraq, có một thời điểm Đức Gioan Phaolô II đã cử Hồng Y Pio Laghi đến Washington để cố gắng thuyết phục người Mỹ vào phút cuối hủy bỏ mọi thứ. Đó là một lựa chọn tự nhiên, vì Laghi đã phục vụ với tư cách là sứ giả của Đức Giáo Hoàng tại Hoa Kỳ trong suốt một thập niên, từ năm 1980 đến năm 1990, và có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với gia đình Bush. Tuy nhiên, cuối cùng nhiệm vụ của ngài đã thất bại, và Hoa Kỳ vẫn phát động cuộc xâm lược.
Khi Laghi trở về Rôma, ngài đã có một cuộc họp báo ngắn với một nhóm nhỏ các phóng viên, và tôi nhớ rõ phản ứng của ngài: “Vấn đề là tất cả bọn họ đều là người theo thuyết Manichean ở đó”, ngài nói, không những ám chỉ bản chất nhị nguyên của chính trị Hoa Kỳ, mà còn ám chỉ theo nhiều cách quan điểm chung của chúng ta về thế giới.
Theo nghĩa đó, những gì Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói vào tối thứ Sáu hoàn toàn phù hợp với kinh nghiệm của người Công Giáo cả từ xa xưa và gần đây. Tác động của nó đối với cuộc đua Ông Trump/Harris, nếu có, vẫn còn phải chờ xem, nhưng ít nhất đây là một trường hợp mà bạn không thể thực sự cáo buộc vị Giáo hoàng người Á Căn Đình đã hiểu sai về nước Mỹ.
3. Huấn đức của Đức Thánh Cha Phanxicô trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật
Trong bài huấn dụ ngắn trước khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một ngày Chúa Nhật vui vẻ!
Tin Mừng Phụng Vụ hôm nay cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu, sau khi hỏi các môn đệ rằng mọi người nghĩ gì về Người, đã trực tiếp hỏi họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8:29). Phêrô trả lời thay mặt cho toàn thể nhóm, rằng: “Thầy là Đấng Kitô” (c. 30), nghĩa là, Ngài là Đấng Messia. Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu bắt đầu nói về sự đau khổ và cái chết đang chờ đợi Người, thì chính Phêrô phản đối, và Chúa Giêsu đã nghiêm khắc khiển trách ông: “Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy!” – Người gọi ông, vị Giáo Hoàng tiên khởi của Giáo Hội, là Satan – vì tư tưởng của ông không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người. (c. 33).
Khi nhìn vào thái độ của tông đồ Phêrô, chúng ta cũng có thể tự hỏi rằng biết Chúa Giêsu thực sự có nghĩa là gì. Biết Chúa Giêsu có nghĩa là gì?
Trên thực tế, một mặt, Thánh Phêrô trả lời hoàn hảo, khi nói với Chúa Giêsu rằng Ngài là Chúa Kitô. Tuy nhiên, đằng sau những lời đúng đắn này vẫn còn một cách suy nghĩ “của loài người”, một não trạng tưởng tượng ra một Đấng Messiah mạnh mẽ, một Đấng Messiah chiến thắng, không thể chịu đau khổ hay chết. Vì vậy, những lời mà Thánh Phêrô trả lời là “đúng”, nhưng cách suy nghĩ của ông vẫn không thay đổi. Ông vẫn phải thay đổi tư duy của mình, ông vẫn phải hoán cải.
Và đây là một thông điệp, một thông điệp quan trọng đối với chúng ta nữa. Thật vậy, chúng ta cũng đã học được đôi điều về Chúa, chúng ta biết giáo lý, chúng ta đọc đúng các lời cầu nguyện và có lẽ, chúng ta trả lời tốt câu hỏi “Chúa Giêsu là ai đối với bạn?”, với một số công thức chúng ta đã học được trong giáo lý. Nhưng chúng ta có chắc rằng điều này có nghĩa là thực sự biết Chúa Giêsu không? Trên thực tế, để biết Chúa, không đủ nếu chỉ biết đôi điều về Người, mà đúng hơn là phải theo Người, để cho mình được chạm đến và thay đổi bởi Phúc Âm của Người. Đó là vấn đề có mối quan hệ với Người, một cuộc gặp gỡ. Tôi có thể biết nhiều điều về Chúa Giêsu, nhưng nếu tôi chưa gặp Người, tôi vẫn không biết Chúa Giêsu là ai. Cần có cuộc gặp gỡ này để thay đổi cuộc sống: nó thay đổi cách sống, nó thay đổi cách suy nghĩ, nó thay đổi các mối quan hệ mà anh chị em có với anh chị em mình, sự sẵn lòng chấp nhận và tha thứ, nó thay đổi những lựa chọn mà anh chị em đưa ra trong cuộc sống. Mọi thứ đều thay đổi nếu anh chị em thực sự biết Chúa Giêsu! Mọi thứ đều thay đổi.
Anh chị em thân mến, Bonhoeffer, là một nhà thần học Lutheran và là một mục sư nạn nhân của chủ nghĩa Quốc xã, đã viết: “Điều làm tôi bận tâm không ngừng là câu hỏi về Kitô giáo thực sự là gì, hoặc thực sự Chúa Kitô thực sự là ai, đối với chúng ta ngày nay” (Dietrich Bonhoeffer, Thư và giấy tờ từ nhà tù). Thật không may, nhiều người không còn tự đặt ra câu hỏi này cho mình và vẫn “không bận tâm”, ngủ quên, thậm chí xa cách Chúa. Thay vào đó, điều quan trọng là phải tự hỏi: tôi có để mình bị bận tâm không, tôi có hỏi Chúa Giêsu là ai đối với tôi không, và Ngài chiếm vị trí nào trong cuộc sống của tôi không? Tôi chỉ theo Chúa Giêsu trong lời nói, tiếp tục có một não trạng thế gian, hay tôi quyết tâm theo Ngài, để cuộc gặp gỡ với Ngài biến đổi cuộc sống của tôi?
Xin Mẹ Maria, người biết rõ Chúa Giêsu, giúp chúng ta trả lời câu hỏi này.
Sau khi đọc kinh Truyền Tin, Đức Thánh Cha nói thêm như sau:
Anh chị em thân mến,
Tôi bày tỏ sự gần gũi của mình với người dân Việt Nam và Miến Điện, những người đang phải chịu đựng hậu quả của lũ lụt do cơn bão dữ dội gây ra. Tôi cầu nguyện cho những người đã chết, những người bị thương và những người phải di dời. Xin Chúa nâng đỡ những người đã mất người thân và nhà cửa, và ban phước cho những người đang đến giúp đỡ họ.
Hôm qua, Moisés Lira Seraphin đã được phong chân phước tại Thành phố Mexico. Là một linh mục và là người sáng lập Dòng Thừa sai Bác ái Đức Mẹ Vô nhiễm, ngài qua đời năm 1950, sau một cuộc đời giúp mọi người tiến triển trong đức tin và tình yêu Chúa. Mong rằng lòng nhiệt thành tông đồ của ngài sẽ khuyến khích các linh mục hiến thân không chút dè dặt, vì lợi ích thiêng liêng của dân thánh Chúa. Một tràng pháo tay cho vị Chân phước mới! Tôi có thể thấy lá cờ Mexico ở đằng kia…
Hôm nay là Ngày quốc tế về “Xơ cứng teo cơ một bên” tại Ý. Tôi xin ghi nhớ trong lời cầu nguyện cho những người mắc bệnh và gia đình họ; Tôi khuyến khích công tác nghiên cứu về bệnh lý này và các hiệp hội tình nguyện.
Và chúng ta đừng quên những cuộc chiến tranh đang gây ra đổ máu trên thế giới. Tôi nghĩ đến Ukraine, Miến Điện đang bị giày vò, tôi nghĩ đến Trung Đông. Biết bao nạn nhân vô tội. Tôi nghĩ đến những bà mẹ đã mất con trai mình trong chiến tranh. Biết bao sinh mạng trẻ tuổi đã bị cắt ngắn! Tôi nghĩ đến Hersh Goldberg-Polin, được tìm thấy đã chết vào tháng 9, cùng với năm con tin khác ở Gaza. Vào tháng 11 năm ngoái, tôi đã gặp mẹ của anh ta, Rachel, người đã gây ấn tượng với tôi về lòng nhân đạo của bà. Tôi đồng hành cùng bà trong khoảnh khắc này. Mong rằng xung đột ở Palestine và Israel sẽ chấm dứt! Mong rằng bạo lực sẽ chấm dứt! Mong rằng hận thù sẽ chấm dứt! Hãy thả các con tin, hãy để các cuộc đàm phán tiếp tục và hãy để các giải pháp hòa bình được tìm thấy!
Tôi chào tất cả anh chị em, người Roma và những người hành hương từ Ý và nhiều quốc gia. Đặc biệt, các tín hữu của giáo xứ Thánh Nữ hoàng Jadwiga ở Radom, Ba Lan; nhóm các linh mục Dòng Tên đã đến Roma để học; các sinh viên của trường Stade, Đức và những người tham gia cuộc đi bộ tiếp sức từ Roma đến Assisi. Và tôi chào những người trẻ của Immacolata, những người đã được thụ phong ba lần trong những ngày này: xin chúc mừng!
Chúc mọi người một ngày Chúa Nhật tốt lành. Và xin đừng quên cầu nguyện cho tôi. Chúc anh chị em bữa trưa ngon miệng và xin chào tạm biệt.