1. Thi hài của Thánh Têrêsa thành Ávila vẫn không bị phân hủy sau gần 5 thế kỷ
Tờ National Catholic Register cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “St. Têrêsa of Ávila’s Body Remains Incorrupt After Almost 5 Centuries”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.
Giáo phận Ávila ở Tây Ban Nha báo cáo vào ngày 28 tháng 8 rằng thi thể của Thánh Têrêsa thành Ávila, một Tiến sĩ Hội Thánh, vẫn còn nguyên vẹn sau khi thánh nhân qua đời vào ngày 4 tháng 10 năm 1582, cách đây gần năm thế kỷ.
“Hôm nay, ngôi mộ của Thánh Têrêsa đã được mở ra và chúng tôi đã xác minh rằng thi hài của thánh nữ vẫn ở trong tình trạng tương tự như khi nó được mở lần cuối vào năm 1914,” Cha Marco Chiesa, tổng thỉnh nguyện viên của Dòng Cát Minh Nhặt Phép, thuộc Tu viện Cát Minh Alba de Tormes, nơi an nghỉ của vị thánh người Tây Ban Nha đáng kính này, cho biết.
Cha Miguel Ángel González, bề trên Dòng Cát Minh ở Alba de Tormes và Salamanca thuộc Giáo phận Ávila, đã giải thích về cách thức tiến hành thủ tục này: “Cộng đồng các bà mẹ Dòng Cát Minh Nhặt Phép cùng với tổng cố vấn của dòng, các thành viên của tòa án tôn giáo và một nhóm nhỏ các tu sĩ đã di chuyển các hộp đựng thánh tích một cách nghiêm ngặt và long trọng đến nơi được thiết lập để nghiên cứu. Chúng tôi đã làm điều đó bằng cách hát kinh Te Deum với trái tim tràn đầy cảm xúc.”
Giáo phận giải thích rằng sự kiện này diễn ra như một phần của lễ công nhận theo giáo luật đối với hài cốt của Thánh Têrêsa thành Ávila, theo yêu cầu từ Vatican vào ngày 1 tháng 7 của Đức Cha Luis Retana, giám mục Salamanca, với sự cho phép của Đức Giáo Hoàng Phanxicô thông qua Bộ Tuyên thánh.
Quá trình nghiên cứu cơ thể, trái tim, cánh tay và bàn tay, trong đó bàn tay được bảo quản tại thị trấn Ronda của Tây Ban Nha và được đưa đến Alba de Tormes để nghiên cứu, đã diễn ra từ ngày 28 đến 31 tháng 8.
Giáo phận cho biết, để đến được thi hài của Thánh Têrêsa, trước tiên người ta đã tháo tấm đá cẩm thạch của ngôi mộ. Sau đó — trong căn phòng được thiết lập để nghiên cứu và giờ chỉ có sự hiện diện của nhóm các nhà khoa học y khoa và các thành viên của tòa án tôn giáo — chiếc quan tài bằng bạc đã được mở ra.
Tòa án này bao gồm giám tỉnh dòng Cát Minh của Tỉnh dòng Iberia Thánh Têrêsa hài đồng Gisêsu ở Tây Ban Nha, Cha Francisco Sánchez Oreja; González; và bề trên của Dòng Nữ tử Bác ái Alba de Tormes, Sơ Remigia Blázquez Martín.
Chiếc quan tài bạc được mở ra với sự giúp đỡ của thợ kim hoàn Ignacio Manzano Martín và Constantino Martín Jaén, những người cũng có mặt vào ngày cuối cùng của công việc.
Giáo phận Ávila cũng tiết lộ rằng 10 chìa khóa đã được sử dụng để mở ngôi mộ: “Ba chìa khóa được lưu giữ tại Alba de Tormes, ba chìa khóa được Công tước Alba cho mượn và ba chìa khóa được cha bề trên một tu sĩ dòng Cát Minh Nhặt Phép lưu giữ tại Rôma, ngoài chìa khóa của nhà vua. Ba trong số những chìa khóa này dùng để mở lưới sắt bên ngoài, ba chìa khóa dùng để mở ngôi mộ bằng đá cẩm thạch và bốn chìa khóa còn lại dùng để mở quan tài bằng bạc.”
Chiesa chỉ ra rằng những hình ảnh được lưu giữ từ cuộc khám nghiệm năm 1914 đều là đen trắng, vì vậy “rất khó để so sánh”, mặc dù “những phần được phát hiện, bao gồm khuôn mặt và bàn chân, đều giống hệt như năm 1914”.
“Các bác sĩ chuyên khoa có thể nhìn thấy khuôn mặt của Têrêsa gần như rõ ràng.”
Ba giai đoạn của quá trình
Giai đoạn đầu tiên, lễ mở quan tài và công nhận, đã diễn ra cho đến ngày 31 tháng 8. Trong giai đoạn này, một nhóm do Tiến sĩ José Antonio Ruiz de Alegría từ Madrid dẫn đầu sẽ chụp ảnh, chụp X-quang cũng như vệ sinh cẩn thận các hộp đựng thánh tích.
Giai đoạn thứ hai sẽ diễn ra trong các phòng thí nghiệm ở Ý trong vài tháng, sau đó đưa ra các kết luận khoa học. Cuối cùng, trong giai đoạn thứ ba, một số biện pháp can thiệp sẽ được đề xuất để bảo quản hài cốt tốt hơn.
Trước khi đóng cửa, một thời gian thích hợp sẽ được dành ra để tôn kính thánh tích của Thánh Têrêsa.
Cuộc khai quật năm 1914
Lần mở mộ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu trước đó diễn ra từ ngày 16 đến 23 tháng 8 năm 1914. Vào thời điểm đó, Giáo phận Ávila tuyên bố rằng thi thể vẫn “hoàn toàn không bị phân hủy”, giống như lần mở mộ vào năm 1750.
Theo Cha Daniel de Pablo Maroto thuộc Dòng Cát Minh, ngôi mộ được mở vào năm 1914 vì bề trên tổng quyền của Dòng Cát Minh Nhặt Phép, Cha Clemente de los Santos, muốn tận dụng chuyến thăm Tây Ban Nha của mình để viếng thăm hài cốt của các vị thánh sáng lập: Thánh Gioan Thánh Giá ở Segovia và Thánh Têrêsa ở Alba de Tormes.
Nghiên cứu hiện đang được tiến hành với hài cốt của Thánh Têrêsa thành Ávila sẽ tương tự như nghiên cứu được thực hiện vào năm 1991 với hài cốt của Thánh Gioan Thánh Giá ở Segovia vào dịp kỷ niệm 400 năm ngày mất của ngài.
Thánh Têrêsa thành Avila là ai?
Trang web của Dòng Cát Minh Nhặt Phép giải thích rằng họ công nhận Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, còn được gọi là Thánh Têrêsa thành Ávila là mẹ và là người sáng lập của mình. Thánh nhân là người phụ nữ đầu tiên trở thành Tiến sĩ Hội Thánh, người muốn “duy trì tính liên tục của Dòng Cát Minh” với mong muốn “một phong cách sống tôn giáo mới sẽ được khai sinh”, luôn “trung thành với Giáo hội”.
Sinh ra tại Tây Ban Nha vào năm 1515, Thánh Têrêsa thành Ávila cũng là một nhà thần bí và nhà văn gốc Do Thái, được công nhận vì những đóng góp của thánh nữ cho nền tâm linh Công Giáo và nền văn học Tây Ban Nha.
Một câu nói nổi tiếng của thánh nhân là: “Đừng để điều gì làm bạn lo lắng, đừng để điều gì làm bạn sợ hãi. Mọi thứ đều trôi qua, Chúa không thay đổi. Sự kiên nhẫn đạt được mọi thứ. Bất cứ ai có Chúa đều không thiếu thốn điều gì. Chỉ một mình Chúa là đủ.”
2. Đức Thánh Cha Phanxicô đứng về phe Mạc Tư Khoa trong cuộc đụng độ giữa các Thượng phụ ở Ukraine
Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Ngài vừa có bài phân tích nhan đề “Pope Francis Sides with Moscow in Ukraine’s Clash of the Patriarchs”, nghĩa là “Đức Thánh Cha Phanxicô đứng về phe Mạc Tư Khoa trong cuộc đụng độ giữa các Thượng phụ ở Ukraine” đăng trên tờ National Catholic Register ngày 30 tháng Tám, 2024. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.
Một sự bất đồng quan điểm sâu sắc trong Giáo Hội Công Giáo đã không nhận được nhiều sự chú ý như mong đợi.
Hôm Chúa Nhật 25 Tháng Tám, trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật hàng tuần của mình, Đức Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên án một luật mới của Ukraine liên quan đến Giáo hội Chính thống giáo Nga và sự hiện diện của giáo hội này tại Ukraine. Các giáo hoàng thường không chỉ trích luật pháp quốc gia một cách cụ thể như vậy.
Hơn nữa, người Công Giáo cao cấp nhất ở Ukraine, Thượng phụ Sviatoslav Shevchuk của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine, gọi tắt là UGCC, đã ủng hộ mạnh mẽ luật này. Do đó, Đức Thánh Cha và Tổng giám mục Shevchuk, “là Cha và là Nhà lãnh đạo” của Giáo hội Nghi lễ Đông phương lớn nhất hiệp thông với Rôma, đã có lập trường đối lập hoàn toàn với nhau.
Hạn chế người Nga
Quốc hội Ukraine, hay thường được gọi là Verkhovna Rada, đã thông qua một đạo luật hạn chế nghiêm ngặt các hoạt động của Giáo hội Chính thống giáo Nga tại Ukraine. Cuộc bỏ phiếu, với đa số phiếu là 256 trên 29, đã diễn ra vào ngày 20 tháng 8. Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã ký luật vào ngày 24 tháng 8 và Đức Thánh Cha Phanxicô đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ vào ngày 25 tháng 8.
Luật số 8371, theo tên gọi của nó, cấm các hoạt động của Giáo hội Chính thống giáo Nga tại Ukraine và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo khác có liên kết với Mạc Tư Khoa.
Tiền đề của luật là Thượng phụ Kirill của Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa đã liên minh rõ ràng với cuộc xâm lược toàn diện của Vladimir Putin vào Nga. Do đó, Giáo hội Chính thống giáo Nga đã trở thành đồng lõa trong cuộc xâm lược và nên được coi là đồng phạm hơn là một tổ chức tôn giáo hợp pháp. Luật yêu cầu những người theo Chính thống giáo ở Ukraine phải tránh xa Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa hoặc có nguy cơ bị cấm hoạt động.
Luật số 8371 có cùng một logic đằng sau các lệnh trừng phạt chính thức đối với Kirill được thực hiện bởi, chẳng hạn, Vương quốc Anh và Canada. Họ coi Kirill không phải là một nhà lãnh đạo tôn giáo mà là một tác nhân của quyền lực nhà nước.
Có một số sự tương đồng về mặt lịch sử.
Năm 1979, Nhà thờ Hồi giáo lớn ở Mecca, địa điểm linh thiêng nhất của đạo Hồi, đã bị một nhóm al-Qaeda xâm lược. Quân xâm lược không được coi là người hành hương, mặc dù ở trong một địa điểm linh thiêng. Họ bị coi là những kẻ cực đoan chính trị.
Năm 1984, Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi đã ra lệnh tấn công quân sự vào Đền Vàng ở Amritsar, ngôi đền linh thiêng nhất của đạo Sikh. Trong khi người Sikh coi đây là hành vi báng bổ không thể chấp nhận được đối với một địa điểm linh thiêng và vi phạm quyền tự do tôn giáo, Gandhi lập luận rằng ngôi đền đã mất quyền miễn trừ tôn giáo khi trở thành kho vũ khí cho các lực lượng ly khai. Gandhi đã bị ám sát vài tháng sau đó bởi chính vệ sĩ Sikh của bà.
Sự chia rẽ trong Chính thống giáo
Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa tuyên bố rằng những người theo Chính thống giáo ở Ukraine nằm dưới quyền tài phán của mình — rằng Ukraine là một phần của lãnh thổ lịch sử theo giáo luật của Mạc Tư Khoa. Do đó, Giáo hội Chính thống giáo Ukraine, gọi tắt là UOC, đã phụ thuộc vào Tòa Thượng phụ Mạc Tư Khoa.
Sau cuộc xâm lược và sáp nhập Crimea của Nga năm 2014 — được Kirill của Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa ủng hộ — người Ukraine ngày càng phản đối các yêu sách tôn giáo của Mạc Tư Khoa. Làm sao Thượng phụ Kirill có thể yêu cầu sự trung thành của người Ukraine khi ông ủng hộ Điện Cẩm Linh khuất phục họ bằng bạo lực vũ trang?
Một Giáo hội Chính thống giáo “tự chủ” độc lập tại Ukraine, gọi tắt là OCU, đã được thành lập vào năm 2018. Đức Thượng phụ Đại kết Bácthôlômêô của Constantinople, nhà lãnh đạo Chính thống giáo toàn cầu, đã chính thức công nhận OCU là một Giáo Hội Chính Thống độc lập vào năm 2019. Điều đó khiến Mạc Tư Khoa vô cùng tức giận và Chính thống giáo Nga đã ra vạ tuyệt thông cho Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô.
Hậu quả là, trong khi Chính thống giáo là tôn giáo chiếm đa số ở Ukraine, cộng đồng Chính thống giáo lại bị chia rẽ. Phần lớn Chính thống giáo thuộc về OCU độc lập, trong khi một số ít vẫn thuộc UOC do Mạc Tư Khoa kiểm soát. Luật 8371 nhằm mục đích cắt đứt UOC khỏi sự kiểm soát của người Nga, nếu không, họ sẽ bị cấm hoàn toàn.
Hạn chế hay bảo vệ quyền tự do tôn giáo?
Những người Mỹ ủng hộ Vladimir Putin — Tucker Carlson nổi bật nhất trong số họ - cho rằng quy định của nhà nước về tôn giáo và các hoạt động tôn giáo rõ ràng là vi phạm quyền tự do tôn giáo để lập luận rằng chính phủ Zelenskiy đang đàn áp các Kitô hữu có liên hệ với Nga. Thượng nghị sĩ JD Vance cũng cáo buộc Ukraine vi phạm quyền tự do tôn giáo, một phần trong chiến dịch cắt đứt viện trợ của Hoa Kỳ cho Ukraine.
Quan điểm chung ở Ukraine là nói chung, tự do tôn giáo không hề bị hạn chế, nhưng các biện pháp đặc biệt cần phải được thực hiện đối với một tổ chức tôn giáo cụ thể đã bị Nga khống chế. Một biện pháp tương tự cũng đã được đưa ra khi các chính phủ Âu Châu giám sát việc rao giảng trong các đền thờ Hồi giáo để chống lại chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan trong nước.
Luật 8371 của Ukraine lần đầu tiên được đề xuất vào Tháng Giêng năm 2023. Vào tháng 11 năm 2023, một loạt các nhà lãnh đạo tôn giáo Ukraine đã đến Washington để lập luận rằng quyền tự do tôn giáo không bị hạn chế ở Ukraine. Luật 8371 đã được Hội đồng Các Giáo Hội và Tổ chức Tôn giáo Toàn Ukraine thông qua.
Do đó, điều dễ hiểu là việc hạn chế quyền thao túng của hàng giáo phẩm Nga được đa số người dân Ukraine coi là bảo vệ tôn giáo chứ không phải là hạn chế tự do tôn giáo. Đó là điều cần thiết để tránh thảm họa bị Nga khuất phục thông qua các tổ chức tôn giáo. Do đó, Luật 8371 được thúc đẩy ở Ukraine như một biện pháp bảo vệ quyền tự do tôn giáo.
Tại Mạc Tư Khoa, Đức Thượng phụ Kirill đã lên án mạnh mẽ luật này và vào hôm thứ Bảy 24 Tháng Tám, đã kêu gọi các nhà lãnh đạo tôn giáo trên toàn thế giới phản đối điều mà ông gọi là cuộc tấn công vào quyền tự do tôn giáo.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô về Tự Do Tôn Giáo
Hôm Chúa Nhật 25 Tháng Tám,, Đức Đức Thánh Cha Phanxicô đã đáp lại lời kêu gọi của Kirill và lên án mạnh mẽ luật mới là vi phạm quyền tự do tôn giáo:
“Khi nghĩ về những luật mới được thông qua tại Ukraine, tôi lo sợ cho sự tự do của những người cầu nguyện, bởi vì những người thực sự cầu nguyện luôn cầu nguyện cho tất cả mọi người. Một người không phạm tội vì cầu nguyện. Nếu ai đó phạm tội với dân tộc mình, anh ta sẽ phải chịu tội, nhưng anh ta không thể phạm tội vì anh ta cầu nguyện. Vì vậy, hãy để những người muốn cầu nguyện được phép cầu nguyện trong nơi mà họ coi là nhà thờ của họ. Xin hãy để không có nhà thờ Kitô nào bị bãi bỏ trực tiếp hoặc gián tiếp. Không được đụng đến nhà thờ!”
Hiếm khi một vị Giáo hoàng lại nói trực tiếp đến vậy về một vấn đề chính trị ở một quốc gia cụ thể.
Bản thân Đức Đức Thánh Cha Phanxicô hiếm khi nói thẳng thắn như vậy về quyền tự do tôn giáo. Ví dụ, các bình luận của Đức Giáo Hoàng về các cuộc tấn công toàn diện vào Giáo Hội Công Giáo ở Nicaragua — trục xuất các nữ tu của Mẹ Têrêsa, trục xuất sứ thần của Giáo hoàng, giam giữ giáo sĩ, tịch thu các tổ chức và tài sản Công Giáo, bao gồm cả trường đại học Dòng Tên — phần lớn đã bị im lặng, kêu gọi đối thoại và không chỉ trích trực tiếp.
Hiệp ước ngoại giao bí mật của Đức Thánh Cha với Trung Quốc có nghĩa là trong nhiều năm, ngài đã từ chối ngay cả việc đề cập đến hơn một triệu người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ đang ở trong các trại tập trung cộng sản. Ngay cả khi đó, những bình luận của ngài cũng chỉ là thoáng qua.
Đức Thánh Cha Phanxicô chưa bao giờ bảo vệ quyền tự do tôn giáo cho người Công Giáo ở Nicaragua hay Venezuela, hay cho người Hồi giáo ở Trung Quốc, như ngài đã từng làm khi phát biểu để bảo vệ Chính thống giáo Nga ở Ukraine.
Những can thiệp tương đương duy nhất của Đức Thánh Cha vào chính trị thực tiễn đều liên quan đến môi trường và di cư. Ngài thường nói chung chung về kinh tế, phá thai và ý thức hệ giới, nhưng không đề cập đến luật pháp trong một quốc gia cụ thể.
Chính thống giáo phản ứng — Nga và Constantinople
Mặc dù đã được cảnh báo không nên trở thành “cậu giúp lễ của Putin” theo cách diễn đạt chua cay của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Đức Thượng phụ Kirill vẫn kêu gọi Đức Thánh Cha và các nhà lãnh đạo Kitô giáo khác tham gia cuộc phản kháng của mình.
Trong thông điệp được công bố vào thứ Bảy, cùng ngày Zelenskiy ký luật mới, Kirill nói:
“Vào ngày 20 tháng 8 năm 2024, Quốc hội Ukraine đã thông qua luật Bảo vệ trật tự hiến pháp trong lĩnh vực hoạt động của các tổ chức tôn giáo, mục đích thực sự của luật này là lệnh cấm lập pháp đối với Giáo hội Chính thống giáo Ukraine, gọi tắt là UOC. Những mâu thuẫn trắng trợn giữa các điều khoản của luật này và các chuẩn mực của Hiến pháp Ukraine, các thỏa thuận quốc tế, quyền con người và các nguyên tắc cơ bản của luật đã được ghi nhận nhiều lần trong các văn bản của các tổ chức nhân quyền quốc tế lớn.”
Ngày hôm sau, Đức Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra lời lên án.
Ngược lại, Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô, vị thượng phụ đại kết, đứng về phía Chính thống giáo không liên kết với Mạc Tư Khoa của Ukraine và những người Công Giáo địa phương. Chỉ ba ngày sau cuộc bỏ phiếu tại Verkhovna Rada, một phái đoàn chính thức đại diện cho Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô đã có chuyến thăm chính thức và thân mật đến Tổng giám mục Shevchuk và Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương. Không có cuộc phản đối nào chống lại luật này được ghi nhận; ngược lại, Bácthôlômêô đã bày tỏ sự đoàn kết của mình với quan điểm Công Giáo địa phương.
Hơn nữa, một ngày sau cuộc bỏ phiếu, Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Zelenskiy, trong đó tổng thống Ukraine đã bảo vệ Luật 8371 và đề cập đến sự ủng hộ rộng rãi của các nhà lãnh đạo tôn giáo Ukraine.
Một tình huống thực sự phi thường đã xảy ra. Lãnh đạo của “Rôma thứ ba”, Kirill của Mạc Tư Khoa, đã kêu gọi sự ủng hộ chống lại sự đồng thuận của các nhà lãnh đạo Kitô giáo Ukraine.
“Rôma thứ hai”, Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô của Constantinople, đã không ủng hộ điều đó và đã gửi những tín hiệu mạnh mẽ rằng ngài đứng về phía đối lập với Kirill.
Trong khi đó, Đức Thánh Cha Phanxicô thành Rôma đứng về phía Kirill chống lại Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô và những người Công Giáo địa phương ở Ukraine.
Người Công Giáo Ukraine: Roma chống lại Kyiv
Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk của Kyiv đã phản biện mạnh mẽ cho Luật 8371, cáo buộc Giáo hội Chính thống giáo Nga và UOC là những tác nhân trong cuộc chiến của Putin, trên thực tế là đối phương của nhà nước Ukraine. Ngài bác bỏ tuyên bố của họ về quyền tự do tôn giáo là không chân thành.
Và thế là một tình huống phi thường khác đã xảy ra.
Đức Thánh Cha, nhà lãnh đạo Giáo hội La tinh, và Đức Thượng phụ Shevchuk, nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, đang công khai và hoàn toàn xung đột về một vấn đề có tầm quan trọng lớn. Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có lập trường chống lại sự đồng thuận của đa số Kitô giáo và Công Giáo ở Ukraine.
Có khả năng là người Công Giáo Ukraine không còn có thể ngạc nhiên trước sự thiếu hỗ trợ từ Rôma. Điểm then chốt đã đến vào tháng 3 năm ngoái, khi Đức Đức Thánh Cha Phanxicô khuyên người Ukraine hãy có “lòng can đảm của lá cờ trắng” và tìm cách đàm phán với Putin để chấm dứt chiến tranh bằng cách nhượng lại lãnh thổ của họ.
Kể từ cuộc gặp năm 2016 giữa Đức Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Thượng phụ Kirill tại Cuba, Tổng giám mục Shevchuk đã thừa nhận rằng nhiều người Công Giáo Ukraine cảm thấy rằng Đức Thánh Cha đã phản bội họ khi muốn xoa dịu Đức Thượng phụ Kirill — và cả Putin.
Tranh chấp về Luật 8371 sẽ gây tổn hại đến mối quan hệ Rôma-Kyiv, nhưng chúng đã ở trong tình trạng tồi tệ. Sự can thiệp của Đức Thánh Cha đã tạo ra một động lực mới và đáng ngạc nhiên: Đức Giáo Hoàng Phanxicô và Đức Thượng phụ Kirill ở một bên, giữ lập trường của các nhà bình luận và chính trị gia như Carlson và Vance, trong khi Đức Thượng Phụ Đại Kết Bácthôlômêô của Constantinople đứng về phía những người Công Giáo đang bị bao vây của Ukraine. Hậu quả sẽ còn kéo dài.