Ngày 05-07-2024
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:05 05/07/2024

12. Cầu nguyện có thể làm thanh sạch linh hồn của con người, kiên vững đức tin, chiếu soi sự hiểu biết, thích thú tình yêu, thanh tâm quả dục, đuổi trừ lo buồn, tinh thần ngời sáng, thắng được cám dỗ, nhiệt tâm gấp bội, mở cửa Nước Trời.

(Thánh Peter Armengol)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


------------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:09 05/07/2024
100. CẤM MẸ NIỆM PHẬT

Mẹ của Địch Vĩnh Linh rất thành kính với Phật, ngày ngày tụng kinh niệm phật, âm thanh không dứt.

Con trai là Địch Vĩnh Linh giả bộ kêu lên “mẹ”, bà ta bèn nói theo.

Vĩnh Linh không ngừng hô hoán, bà ta bực tức nói:

- “Không có chuyện gì, tại sao nó kêu ta nhỉ?”

Con trai nói:

- “Con kêu mẹ ba bốn tiếng thì mẹ không vui, cái ông phật lớn Thích Ca Mâu Ni ấy mỗi ngày đều để mẹ kêu cả vạn tiếng, không biết ông ta bực tức đến độ nào chứ?”

Bà mẹ nghe rồi thì có chút giác ngộ.

(Nhã Ngược)

Suy tư 100:

Tụng kinh cả ngày nhưng chưa chắc là được vào cõi niết bàn, bởi vì họ chỉ biết mở miệng mà không biết mở tai để nghe những lời cầu xin của người bất hạnh; đọc kinh lần chuỗi Mân Côi cả ngày nhưng chưa chắc đã đến được cửa thiên đàng, bởi vì họ chỉ biết mở miệng cầu xin cho mình, mà không biết mở tâm hồn để động lòng trắc ẩn trước những người đau khổ...

Chỉ đọc kinh cầu nguyện bằng môi miệng mà không bằng tâm hồn thì chỉ làm cho Chúa không vui mà thôi, nhưng đọc cả tâm hồn mến yêu thì chắc chắn là Chúa vui hơn nhiều.

Có những người Ki-tô hữu chỉ đọc kinh bằng giác quan, như: đọc kinh ra rả, làm việc bác ái khi có người vỗ tay khen, chỉ móc hầu bao ra khi tên mình được đọc to giữa nhà thờ để mọi người nghe biết, chứ không thờ lạy Thiên Chúa trong tâm hồn, cho nên họ bực mình và khó chịu khi có người nghèo đến xin họ bố thí giúp đỡ...

Đức Chúa Giê-su đã cảnh cáo hạng người ấy đừng thờ Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, đừng nghĩ rằng cứ đọc kinh cho thật nhiều thì sẽ được vào thiên đàng, nhưng chỉ những ai biết thực hành lời của Ngài mới được vào thiên quốc mà thôi, mà Lời Chúa không phải là kính mến Thiên Chúa và yêu thương người thân cận như chính mình sao !

Vĩnh Linh mới kêu mẹ ba bốn tiếng mà mẹ đã giận không bằng lòng, cũng vậy nếu chúng ta cứ kêu Chúa mà không yêu mến thực hành Lời Chúa, thì Chúa cũng sẽ buồn lắm vậy !

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


-----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Chúa về quê lại bị khinh chê
Lm. Nguyễn Xuân Trường
04:54 05/07/2024
CHÚA VỀ QUÊ LẠI BỊ KHINH CHÊ

Mỗi dịp quý vị về quê thấy thế nào: vui hay buồn? Phúc Âm tuần này kể chuyện Chúa Giêsu về quê không được vui lắm vì bị người nhà khinh chê, bị người quê rẻ rúng. Tại sao lại ra nông nỗi này?

1. Nhìn nhau. Trong đời nhiều khi người ta nhìn nhau bằng cái nhìn dán nhãn, nên không nhìn toàn diện chân thực, mà thường nhìn thiên kiến tiêu cực về người khác. Chúa về quê, dân làng cũng đã nhìn Chúa bằng một cái nhìn dán nhãn. Họ không nhìn ra Đức Giêsu là con Thiên Chúa tối cao, mà họ lại mặc định trong đầu mình suy nghĩ về Đức Giêsu chỉ là con nhà: bố làm thợ mộc, mẹ quanh quẩn xó nhà, anh em là mấy thằng cùng xóm chơi với nhau thôi, chứ có gì ghê gớm đâu.

2. Chê nhau. Nhìn nhau thế nào sẽ dẫn lối thái độ đối xử với nhau như thế. Khi đã dán nhãn cho Chúa là con nhà lao động chân tay ngay trong xóm mình, thì họ đã coi thường, chê bai Chúa đến độ chính Chúa phải thốt lên: Ngôn sứ bị rẻ rúng ở chính quê hương mình, ngay giữa đám bà con thân thuộc trong gia đình mình. Cần để ý điều này: người ta ít khi coi thường người lạ, mà lại hay coi thường người nhà! Đúng là, quen quá hoá nhàm. Đời là thế.

3. Mất nhau. Từ thái độ coi thường nhau, chê nhau sẽ dẫn đến mất nhau. Trong gia đình, vợ chồng mất nhau vì coi thường nhau. Dân làng đã đánh mất cơ hội được chứng kiến, được lãnh nhận những phép lạ Chúa làm. Dân làng đã đánh mất cả hồng phúc có Chúa trong làng mình vì Chúa đã phải rời đi sang các làng khác. Thế giới hôm nay cũng đang đánh mất Chúa khi người ta coi thường những lời dạy của Chúa.

Khi nhìn cây hoa thì chúng ta nhìn ngắm hoa chứ không ai lại đi nhìn ngắm gai. Thế thì, xin cho mỗi chúng ta khi nhìn nhau biết nhìn ngắm những nét đẹp đẽ, quý giá của nhau, và nhất là, biết nhìn ngắm Chúa và ơn phúc Chúa ban trong cuộc đời. Amen.
 
Đường đến tự do
Lm. Minh Anh
15:30 05/07/2024
ĐƯỜNG ĐẾN TỰ DO
“Khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay!”.

Một nhà ẩn tu nói, “Bạn muốn tự do? Muốn thực sự khám phá nó? Chắc chắn là bạn muốn! Nhưng điều đó có ý nghĩa gì; và làm thế nào để có được nó? Hãy kiêng khem những gì ‘là tốt’, để khát khao những gì ‘là thánh!’. Hãy sống một đời sống chay tịnh!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Để tự do, hãy sống một đời sống chay tịnh!”. Thoạt tiên, liên kết này có vẻ lạ thường; nhưng quả vậy, chay tịnh là phương tiện giúp đào sâu đức tin và là ‘đường đến tự do’ đích thực! Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đồng tình với nhà ẩn tu.

Chay tịnh có một vị trí nhất định trong đời sống thiêng liêng; bởi lẽ, nó tạo ra một cơn đói triền miên, đói Thiên Chúa! Mục đích của chay tịnh là “kiêng khem những gì ‘là tốt’, để khát khao những gì ‘là thánh’”, nâng cao một điều tốt tự nhiên, giúp tâm hồn thanh thoát, để nhạy bén hơn với những gì siêu nhiên, những gì thuộc về Thánh Thần. Chay tịnh là sự im lặng của xác thịt giúp cho sự khao khát thiêng liêng trở nên mãnh liệt hơn. Vì thế, khi tự do từ chối bản thân, bạn sẵn sàng mở lòng mình ra như một bầu rượu vốn sẽ không rạn nứt khi Thiên Chúa đổ vào đó rượu mới Thánh Thần của Ngài.

Tự do đích thực là tự do thoát khỏi những ràng buộc của ích kỷ hay khuynh hướng xấu để sống trong niềm vui với Thiên Chúa, niềm vui sống gần Thiên Chúa, như được ‘Chàng Rể’ luôn ở kề bên. Đó là niềm vui thiên đàng, niềm vui đời đời. Như thế, chay tịnh, ‘đường đến tự do’ giục giã bạn “kiêng khem những gì ‘là tốt’, để khát khao những gì ‘là thánh’”, vượt qua những ham muốn xác thịt để phó mình cho Thánh Thần.

Trong cuộc sống, có những lúc “Chàng Rể bị đem đi”. Đó là lúc chúng ta cảm nhận sự vắng bóng Chúa Kitô. Điều này có thể xảy đến do tội lỗi; cũng có thể đến khi chúng ta ngày càng đến gần Chúa hơn. Bấy giờ, chay tịnh có một vai trò quan trọng! Tại sao? Trước hết, chay tịnh giúp giải phóng những ràng buộc tội lỗi, củng cố ý chí, thanh lọc những lăng loàn. Trường hợp thứ hai, khi chúng ta đang tiến rất gần Chúa Kitô - Đấng che giấu sự hiện diện của chính Ngài - để chúng ta biết tìm Ngài nhiều hơn. Trong trường hợp này, chay tịnh trở thành phương tiện giúp đào sâu đức tin và sự cam kết.

Anh Chị em,

“Khi tới ngày chàng rể bị đem đi khỏi họ, bấy giờ họ mới ăn chay!”. Việc chay tịnh các môn đệ đã sống, Giáo Hội và chúng ta đang sống là phương tiện hiệp nhất chúng ta với Chúa Kitô đau khổ. Như vậy, việc từ bỏ bản thân để làm theo ý Thiên Chúa chính là tham dự vào Sự Cứu Chuộc của Ngài; đó là ‘đường đến tự do’ đích thực của Phục Sinh vinh hiển! Thiên Chúa phán, “Núi đồi sẽ ứa ra nước cốt nho, và mọi gò nổng sẽ tuôn chảy” - bài đọc một. Chúa là Đấng sẽ trả lại gấp bội cho ai biết mở lòng trở về với Ngài. Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Điều Chúa phán là lời chúc bình an cho dân Ngài!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, con muốn tự do, cho con dám kiêng khem những gì ‘là tốt’, để khát khao những gì ‘là thánh’, chính Chúa!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 14 TN)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:10 05/07/2024
CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN

Tin mừng: Mc 6, 1-6

“Ngôn sứ có bị rẻ rúng, thì cũng chỉ là ở quê hương mình.”


Anh chị em thân mến,

Chỉ có những người đã cảm nghiệm qua được những đau khổ mới chia sẻ được với những đau khổ của tha nhân; chỉ có những ai đã bị khinh chê, bị hất hủi, bị rẻ rúng mới hiểu được thế nào là sự tủi nhục của anh chị em mình.

Đức Chúa Giê-su đã kinh qua điều ấy khi Ngài bị những người trong làng trong họ rẻ rúng coi khinh, vì lý lịch của Ngài đối với họ không ra gì cả: con của bác thợ mộc Giu-se và bà Ma-ri-a nghèo nàn. Vì những thành kiến này, mà Đức Chúa Giê-su đã không làm một phép lạ nào cho họ, bởi vì dù có làm chăng nữa thì họ cũng không tin Ngài là Đấng Mê-si-a.

Thành kiến là mối mọt gặm nhấm tình yêu mà Đức Chúa Giê-su đã phát hiện ra khi trở về quê hương, sau những ngày bôn ba rao giảng Tin Mừng Nước Trời, đáng lẽ, những người ở quê hương phải vui mừng mới phải, vì từ nơi quê hương của mình đã phát sinh ra một người con làm rạng rỡ cho quê hương làng xóm, nhưng họ đã làm ngược lại: họ đã khinh rẻ Đức Chúa Giê-su vì Ngài xuất thân từ con nhà nghèo, con của bác thợ mộc.

Thành kiến là mối mọt gặm nhấm tình yêu giữa người với người, giữa những thành viên trong cộng đoàn với nhau, nó như những con mọt âm thầm phá nát mối giây liên hệ tình người trong cuộc sống, nó không chấp nhận một sự thực tồn tại, đó là cuộc sống của người anh chị em hôm qua và hôm nay không giống nhau; họ chì nhìn thấy cái quá khứ nghèo nàn của Đức Chúa Giê-su, họ chỉ nhìn thấy cái kém cỏi của tha nhân hôm qua mà không thấy cái hay cái tốt của họ hôm nay, cho nên đối với họ, dù cho anh chị em có tài giỏi đến đâu chăng nữa, thì anh chị em ấy cũng vẫn là con bác thợ mộc nghèo nàn, cũng là nói: anh vẫn cứ là một đứa có lý lịch không ra gì.

Thành kiến là chống lại ân sủng của Thiên Chúa nơi người anh em chị em của chúng ta, bởi vì ân sủng của Chúa như giòng nước tuôn chảy trong tâm hồn của con người. Nước chảy thì luôn làm cho nơi mà nó chảy qua được sạch sẽ đổi mới và trong lành, cũng vậy khi chúng ta cứ mãi mãi nhìn thấy cái khuyết điểm hôm qua của tha nhân để rồi phê bình, khinh bỉ, thì chúng ta chống đối và phủ nhận ân sủng của Chúa nơi người anh em chị em của chúng ta.

Anh chị em thân mến,

Ở trên đời có rất nhiều sự việc xảy ra mà chúng ta không ngờ tới, không dám nghĩ tới, nhưng nó vẫn cứ xảy ra, huống hồ người anh chị em của chúng ta, hôm qua họ là người thô lổ cộc cằn, nhưng hôm nay họ trở nên hiền lành dễ thương; hôm qua họ buôn gian bán lận, nhưng hôm nay họ trở thành kẻ lương thiện; hôm qua họ là tên không ra gì, nhưng hôm nay họ trở thành một linh mục, một tu sĩ, một nữ tu...

Tất cả đều là hồng ân của Thiên Chúa, không có ân sủng của Ngài thì không ai có thể làm cho mình trở nên tốt hơn, nhưng họ đã cậy nhờ ơn Chúa để thánh hoá mình và vươn lên, vậy chúng ta lấy quyền gì để khinh rẻ anh chị em của mình?

Nếu Đức Chúa Giê-su cứ nhìn cái ngày hôm qua của chúng ta, nghĩa là Ngài cứ nhìn mỗi tội lỗi của chúng ta, thì thử hỏi, chúng ta sẽ như thế nào, chúng ta được cứu độ chăng?

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

----------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Thánh Maria Goretti
Đinh văn Tiến Hùng
05:06 05/07/2024
Thánh MARIA GORETTI
Bông Huệ Nhỏ nhuốm máu
Lễ kính 6/7/24

*Bông Huệ nhỏ tuyết trinh nơi đồng nội,
Vượt lên cao tràn ngập nắng hồng ân,
Gió mưa lay, không vương mắc bụi trần,
Đẹp lòng Chúa, đem về vườn Thiên quốc.

“Xin kính chào Vị Nữ Thánh khả ái !
Hỡi Vị Tử Đạo dưới đất và Thiên Thần trên trời !

Từ nơi vinh quang, xin ghé mắt nhìn xuống đoàn con đây, đang yêu mến, tung hô và chúc tụng Ngài. Trên vầng trán Ngài ghi rõ danh tánh chói sáng hiển vinh của Chúa Kitô chiến thắng. Trên khuôn mặt tinh khiết Ngài tỏa sáng sức mạnh tình yêu và lòng kiên trung với Đức Lang Quân Chí Thánh. Ngài là Vị Hiền Thê dùng chính máu đào mình họa lại hình ảnh Chúa Kitô.

Hỡi vị Nữ Thánh quyền uy cạnh ngai tòa Chiên Thiên Chúa, xin phó dâng lên Ngài những người đang có mặt nơi đây, cũng như những người đang kết hợp cách thiêng liêng với chúng tôi. Tất cả đều ngưỡng phục lòng anh hùng của Ngài, nhất là muốn bắt chước Ngài trong nhiệt tâm giữ vững đức tin và bảo toàn phong hóa cao quí.

Từ nay các bậc làm cha mẹ chạy đến kêu cầu, xin Ngài trợ giúp trong nhiệm vụ giáo dục con cái.

Xin đặt vào vòng tay Ngài một trẻ thơ, cùng thanh thiếu nữ, hầu Ngài bảo vệ chúng thoát khỏi mọi hiểm độc và an vui bước trên đường đời trong niềm hoan lạc của những con tim trong trắng.

Ước gì được như vậy.”

Đó là lời Đức Thánh Cha Piô 12 vào chiều thứ bảy 24/6/1950 trong khung cảnh Năm Thánh, khi tuyên phong Hiển Thánh cho thiếu nữ đồng quê 12 tuổi MARIA GORETTI, trước sự hân hoan nồng nhiệt của 500 ngàn khách hành hương từ khắp nơi đổ về, cùng sự hiện diện của thân mẫu và gia đình cô.

Maria Goretti sinh 16/10/1890 taị vùng đồi thơ mộng gần thành phố Corinaldo, nước Ý. Nhưng vì sinh kế cả gia đình phải chuyển đến vùng thôn quê sình lầy Ferriere di Conca. Là chị cả trong một gia đình 6 anh chị em, cô luôn noi gương cha mẹ là người đạo hạnh và cần mẫn.

Sống trong cảnh nghèo túng, Goretti không được đi học, nhưng có lòng sùng kính đặc biệt Thánh Tâm Chúa và Mẹ Maria Đồng Trinh. Mồ côi cha từ năm lên 10, nhưng mỗi lần đi ngang mộ cha đều dừng lại cầu nguyện cho cha.

Gia đình sau khi cha mất trở nên túng quẫn hơn, cô luôn nâng đỡ tinh thần cho mẹ, xốc vác mọi việc trong nhà, đóng vai người mẹ thứ hai đối với các em, luôn săn sóc, dạy bảo và thúc giục các em cầu nguyện. Mỗi lần đi dự lễ, cô phải đi bộ 2 giờ đồng hồ, luôn là người đến sớm nhất và về sau cùng. Cô rẩt cẩn thận trong cách ăn mặc, nói năng hòa nhã khiêm tốn, tránh truyện trò thô tục…nổi bật nhất là nhân đức khiết tịnh như bông huệ tuyết trinh.

Từ ngày ba ngã bệnh rồi mất, để có người giúp đỡ công việc đồng áng và chia sẻ hoa lợi, gia đình cô phải đón nhận một gia đình khác gồm 2 bố con đến ở chung. Người con trai 19 tuổi tên Alessandro, đầu óc tràn đầy ý tưởng xấu, nên luôn nhìn Goretti với con mắt dục vọng. Cô luôn ở nhà săn sóc các em khi mẹ làm việc ngoài đồng.

Nên một hôm, Alessandro đến cám dỗ cô phạm tội, nhưng cô rất sợ hãi và từ chối rồi tìm cách tránh xa chàng. Rồi 10 ngày sau, chàng ta lại dở trò cũ, cô khiếp sợ và nói : ‘Nếu anh làm điều đó, anh sẽ phải xuống hỏa ngục !’ Chàng ta túm lấy cô, nhưng cô dùng hết sức để vượt thoát và chàng đe dọa giết nếu tiết lộ với người khác.

Trưa ngày 5/7/1902, dưới nắng hè chói chang mọi người đang thu hoặch mùa đậu. Chàng ngưng việc đi thẳng về nhà, thấy Goretti ngồi dưới chân cầu thang vá áo và trông chừng em ngủ. Chàng ta mặt hầm hầm bước lên cầu thang vào phòng lấy một thanh sắt đã mài nhọn, quay xuống gọi : ‘Goretti vào đây nhờ một tí !.’ Cô vẫn ngồi không nhúc nhích và không trả lời.

Anh ta nhào tới nắm tay cô kéo vào trong nhà. Cô la lên : ‘Nếu làm điều đó anh sẽ phải xuống hỏa ngục. Buông tôi ra ! ‘

Điên lên vì bị từ chối, anh ta một tay nắm chặt tay cô, một tay cầm dao đâm túi bụi vào thân hình liễu yếu của cô bé. Cô gào to kêu cứu, nhưng không ai bên ngoài nghe thấy. Máu chảy thành dòng, tràn trên sàn nhà và cô gục ngã. Nhưng cô còn tỉnh, cố lết tấm thân nát nhừ ra gần cửa kêu cứu. Nghe tiếng kêu, anh ta vội chạy lại, túm cổ cô đâm thêm nhiều nhát chí tử. cô bé bất hạnh phều phào kêu :
-‘Lạy Chúa tôi ! Lạy Chúa tôi ! Má ơi con chết mất !’ Rồi thiếp đi bất tỉnh…

Trong những giờ phút đau thương hấp hối, Goretti âm thầm cầu nguyện cùng Thánh Tâm Chúa và Mẹ Maria. Cô sẵn sàng chờ đón giờ chết và tha thứ cho kẻ giết mình. Khi Linh mục mang Mình Thánh Chúa đến, cô hớn hở đón nhận của ăn đàng trước khi về Thiên Quốc. Ôm ghì Thánh Giá và ảnh Đức Mẹ hôn kính rồi thiếp dần. Những giây phút cuối đời, Goretti hơi thở bị tắt nghẽn vị bị ám ảnh những giây phút kinh hoàng phải đối phó với hành động xấu xa của Alessandro. Cử chỉ vô cùng mệt nhọc chống cự với một người vô hình. Sau cùng bằng sức tàn mong manh, cô vùng dậy như muốn trốn thoát, rồi trong giây lát lại buông mình nằm xuống bất động. Linh hồn trinh trong và xinh đẹp của Goretti từ từ ra khỏi xác bay về Thiên Quốc. Lúc đó là chiều Chúa nhật ngày 6/7/1902, một ngày sau khi cô bị đâm 14 nhát dao.

Sau khi qua đời, Maria Goretti đã làm nhiều phép lạ. Nhưng phép lạ to lớn nhất là hoán cải được Alessandro, cô đã hiện về trong tù trao tặng chàng những bông huệ trắng tinh. Từ ngày đó chàng sống khiêm nhường thống hối tội lỗi mình. Chàng được phóng thích sau 30 năm tù và suốt đời sống độc thân.

Về sau chàng xin vào tu viện Dòng Phan Sinh Hèn Mọn Capuchin, miền bắc Ý, trở thành phần tử Dòng Ba, ngày ngày cần mẫn làm những việc hèn mọn cùng chay tịnh để đền tội đến trọn đời, hưởng thọ 89 tuổi.

Ngày 28/4/1947, ĐTC Piô 12 phong Chân Phước cho Maria Goretti.

Ngày 24/6/1950, Ngài lại nâng lên bậc Hiển Thánh.

Rồi đặt Thánh Nữ làm Quan Thày và gương mẫu cho giới trẻ.

Hiện diện trong Lễ Phong Thánh, thân mẫu Thánh đã ngoài 80 tuổi và các em.
Trong đám đông những người tham dự có Alessandro Sereneli khi ấy đã 66 tuổi, đang qùi gối với hai dòng nước mắt lăn trên má lòng thống hối và tràn đầy ơn phúc.

Maria Goretti trở thành vị Thánh tử Đạo vì bảo vệ đức Trinh Khiết khi mới 12 tuổi.

Hàng năm Giáo Hội mừng kính thánh Nữ vào ngày 6 tháng 7.

Lời kinh Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô 2 dâng kính Thánh Nữ :

“Hỡi Cô Bé của Thiên Chúa !
Cô đã sớm biết thế nào là khổ cực, nhọc mệt, đau thương, cùng những niềm vui ngắn ngủi của cuộc sống. Cô cũng biết thế nào là nghèo đói, mồ côi và đã không ngừng yêu mến tha nhân, tự làm người hầu hạ khiêm tốn, ân cần. Cô sống tốt lành không khoe khoang và yêu mến Tình Yêu Chúa trên mọi sự, đã đổ máu đào để khỏi phản bội Chúa và tha thứ cho người đã giết mình, cầu mong hạnh phúc Thiên đàng cho anh ta.
Xin hãy bầu cử cho chúng tôi bên tòa Thiên Chúa Cha, cùng biết thưa vâng theo chương trình Thiên Chúa định liệu trên chúng tôi.
Hỡi Đấng là bạn hữu Thiên Chúa đang chiêm ngắm Chúa.
Xin cầu cùng Chúa ban cho chúng tôi những ơn xin cùng Ngài.
Chúng tôi cảm tạ Ngài, hỡi Maria Goretti vì tình yêu Ngài dành cho Thiên Chúa và cho anh chị em đồng loại, mà Ngài đã gieo vãi trong lòng chúng tôi- Amen.”

*Ghi chú : Tham khảo theo tài liệu của Raymond Thư, CMC
 
Văn Hóa
Truyền thống Trí thức Công Giáo trong Thế kỷ Hai mươi, Phần Hai, Tín ngưỡng và Văn hóa: Chương 10, Ghi chú
Vũ Văn An
14:30 05/07/2024

Chương 10: Hai nước Pháp, tiếp theo

Ghi chú

1 Charles Baudelaire, ““To the Reader” [Gửi người đọc]”, trong Baudelaire In English, Carol Clark và Robert Sykes biên tập (London và New York: Penguin, 1997), 4-5.

2 Về điểm này và các điểm trước đó, xem Jean-Luc Barré, Jacques and Raïssa Maritain: Beggars for Heaven [Jacques và Raïssa Maritain: Những Kẻ Ăn mày Thiên Đàng], Bernard E. Doering dịch (Notre Dame, Ind.: Nhà xuất bản Đại học Notre Dame, 2005), đặc biệt là 62-76.

3 Conor Cruise O'Brien, viết dưới bút danh Donat O'Donnell, đưa ra một tường thuật thú vị về Bloy trong cuốn Maria Cross: Imaginative Patterns in a Group of Modern Catholic Writers [Thập giá Maria: Các Khuôn mẫu Tưởng tượng trong một Nhóm các Văn sĩ Công Giáo hiện đại] của ông: (London: Chatto & Windus, 1954), 201-22. Trong phần chú thích cuối trang, ông trích dẫn tuyên bố ban đầu, bằng tiếng Latinh (Bloy biết tốt hơn là không nên viết nó bằng tiếng Pháp), từ Le Mendiant ingrat [Kẻ Ăn mày Vô ơn] khiến Bloy bị chỉ trích nhiều: Membrum virile Symbolice Crucis effigies ab antiquitate videtur. Christus moriens in patibulo emisit Spiritum. Vir coïtans et hoc modo cruciatus in muliere anhelans emittit semen [Bộ phận nam giới từ thời cổ đại được coi một cách tượng trưng như hình Thập giá. Chúa Kitô sinh thì trên thập giá trút Thần Khí. Nam giới khi giao hợp và bị hành hạ cách này trước người đàn bà thở hổn hển trút tinh trùng]. Chỉ là một ví dụ khác về mối quan hệ khá lỏng lẻo của Bloy với thực tại lịch sử và khả năng cho phép các biểu tượng vượt xa lý trí.

4 Xem Jacques Maritain, “Quelques pages sur Léon Bloy [một vài trang về Léon Bloy]”, trong Jacques et Raïssa Maritain, Oeuvres complètes, tập. 3 (Paris: Éd. Saint-Paul, 1985), 997. Toàn bộ tiểu luận rất đáng đọc vì bức chân dung bản thân về một người đàn ông khó tính bởi một người có khả năng quan sát và phân tích không nhỏ.

5 Charles Péguy, Temporal and Eternal [Tạm thời và vĩnh cửu}, Alexander Dru dịch với lời tựa của Pierre Manent (Indianapolis: Liberty Fund, 2001), 56. Tập này chứa phần lớn hai tiểu luận quan trọng nhất của Péguy: Notre jeunesse [tuổi trẻ chúng ta]Clio I. Đoạn trích dẫn ở đây là từ Notre jeunesse.

6 Xem Alain Finkielkraut, Le mécontemporain: Péguy, lecteur du monde Moderne [người không thuộc thời đại: Péguy, người đọc được thế giới hiện đại] (Paris: Gallimard, 1991).

7 Marcel trong cuốn Creative Fidelity [sự trung thực sáng tạo]; von Balthasar trong cuốn Glory of the Lord: A Theological Aesthetics [Vinh quang của Chúa: Thần mỹ học]; và Hill trong “The Mystery of the Charity of Charles Péguy” [Mầu nhiệm Bác ái của Charles Péguy].

8 Trích trong Marjorie Villiers, Charles Péguy: A Study in Integrity [một nghiên cứu Tòan diện] (Westport, Conn.: Greenwood Press, 1975), 236. Villiers vẫn là cuốn tiểu sử hay nhất về Péguy bằng tiếng Anh. Bằng tiếng Pháp, Robert Burac, Charles Péguy: La révolution et la grâce[cách mạng và ơn thánh] (Paris: R. Laffont, 1994).

9 Trích dẫn bởi Julien Green trong Péguy, Basic Verities [các chân lý căn bản], Julien và Anne Green dịch (New York: Pantheon Books, 1950), 9.

10 Trích trong Villiers, Charles Péguy, 211.

11 Charles Péguy, Oeuvres complètes, tập. 2 (Paris: Nouvelle revue française, 1920), 164.

12 Từ Cahiers de la quinzaine [bán nguyệt san] năm 1913 có tựa đề L'argent [tiền bạc]. Bản dịch từ Basic Verities, 77-79, có sửa đổi bởi người viết sách này.

13 Charles Péguy, Les suppliants parallèles [những kẻ cầu xin song hành], trong Oeuvres en prose [các tác phẩm văn xuôi], 1898—1908, Bibliothèque de la Pléiade 140 (Paris: Gallimard, 1959), 869-935.

14 “Tôi tin rằng chỉ ở Péguy và chỉ ở Péguy thôi, chúng ta có thể tìm thấy những yếu tố nhất định của siêu hình học về lòng trung thành”: Gabriel Marcel, Creative Fidelity, Robert Rosthal dịch (New York: Farrar, Straus, 1964), 153.

15 Từ Notre jeunesse, trong trích đoạn bản dịch của Alexander Dru, trong Péguy, Temporal and Eternal, 17.

16 Như trên, 19-20.

17 Cùng nguồn, 20.

18 Cùng nguồn, 133.

19 Từ Cahiers có tựa đề L’argent được trích dẫn trong Villiers, Charles Péguy, 311.

20 Hans Urs von Balthasar, The Glory of the Lord: A Theological Aesthetics [Vinh quang của Chúa: một Thần mỹ học, tập. 3: Các nghiên cứu về phong cách thần học: Lay Styles, Andrew Louth, John Saward, Martin Simon và Rowan Williams dịch, John Riches hiệu đính (San Francisco: Ignatius Press, 1986), 400-517.

21 Charles Péguy, Lettres et entretiens [thư từ và nói chuyện] (Paris: L’Artisan du livre, 1927), 158.

22 Péguy, Basic Verities, 119.

23 Cùng nguồn, 153.

24 Cùng nguồn, 167.

25 Cùng nguồn, 177.

26 Cùng nguồn, 179.

27 Cùng nguồn, 127.

28 Cùng nguồn, 109.

29 Villiers, Charles Péguy, 247-48.

30 Charles Péguy, The Mystery of the Holy Innocents [Mầu nhiệm các Thánh Anh Hài], Pansy Parkenham (New York: Harper, 1956); có sẵn trực tuyến thông qua Mạng Thông tin Công Giáo (www.centropeguy.org/cachepeguy7.htm).

31 Charles Péguy, “Un nouveau théologien: M. Fernand Laudet” [một nhà thần học mới: M. Fernand Laudet], trong Oeuvres en prose, 1909—1914, Bibliothèque de la Pléiade 122 (Paris: Gallimard, 1957), 998-99.

32 Để biết thông tin toàn diện về việc trở lại đạo bởi những người biết rõ về ông vào thời điểm đó, xem Péguy au Porche de l'Église: Correspondance inédite Jacques Maritain—Dom Louis Baillet [Péguy ở ngưỡng cửa Giáo hội: thư từ chưa xuất bản Jacques Maritain-Dom Louis], René Mougel và Robert Burac biên tập (Paris: Éditions du Cerf, 1997).

33 Oeuvres en Prose, 1909—1914, 307-498. Phần lớn cuộc đối thoại này có thể được tìm thấy trong bản dịch cuốn Temporal and Eternal của Alexander Dru.

34 Từ Notre Patrie [tổ quốc ta], trích dẫn trong Villiers, Charles Péguy, 194.

35 Cùng nguồn, 219.

36 Bản dịch chuẩn sang tiếng Anh là của Julien Green (NewYork: Pantheon Books, 1950), đó là bản dịch tiếp theo ở đây.

37 Cùng nguồn, 14-11.

38 Cùng nguồn, 17..

39 Cùng nguồn, 24.

40 Cùng nguồn, 28-29.

41 Cùng nguồn, 75.

42 Cùng nguồn, 115.

43 Cùng nguồn, 127.

44 Cùng nguồn, 216.

45 Bản dịch đầy đủ nhất của tác phẩm này là The Portal of the Mystery of Hope [cửa mầu nhiệm đức cậy], David L. Schindler, Jr. dịch (Grand Rapids: Eerdmans, 1996).

46 Cùng nguồn, 3-6.

47 Cùng nguồn, 7-8.

48 Bản dịch là của tôi, từ “Prière de liberty” [Lời cầu tự do] trong Les Tapisseries [các bức thảm] của Péguy (Paris: Gallimard, 1968), 132.

49 Được Simone Casimir-Périer tường trình và được trích dẫn trong Villiers, Charles Péguy, 385.

50 Paul Claudel và André Gide, Correspondance [thư từ]: 1899—1926 (Paris: Gallimard, 1949), 54.

51 Paul Claudel, The City: A Play [Kinh thành: Một vở kịch] (New Haven: Yale University Press, 1920), 19.

52 Cùng nguồn, 21.

53 Claudel, Oeuvres en Prose (Paris: Gallimard, 1965), 514.

54 Bản dịch của tác giả.

55 Ví dụ, xem Enid Starkie, Arthur Rimbaud (New York: New Directions, 1961), 415-32.

56 Paul Claudel, The Satin Slipper: or, The Worst Is Not the Surest [Chiếc dép sa tanh: hay, Điều tồi tệ nhất không phải là điều chắc chắn nhất], John O’Connor dịch, với sự cộng tác của tác giả (New Haven: Yale University Press, 1931), 280. Bất chấp vai trò của Claudel trong bản dịch này, nó vẫn bộc lộ nhiều điểm lập dị. Là bản dịch tiêu chuẩn, nó sẽ được tuân theo ở đây.

57 Một ví dụ nổi tiếng về sự mâu thuẫn này về Claudel xảy ra trong bài thơ vĩ đại “Tưởng nhớ W. B. Yeats” của W. H. Auden. Trong phiên bản gốc, Auden viết: “Thời gian không bao dung / Của những kẻ ngây thơ dũng cảm / Và mệt mỏi trong một tuần / Của một vóc dáng đẹp / Yêu mọi ngôn ngữ và tha thứ / Tất cả những người nhờ họ mà nó sống." Sau đó, ông nói thêm: “Đã đến lúc với lời bào chữa kỳ lạ này / Xin thứ lỗi cho Kipling và quan điểm của ông ấy, / Và sẽ tha thứ cho Paul Claudel, / Xin thứ lỗi cho ông ấy vì đã viết hay.” Trong phiên bản tiếp theo, rất có thể những dòng này đã bị cắt bởi vì, như nhiều người đã lưu ý, Auden đã gán nhầm những quan điểm phản cảm cho cả Kipling lẫn Claudel.

58 Wallace Fowlie, Paul Claudel (London: Bowes & Bowes, 1957), 74.

59 Những đoạn được trích dẫn ở đây là từ bản dịch của Edward Lucie-Smith với một số sửa đổi Five Great Odes [Năm bài ca ngợi vĩ đại] (Chester Springs, Penn.: Dufour Editions, 1967).

60 Paul Claudel, “Mon Pays [Xứ sở tôi], trong Contacts et circonstances [Tiếp xúc và hoàn cảnh] (Paris: Gallimard, 1947). Để có thêm những suy gẫm hữu ích về những câu hỏi này, hãy xem Elfrieda Dubois, “.. la prosodie me fut enseignée par les psaumes...' Some Reflections on Claudel’s verset” [...phép làm thơ đã được Các Thánh vịnh dạy cho tôi’ Một số suy gẫm về đoạn thơ của Claudel", trong Richard Griffiths, chủ biên, Claudel: A Reappraisal [Claudel: một tái đánh giá] (London: Rapp & Whiting, 1968), 112-30.

61 Cùng nguồn, 113.

62 Paul Claudel, Break of Noon: A Drama [Nghỉ trưa: Một vở kịch], Wallace Fowlie dịch (Chicago: Regnery, 1960).

63 Paul Claudel, The Tidings Brought to Mary (L’annoncefaite à Marie): A Drama [Truyền tin cho Đức Maria: Một vở kịch], Wallace Fowlie dịch (Chicago: Regnery, 1965).

64 Claudel, Oeuvres en Prose, 423.

65 Tuyên bố rõ ràng nhất của Thánh Tôma về sự khác biệt giữa nghệ thuật và sự khôn ngoan, cũng như sự khác biệt giữa một nghệ sĩ giỏi và một người đàn ông tốt, xuất hiện trong Summa Theologiae I-II, q. 57, A. 3: “Bonum artis consideratur non in ipso artifice, sed magis in ipso artificiato, cum ars sit ratio recta factibilium; factio enim in exteriorem materiam transiens, non est perfectio facientis, sed facti, sicut motus est actus mobilis. Ars autem circa factibilia est. Sed prudentiae bonum attenditur in ipso agente, cujus perfectio est ipsum agere; est enim prudentia recta ratio agibilium, ut dictum est. Et ideo ad artem non requiritur quod artifex bene operetur, sed quod bonum opus faciat. Requireretur autem magis quod ipsum artificiatum bene operaretur, sicut quod cultellus bene incideret, vel serra bene secaret (si proprie horum esset agere, et non magis agi, quia non habent dominium sui actus). Et ideo ars non est necessaria ad bene vivendum ipsi artifici, sed solum ad faciendum artificiatum bonum, et ad conservandum ipsum. Prudentia autem est necessaria homini ad bene vivendum, non solum ad hoc quod fiat bonus.” [Cái tốt của nghệ thuật không được nhìn thấy ở bản thân nghệ sĩ, mà đúng hơn ở chính nghệ thuật, vì nghệ thuật là lý do đúng đắn của những việc có thể làm được; vì một sự kiện thoáng qua trong vật chất bên ngoài không phải là sự hoàn hảo của người hành động trên nó, mà là sự hoàn hảo của sự kiện, cũng như chuyển động là một hành vi có thể chuyển động. Nhưng nghệ thuật liên quan đến những gì có thể thể hiện được. Nhưng cái tốt của sự khôn ngoan được tìm tòi ở chính tác nhân, người mà sự hoàn hảo của họ là tự mình hành động; vì sự thận trọng là lý do chính đáng cho hành động, như người ta nói. Và vì vậy nghệ thuật không đòi hỏi người nghệ sĩ phải làm việc chăm chỉ mà là làm một công việc tốt. Nhưng đúng hơn, chính tài khéo léo phải hoạt động tốt, giống như một con dao cắt tốt, hay một cái cưa cắt tốt (nếu làm những việc này là đúng đắn, và không làm thêm nữa, vì họ không có quyền kiểm soát đối với những việc đó). các hành động của họ). Và do đó, nghệ thuật không cần thiết để bản thân người nghệ sĩ sống tốt mà chỉ cần làm cho tác phẩm trở nên tốt đẹp và bảo tồn nó. Nhưng sự thận trọng là cần thiết để con người sống tốt chứ không chỉ để trở nên tốt].

66 Flannery O'Connor, “Catholic Novelists and their Readers” [Các tiểu thuyết gia Công Giáo và các độc giả của họ], trong Mystery and Manners: Occasional Prose [Mầu nhiệm và Phong cách: Văn xuôi đó đây], được chọn lọc và biên tập bởi Sally và Robert Fitzgerald (New York: Farrar, Straus & Giroux, 1969), 172.

67 Joyce cô đọng ST I, q. 39, A. 8c.

68 Đoạn văn này là diễn từ kết thúc của Thánh Michael trong vở kịch The Zeal of Thy House [Nhiệt tình với Nhà Ngài] của Sayers và được in lại với sự làm sáng tỏ thêm trong cuốn The Mind of the Maker [Tâm trí Đấng Làm Ra] của bà (San Francisco: Harper and Row, 1979), 37.

69 Jacques Maritain, Creative Intuition in Art and Poetry, Bollingen [Trực giác sáng tạo trong nghệ thuật và thơ ca, Bollingen] xxxv.1 (Princeton: Nhà xuất bản Đại học Princeton, 1992), 60.

70 Claudel, Five Great Odes [Năm bài ca ngợi vĩ đại], 57.

71 Georges Bernanos, Le crépuscule des vieux [hừng đông của người già](Paris: Gallimard, 1956), 82-84, như được dịch và được trích dẫn trong Tony Pipolo, Robert Bresson: A Passion for Film [Robert Bresson: Đam mê phim ảnh] (Oxford, N.Y.: Oxford University Press, 2010), 211.

72 Hans Urs von Balthasar, Bernanos: An Ecclesial Existence [Bernanos: một hiện sinh Giáo hội], Erasmo Leiva-Merikakis dịch (Communio Books; San Francisco: Ignatius Press, 1996). Bản dịch này dài 617 trang và thậm chí nó không bao gồm tất cả tài liệu trong văn bản gốc tiếng Đức.

73 Robert Speaight, George Bernanos: A Study of the Man and the Writer [George Bernanos: Nghiên cứu về con người và nhà văn] (London: Collins and Harvill Press, 1973), 16.

74 Georges Bernanos, The Star of Satan [Ngôi sao của Satan], Pamela Morris dịch (New York: Macmillan, 1940), 111.

75 Cùng nguồn, 119.

76 Cùng nguồn, 156.

77 Cùng nguồn, 162-63.

78 Cùng nguồn, 164.

79 Cùng nguồn, 174-75.

80 Cùng nguồn, 348.

81 Bernanos, Le crépuscule des vieux, 43-44; như được dịch và được trích dẫn trong Pipolo, Bresson, 212, và được tác giả hoàn thiện.

82 George Bernanos, The Diary of a Country Priest [Nhật ký của một linh mục miền quê], bản dịch của Pamela Morris, tái bản lần thứ 2. (New York: Carroll & Graf, 2002), 211-12.

83 Hans Urs von Balthasar dành một cái nhìn sâu sắc đáng lưu ý cho chính Bernanos: “Người đàn ông thô lỗ này trong sâu thẳm mình đã nuôi dưỡng một đứa trẻ đáng yêu, người không có khả năng tự vệ và bối rối trước mọi tình yêu, trên hết là tình yêu của Thiên Chúa trong Chúa Kitô. Vì yêu nên ông cảm nhận được sự thật, kể cả sự thật của thời đại; và, bởi vì ông cảm thấy, ông có những phản ứng tinh tế hơn bên trong, đồng thời khắc nghiệt và khốc liệt hơn bên ngoài so với chúng ta”: Von Balthasar, Bernanos, 18.

84 Speaight, George Bernanos, 217.

85 Cùng nguồn, 219.

86 Cùng nguồn, 215.

87 Bernanos, Monsieur Ouine [Ông Có-Không], William S. Bush dịch (Lincoln và London: Nhà xuất bản Đại học Nebraska, 2000), 171.

88 Khi Bernanos chiến đấu trong một trung đoàn kỵ binh trong Thế chiến thứ nhất, ông đã quyết định rằng, nếu ông chết, ông muốn trả thù, thậm chí sau khi chết, với một văn bia, “Đây là nơi an nghỉ của một người đã chiến đấu và chết vì sự thỏa mãn cá nhân của mình và để chọc tức những người đã không chiến đấu và chết”, như được trích dẫn bởi Roland N. Stromberg trong Redemption by War: The Intellects and 1914 [Cứu chuộc do chiến tranh: Các nhà trí thức và 1914] (Lawrence, Kans.: Regents Press of Kansas, 1982), 152.

89 William Bush, Georges Bernanos (New York: Twayne, 1969).

90 Georges Bernanos, “France before the World of Tomorrow [Nước Pháp trước thế giới ngày mai]”, trong Last Essays [Những tiểu luận cuối cùng], Joan và Barry Ulanov dịch (Chicago: Regnery, 1955), 4.

91 “Frère Martin” [thầy Martin] được xuất bản lần đầu vào năm 1951 trên tạp chí Esprit. Bản dịch tiếng Anh, “Thầy Martin”, có thể được tìm thấy trong Georges Bernanos and the Saints: Saint Dominic; Joan, Relapsed and Saint; Brother Martin; The Life of Jesus; with Selections from A Diary of My Times and We Frenchmen Joan, [Georges Bernanos và các Thánh: Thánh Đaminh; Tái phạm và nên Thánh; Thầy Martin; Cuộc Đời Chúa Giêsu]; với các tuyển tập từ A Diary of My Times and We Frenchmen [Nhật ký thời đại của tôi và Chúng tôi những người Pháp], Josephine S. Stewart và Paul Stewart dịch (New York: Peter Lang, 1996).

92 Georges Bernanos, “Revolution and Liberty”, in Last Essays [Cách mạng và Tự do”, trong Những tiểu luận cuối cùng], 122.

93 Trích dẫn trong Speaight, Georges Bernanos, 47.

94 Simone Weil, một người có cảm tình với Đảng Cộng hòa, đã đọc cuốn sách của Bernanos, rất ấn tượng trước sự trung thực của ông và viết thư cho ông để nói rằng bà đã rời Tây Ban Nha, sau khi đến đó chiến đấu: “Tôi không còn cảm thấy bị thôi thúc nội tâm phải tham gia vào một cuộc chiến nữa mà, thay vì giống như những gì nó đã thể hiện khi nó bắt đầu - một cuộc chiến tranh của những nông dân đói khát chống lại các địa chủ và những người ủng hộ giáo sĩ của họ - đã trở thành một cuộc chiến giữa một bên là Nga với một bên là Đức và Ý”: Bức thư năm 1938 của Simone Weil gửi Georges Bernanos, trong Simone Weil Reader [đọc Simone Weil], George A. Panichas biên tập, Richard Rees dịch (New York: David McKay, 1977), 75.

95 J. K. Huysmans, “Preface, Written Twenty Years after the Novel”, trong Against the Grain [Lời tựa, viết hai mươi năm sau cuốn tiểu thuyết”, trong Chống lại Hạt gạo (À rebours) (New York: Dover, 1969), xxxiii.

96 Xem www.nobelprize.org/nobel_prizes/literature/laureates/1952/mauriac-speech.html.

97 Xem Henri Peyre, The Contemporary French Novel [Tiểu thuyết đương thời của Pháp] (New York: Nhà xuất bản Đại học Oxford, 1955).

98 Hầu hết độc giả sẽ liệt kê Le baiser aux lépreux, Génitrix, Le désert de l'amour, Le noeud de vipères, và La Pharisienne [Nụ hôn cùi, Người Sinh hạ, sa mạc tình yêu, hổ mang cuộn, và Nữ Pharisiêu] trong thể loại này, cùng với những câu chuyện của Mauriac về Thérèse Desqueyroux. Le sagouin [người bẩn thỉu], một phần là câu chuyện về một cậu học sinh, thường được đọc ở các trường học ở Pháp.

99 François Mauriac, Oeuvres autobiographiques [các tác phẩm tự thuật] (Paris: Gallimard, 1990), 616; Bản dịch tiếng Anh của Wallace Fowlie trong What I Believe, Classic Reprint Series [Điều tôi tin: Loạt cổ điển tái ấn (London: Forgotten Books, 2012), 118.

100 Ngược lại, Mauriac khẳng định trong chính đoạn văn đó khi ông nói về việc lang thang khắp Paris như một con chó, “Tôi thường nghĩ rằng Ngài chưa bao giờ gần gũi với con hơn [trong] những ngày đau khổ vô tận khi con có thể dễ dàng bất cứ lúc nào trong khoảnh khắc lao vào cái chết”: Cùng nguồn.

101 François Mauriac, God and Mammon [Thiên Chúa và Thần Tài], Raymond N. MacKenzie dịch (Lanham, Md.: Rowman & Littlefield, 2003), 44.

102 “Donat O’Donnell,” bút danh của Conor Cruise O’Brien, đã sử dụng tên Maria trong nghiên cứu được trích dẫn trước đây của ông Maria Cross để giúp giải thích một chủ đề chung. Chương cuối cùng của ông, “Maria Cross” (trang 225-59), đặc biệt sâu sắc và tổng hợp hình ảnh người phụ nữ/thập giá của một số tác giả Công Giáo hiện đại.

103 François Mauriac, The Desert of Love [Sa mạc tình yêu], Gerard Hopkins dịch (New York: Carroll & Graf, 1989), 213.

104 François Mauriac, Men I Hold Great [những người tôi cho là vĩ đại] (Mes Grands Hommes, Elsie Pell dịch) (New York: Philosophical Library, 1951), 9.

105 Mauriac, Men I Hold Great [những người tôi cho là vĩ đại], 14.

106 Mauriac, The Desert of Love [Sa mạc tình yêu], 37.

107 “Một con quỷ vô danh thì thầm vào tai cô, 'Cô có thể chết [vì đam mê], nhưng ít nhất cô không thấy chán!' Sau đó, niềm đam mê của Maria lắng xuống, nhưng kết quả là cô cảm thấy "mối đe dọa của hư vô", điều đó trở thành “một cám dỗ đánh mất chính mình trong đó, cảm thấy mình tan biến và tan thành từng hạt, cho đến khi sa mạc bên trong trái tim cô trở thành một với sự trống rỗng của không gian, cho đến khi sự im lặng bên trong cô không khác gì sự im lặng của các quả cầu” : cùng nguồn, 142, 145, và 158. Mauriac có một phần thiên tài khi ông có thể gợi ý rằng ngay cả sự cám dỗ tự sát này cũng là một khát vọng tinh thần thiên lệch.

108 Cùng nguồn, 138-39.

109 Cùng nguồn, 113.

110 François Mauriac, Vipers’ Tangle [Khúc cuộn hổ mang], Warre B. Wells dịch (Garden City, N.Y.: Image, 1957), 12.

111 Cùng nguồn, 34.

112 Cùng nguồn, 44.

113 Cùng nguồn, 60.

114 Cùng nguồn, 151.

115 Cùng nguồn, 163.

116 Cùng nguồn, 167.

117 Cùng nguồn, 177.

118 Cùng nguồn, 194.

119 Cùng nguồn, 198.

120 Mauriac, God and Mammon [Thiên Chúa và Thần Tài]; Thư của Gide được dịch ở trang 55-57.

121 Được trích dẫn trong Tony Judt, Past Imperfect: French Intellectuals [Quá khứ bất toàn: Các Trí thức Pháp] 1944-1956 (Berkeley: Nhà xuất bản Đại học California, 1992), 71. Cuốn sách của Judt là một hướng dẫn hữu ích để xác định quan điểm công cộng của Mauriac trong thời kỳ hậu chiến. Về chủ nghĩa hợp tác của Sartre, hãy xem tiểu luận đáng lưu ý của Clive James, Cultural Amnesia: Necessary Memories from History and the Arts [Chứng mất trí nhớ văn hóa: Những ký ức cần thiết từ lịch sử và nghệ thuật] (New York: Norton, 2007), 669-79.

122 Robert Speaight, François Mauriac: A Study of the Writer and the Man [François Mauriac: Nghiên cứu về Nhà văn và Con người] (London: Chatto & Windus, 1976), 197.

123 Trích trong cùng nguồn, 193-94, từ Bloc-notes I, 40.

124 Một phiên bản tiếng Anh của tiểu luận này xuất hiện trong Jean-Paul Sartre, Literary Essays [các tiểu luận văn học], Annette Michelson dịch (New York: Thư viện Triết học, 1957), 7-23.

125 Công bằng mà nói, một Sartre trưởng thành hơn đã thừa nhận điều đó, ngay cả sau nhiều thập niên công khai mối thù với Mauriac. Năm 1960, khi được Madeleine Chapsal hỏi trong một cuộc phỏng vấn về Mauriac, ông nhận xét: “Tôi nghĩ hôm nay tôi sẽ linh hoạt hơn, vì chất lượng thiết yếu của cuốn tiểu thuyết phải là mang lại sự tham gia và sự quan tâm, và tôi sẽ bớt khắt khe hơn nhiều về các phương pháp được sử dụng.... Bạn luôn tìm cách nói điều mình muốn và tác giả luôn có mặt”: dịch bởi và trích dẫn trong David O’Connell, François Mauriac Revisited [tái duyệt François Mauriac] (New York: Twayne, 1995), 175.

126 Speaight, François Mauriac.

127 François Mauriac, What I Believe [Điều tôi tin], bản dịch và với lời giới thiệu của Wallace Fowlie (New York: Farrar, Straus & Giroux, 1963).

128 Cùng nguồn, 106.

129 Cùng nguồn, 137.

130 Cùng nguồn.

131 Speaight, François Mauriac, 218.

132 Điều này đã được tập hợp thành bốn tập của Bloc-notes (Paris: Seuil, 1993).

133 Mauriac, What I Believe [Điều tôi tin] 113.

134 Cùng nguồn, 111.

135 Cùng nguồn, 89.

136 Cùng nguồn, 36.

137 Cùng nguồn, 28.

Kỳ sau: Chương Mười Một: Xã Hội Tạp Nham và sau đó
 
VietCatholic TV
Patriot, NASAMS lũ lượt đến Ukraine. Lính Nga phản chiến đốt tàu Serpukhov. HG lên án Nga cấm niqab
VietCatholic Media
03:31 05/07/2024


1. Đồng minh của Putin triển khai hỏa tiễn đạn đạo trong bối cảnh căng thẳng Ukraine và tuyên bố 'Không có ranh giới đỏ'

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Putin Ally Deploys Ballistic Missiles Amid Ukraine Tensions: 'No Red Lines'“. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Hôm Thứ Tư, 03 Tháng Bẩy, nhà lãnh đạo Belarus Alexander Lukashenko đã đưa ra lời đe dọa hạt nhân, cảnh báo rằng ông “không có ranh giới đỏ”, nghĩa là sẽ sẵn sàng sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào để bảo vệ đất nước của mình.

Lukashenko, một đồng minh thân cận của Putin, cho biết ông đã triển khai các hệ thống hỏa tiễn tầm xa Polonez và Iskander để đáp trả điều mà quân đội của ông mô tả là căng thẳng gia tăng ở biên giới với Ukraine.

Ngày 29 Tháng Sáu, Đại tá Vadim Lukashevich, một quan chức quân sự Belarus, tuyên bố Ukraine đã triển khai lực lượng tới biên giới Belarus nhằm nỗ lực “lôi đất nước chúng ta vào cuộc chiến”. Ông đang đề cập đến cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine do Putin phát động vào ngày 24 tháng 2 năm 2022.

“Lực lượng Không quân và Phòng không đang trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao. Cả của chúng ta và của Nga. Có sự hợp tác hoàn toàn ở đây”, Lukashenko nói tại Minsk. “Hệ thống hỏa tiễn Polonez và Iskander đã được triển khai vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Bạn cũng biết họ có loại đạn gì”.

Hỏa tiễn đạn đạo Iskander-M có khả năng mang đầu đạn hạt nhân cũng như đầu đạn thông thường. Lukashenko cảnh báo vào tháng 6 năm 2023 rằng đầu đạn hạt nhân chiến thuật của Nga cũng có thể được lắp trên các hỏa tiễn được bắn bằng bệ phóng hỏa tiễn đa năng Polonez của quân đội ông.

Cuối tuần qua, ông Lukashevich tuyên bố rằng lực lượng Ukraine đang lên kế hoạch thực hiện các hành động phá hoại và khủng bố tiềm tàng trên đất Belarus.

Quan chức quân sự này cho biết: “Tình hình ở biên giới Belarus-Ukraine có đặc điểm là căng thẳng leo thang”.

“Sẽ không có ranh giới đỏ,” ông Lukashenko cho biết hôm thứ Tư và nói thêm rằng nếu có một cuộc tấn công vào đất nước của ông, ông không loại trừ “một cuộc tấn công bằng tất cả các loại vũ khí vào một mục tiêu nhất định”.

“Tôi bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không cho phép bất kỳ cuộc đụng độ nào ở biên giới với Ukraine. Sẽ không có, chúng tôi không cần chúng. Nhưng Ukraine thậm chí còn không cần chúng hơn vì những sự kiện đang diễn ra trên chiến trường của họ”, ông nói thêm.

Belarus, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, đã duy trì mối quan hệ bền chặt với Nga trong suốt cuộc chiến.

Trong khi quân đội của Lukashenko không trực tiếp tham gia cuộc xung đột Ukraine, quân đội Nga đã được phép tiến hành các cuộc tập trận trên lãnh thổ Belarus kể từ trước khi bắt đầu chiến tranh. Đất nước này đã được Nga sử dụng để giúp tiến hành cuộc xâm lược Ukraine hai năm trước.

Ngày 21 Tháng Năm, Nga và Belarus đã tiến hành diễn tập sử dụng vũ khí hạt nhân phi chiến lược. Bộ Quốc phòng Nga cho biết cuộc tập trận nhằm chuẩn bị quân đội và trang thiết bị “để bảo đảm vô điều kiện chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của hai quốc gia được gọi là “Nhà nước Liên minh”.

2. Mỹ cung cấp sự hỗ trợ lớn cho hệ thống Patriot của Ukraine

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “US Provides Major Boost to Ukraine's Patriot System”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Hôm Thứ Tư, 03 Tháng Bẩy, Bộ Quốc phòng đã công bố khoản tăng cường trị giá 2,2 tỷ Mỹ Kim cho hệ thống phòng không của Ukraine, bao gồm các hỏa tiễn dành cho hệ thống Patriot và Hệ thống hỏa tiễn đất đối không tiên tiến quốc gia, gọi tắt là NASAMS, hiện đã thuộc quyền sở hữu của Kyiv.

Theo thông cáo từ Bộ Quốc phòng, các hỏa tiễn đánh chặn bổ sung sẽ được mua từ các nhà sản xuất Mỹ theo Sáng kiến Hỗ trợ An ninh Ukraine, gọi tắt là USAI. Cả hệ thống Patriot và NASAMS đều đóng vai trò quan trọng trong khả năng phòng thủ của Ukraine trước các cuộc tấn công trên không của Nga.

Ngũ Giác Đài cũng công bố khoản viện trợ 150 triệu Mỹ Kim cho Ukraine thông qua Cơ quan rút vốn của Tổng thống, gọi tắt là PDA, cho phép Bộ Quốc phòng rút trực tiếp từ kho dự trữ của Mỹ. Gói PDA sẽ bao gồm thêm các thiết bị đánh chặn phòng không, pháo binh và vũ khí chống tăng.

Theo thông báo của Bộ Quốc phòng, đây là lần thứ 60 Chính quyền Tổng thống Biden rút ra khỏi kho dự trữ của Washington để viện trợ cho Ukraine kể từ tháng 8 năm 2021.

“Đừng nhầm lẫn, Ukraine không đơn độc và Hoa Kỳ sẽ không bao giờ dao động trong sự hỗ trợ của chúng tôi”, Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin nói trong cuộc gặp với Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Rustem Umerov tại Ngũ Giác Đài hôm thứ Ba. “Cùng với khoảng 50 đồng minh và đối tác, chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp những khả năng quan trọng mà Ukraine cần để đẩy lùi sự xâm lược của Nga hôm nay và ngăn chặn sự xâm lược của Nga vào ngày mai.”

Ukraine hiện đang sở hữu ít nhất hai hệ thống phòng không Patriot, một hệ thống do Mỹ tài trợ và một hệ thống khác do Đức và Hòa Lan hợp tác cung cấp. Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy nói rằng Kyiv cần “tối thiểu” thêm “bảy hệ thống phòng không 'Patriots' hoặc tương tự” để phòng thủ trước Nga.

“Putin phải bị hạ gục xuống mặt đất, và bầu trời của chúng ta phải trở nên an toàn trở lại…Và điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào lựa chọn của các bạn…lựa chọn liệu chúng ta có thực sự là đồng minh hay không,” Zelenskiy trong bài phát biểu trước Hội đồng NATO-Ukraine vào tháng 4.

Mỹ lần đầu tiên cung cấp cho Ukraine hệ thống NASAMS vào tháng 11 năm 2022. Các đồng minh khác của NATO, bao gồm Na Uy và Lithuania, cũng đã cam kết cung cấp các hệ thống phóng hỏa tiễn phòng thủ cho Ukraine.

Theo thông cáo của Ngũ Giác Đài, việc mua thêm hỏa tiễn đánh chặn thông qua chương trình USAI mất nhiều thời gian hơn so với việc cung cấp cho Ukraine thiết bị theo PDA, mặc dù chính quyền Tổng thống Biden “có kế hoạch đẩy nhanh việc chuyển giao đạn dược của USAI bằng cách sắp xếp lại trình tự các đợt giao hàng quân sự nước ngoài sắp tới để dành ưu tiên cho Ukraine”..

Do đó, Ukraine sẽ được cung cấp các máy bay đánh chặn mà nước này rất cần để bảo vệ người dân và cơ sở hạ tầng quan trọng trước các cuộc tấn công trên không của Nga”, Bộ Quốc phòng cho biết thêm.

3. Tân Thủ tướng Hòa Lan thề ủng hộ Ukraine, chỉ trích Nga

Thứ Tư, 03 Tháng Bẩy, Tân Thủ tướng Hòa Lan Dick Schoof đã cam kết tiếp tục “hỗ trợ tài chính, quân sự và chính trị” cho Ukraine, khi ông nhắm vào Nga trong bài phát biểu quan trọng đầu tiên của mình trước Quốc Hội.

“ Chúng ta không nên ngây thơ. Cách đây chỉ vài giờ bay, vẫn đang xảy ra một cuộc chiến khủng khiếp, nơi mạng sống con người không còn là vấn đề đối với Nga”, Thủ tướng Schoof, cựu giám đốc tình báo Hoà Lan, phát biểu trước quốc hội.

Ông nhấn mạnh: “Ukraine có thể tiếp tục trông cậy vào sự hỗ trợ tài chính, quân sự và chính trị của Hòa Lan”.

Schoof, 67 tuổi, cũng cam kết đáp ứng mục tiêu chi 2% tổng sản phẩm quốc nội cho quốc phòng do liên minh NATO đặt ra, sắp được lãnh đạo bởi người tiền nhiệm Mark Rutte /mác rút-ti/.

Phát biểu với một nhóm nhỏ các nhà báo sau lễ nhậm chức hôm thứ Ba, Schoof cho biết mối đe dọa chính đối với đất nước “rõ ràng đến từ phía đông”.

“Có lẽ vì tôi là nhà lãnh đạo cơ quan an ninh nên tôi hơi lo lắng hơn những người khác một chút,” ông nói.

Dưới thời Rutte, Hòa Lan đã ký một thỏa thuận trong năm nay về khoản hỗ trợ quân sự trị giá 2 tỷ euro hay 2,1 tỷ Mỹ Kim, trong 10 năm, sau đó bổ sung thêm 1 tỷ euro.

Thủ tướng Rutte cũng dẫn đầu nỗ lực cung cấp chiến đấu cơ F-16 cho Kyiv, một quyết định được Tổng thống Volodymyr Zelenskiy mô tả là “lịch sử” trong chuyến công du tới Hòa Lan.

Tân Thủ tướng Schoof đứng đầu một nội các bất thường không bao gồm các lãnh đạo của 4 đảng cánh hữu đã thành lập liên minh sau chiến thắng bầu cử của lãnh đạo cực hữu Geert Wilders.

Wilders bước sang một bên sau khi một số đối tác trong liên minh đe dọa sẽ rút lui nếu ông là Thủ tướng, và bày tỏ thái độ không hài lòng với quan điểm chống Hồi giáo và hoài nghi Âu Châu của ông.

Các nhà lãnh đạo ở Brussels đang theo dõi chặt chẽ Hòa Lan, một thành viên chủ chốt của Liên minh Âu Châu, để xem liệu Hòa Lan có tiếp tục đóng vai trò mang tính xây dựng trong câu lạc bộ hay không.

Tân Thủ tướng Schoof cam kết tuân thủ các thỏa thuận quốc tế nhưng cảnh báo Hòa Lan sẽ không áp đặt các quy định chặt chẽ hơn các nước khác trong chính sách môi trường.

“Không phải lúc nào chúng ta cũng phải là cậu bé ngoan nhất lớp. Và chúng ta không đủ khả năng để trở thành như vậy,” Thủ tướng Schoof nói.

4. Tân Bộ trưởng Quốc phòng Hòa Lan cho biết Hòa Lan duy trì hỗ trợ cho Ukraine

Ruben Brekelmans, Bộ trưởng Quốc phòng mới được bổ nhiệm của Hòa Lan, đã cam kết vào hôm Thứ Năm, 04 Tháng Bẩy, rằng sự hỗ trợ của đất nước ông dành cho Ukraine sẽ tiếp tục “trong thời gian cần thiết”.

“Hòa Lan vẫn cam kết hỗ trợ Ukraine nhiều nhất có thể, trong thời gian cần thiết. Chúng tôi và các đồng minh của chúng tôi đoàn kết trong quyết tâm trả lại hòa bình và an ninh cho Ukraine”, Brekelmans nói.

Brekelmans cũng cảm ơn Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine Rustem Umerov vì đã chúc mừng ông được bổ nhiệm vào vị trí mới. Ông bày tỏ hy vọng sẽ sớm gặp lại người đồng cấp Ukraine.

Bộ trưởng Quốc phòng đại diện cho Đảng Nhân dân vì Tự do và Dân chủ, gọi tắt là VVD, trung hữu trong chính phủ liên minh mới của Hòa Lan. VVD trước đây được lãnh đạo bởi Mark Rutte, người gần đây đã bảo đảm được chức vụ Tổng thư ký NATO sau khi ông Jens Stoltenberg nghỉ hưu.

Dưới thời Thủ tướng Rutte, người giữ chức vụ cao nhất quốc gia trong 14 năm, Hòa Lan đã đóng vai trò chủ động hỗ trợ Ukraine.

Hòa Lan đã phân bổ 4,4 tỷ euro hay 4,7 tỷ Mỹ Kim để hỗ trợ Ukraine cho đến năm 2026. Chính phủ Hòa Lan cũng dẫn đầu liên minh chiến đấu cơ và cam kết cung cấp 24 máy bay phản lực F-16 cho Ukraine

Chính phủ liên minh mới tuyên thệ nhậm chức vào ngày 2 Tháng Bẩy. Cựu giám đốc cơ quan tình báo Hòa Lan, Dick Schoof, trở thành thủ tướng mới, thay thế Rutte, người được chính thức bổ nhiệm làm tổng thư ký NATO tiếp theo.

Liên minh được thành lập bởi Đảng cực hữu vì Tự do do Geert Wilders lãnh đạo, VVD, Hợp đồng xã hội mới theo đường lối trung dung mới thành lập gần đây và Phong trào Công dân-Nông dân theo chủ nghĩa dân túy.

5. Video cho thấy xe thiết giáp của Nga bị tiêu diệt trong các cuộc tấn công

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Ukraine Video Shows Russian Armored Vehicles Decimated in Strikes”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Hôm Thứ Tư, 03 Tháng Bẩy, Ukraine đã công bố một video cho thấy hàng chục xe thiết giáp của Nga bị lực lượng Kyiv phá hủy trên chiến trường.

Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Tư, 03 Tháng Bẩy, Phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Đại Úy Andriy Yusov, đã chia sẻ đoạn phim quay bằng máy bay điều khiển từ xa trên các kênh truyền thông xã hội của mình, cho biết một trong các đơn vị của họ đã “đốt cháy” hơn chục xe của Nga chỉ trong một ngày.

Cả Mạc Tư Khoa và Kyiv được cho là đã mất một lượng lớn nhân lực và trang thiết bị sau khi Nga bắt đầu tấn công khu vực Kharkiv vào ngày 10 Tháng Năm, chiếm giữ các thị trấn ở biên giới phía đông bắc Ukraine.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy ngày 8 Tháng Sáu cho biết cuộc tấn công khu vực Kharkiv của Nga đã không thành công. “Một kết quả rất có ý nghĩa là quân đội Nga đã thất bại. Hướng này đã được tăng cường. Và nó sẽ được tăng cường hơn nữa”, ông nói sau cuộc gặp với nhà lãnh đạo quân đội Ukraine, Oleksandr Syrskyi.

Đại Úy Yusov nói: “Hậu cần của đối phương đang bị tấn công – các trinh sát ở mặt trận đang phá hủy các thiết bị của Nga”. “Những người lính thuộc đơn vị đặc biệt 'Kabul 9' của HUR trên tiền tuyến đã đốt cháy hơn chục xe thiết giáp và xe chuyển quân của người Nga trong một ngày.”

Ông nói tiếp: “Công việc hiệu quả trong việc tiêu diệt hậu cần của quân xâm lược Nga với sự hỗ trợ của máy bay điều khiển từ xa FPV vẫn tiếp tục! Niềm tự hào cho Ukraine!”

Truyền thông Ukraine đưa tin đơn vị Kabul 9 của HUR được thành lập khi Nga bắt đầu xâm lược Ukraine vào tháng 2 năm 2022 và các thành viên bao gồm các cựu chiến binh của quân đội Ukraine.

Tháng trước, một sĩ quan tình báo cao cấp của Kabul 9, người hay gọi là Deputat, nói với RBC Ukraine rằng đơn vị tình báo này đã tiêu diệt “rất nhiều phương tiện của đối phương trong một nhiệm vụ”.

“Điều này bao gồm xe chiến đấu bộ binh, xe thiết giáp chở quân, xe tăng và xe không bọc thép. Vì không có hành động và tấn công dữ dội nào trong khu vực của chúng tôi, chẳng hạn như ở khu vực Donbas hay Kharkiv, nên chúng tôi hiện đang tích cực chiến đấu với các tuyến đường hậu cần của họ”.

Bộ Tổng tham mưu Lực lượng vũ trang Ukraine đăng số liệu về tổn thất quân đội và trang thiết bị của Nga như một phần cập nhật hàng ngày về cuộc chiến. Nga đã mất 17 xe thiết giáp trong ngày hôm qua, nâng tổng số lên 15.583 chiếc.

Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Năm, 04 Tháng Bẩy, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Ukraine, Chuẩn tướng Oleksii Hromov, cũng cho biết Nga đã mất 1.180 binh sĩ trong 24 giờ trước đó, nâng tổng số lên 546.270. Ngoài ra, Mạc Tư Khoa đã mất tổng cộng 8.123 xe tăng, 14.712 hệ thống pháo, 19.850 phương tiện và thùng nhiên liệu, 876 hệ thống tác chiến phòng không, 2.336 hỏa tiễn hành trình, 360 máy bay quân sự, 326 máy bay trực thăng và 28 tàu chiến trong cuộc chiến.

6. Zelenskiy bày tỏ lòng biết ơn Hoa Kỳ về gói viện trợ quân sự mới

Hôm Thứ Năm, 04 Tháng Bẩy, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã cảm ơn Tổng thống Mỹ Joe Biden, Quốc hội và người dân Mỹ vì đã tiếp tục hỗ trợ quân sự.

Ông chia sẻ sự đánh giá cao của mình đối với sự hào hiệp của Hoa Kỳ, nhấn mạnh tầm quan trọng của khoản viện trợ sẽ tăng cường khả năng phòng thủ của Ukraine trong những tháng tới.

Ông nói: “Các khí tài phòng không bổ sung, pháo binh, vũ khí chống tăng và các hạng mục quan trọng khác, cũng như tài trợ cho hỏa tiễn Patriot và NASAMS, sẽ tăng cường sức mạnh cho binh lính của chúng ta và nâng cao khả năng của chúng ta trên chiến trường”.

Hôm Thứ Tư, 03 Tháng Bẩy, Hoa Kỳ đã công bố gói phòng thủ mới quan trọng cho Ukraine, bao gồm hỏa tiễn HIMARS, máy bay đánh chặn phòng không và đạn pháo.

Gói quân sự mới đến từ Cơ quan rút vốn của Tổng thống, một cơ chế cho phép tổng thống giao vũ khí cho các đồng minh từ kho dự trữ hiện tại của Mỹ.

7. Tình báo quân sự cho biết người đào tẩu Nga có liên quan đến vụ phá hoại tàu Hạm đội Baltic của Nga

Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Năm, 04 Tháng Bẩy, Phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Đại Úy Andriy Yusov, cho biết vụ phá hoại tàu Nga ở tỉnh Kaliningrad hồi tháng 4 là một phần trong hoạt động chung của Quân đoàn Tự do Nga và dự án tình báo quân sự “Tôi muốn sống” của Ukraine.

Tàu hỏa tiễn Serpukhov của Nga bị phóng hỏa vào ngày 8 Tháng Tư khi đang neo đậu ngoài khơi Kaliningrad. Đại Úy Yusov cho biết vụ phá hoại đã phá hủy hoàn toàn hệ thống liên lạc và tự động hóa của nó, đòi hỏi phải sửa chữa lâu dài.

Ông cho biết: “Một số công dân Nga đã thực hiện hoạt động dũng cảm và mạo hiểm này, gây thiệt hại nghiêm trọng cho hạm đội Nga và tiết lộ tình trạng hiện tại của quân đội Nga”.

Theo tuyên bố, một thành viên đang tại ngũ của Hạm đội Baltic của Nga đã cung cấp thông tin quan trọng để thực hiện chiến dịch Rybalka nghĩa là “Đánh cá”.

Khi việc người đó tiếp tục ở lại tàu trở nên quá rủi ro, hành vi phá hoại sẽ được thực hiện. Quân nhân Nga này cũng tịch thu các tài liệu mật và sau đó được di tản khỏi Nga thông qua dự án “Tôi muốn sống”.

Theo trang web của Hải quân Nga, Serpukhov là tàu hộ tống hỏa tiễn Buyan-M, dài 74 mét và chứa nhiều hệ thống vũ khí khác nhau.

Trong khi các cuộc tấn công của Ukraine được cho là đã vô hiệu hóa khoảng 1 phần 3 Hạm đội Hắc Hải của Nga thì đây là cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào một tàu của Hạm đội Baltic, nơi có căn cứ cách Ukraine hàng trăm km.

8. Dagestan cấm niqab để đối phó với các cuộc tấn công khủng bố chết người

Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Dagestan bans niqab in response to deadly terror attacks”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Các nhà chức trách tôn giáo ở vùng Dagestan phía nam nước Nga hôm thứ Tư cho biết họ đang cấm mạng che mặt niqab để đáp lại các cuộc tấn công khủng bố chết người hồi tháng trước nhằm vào các nhà thờ của người Do Thái và Chính thống giáo.

Phát ngôn nhân của muftiate – một cơ quan hành chính ban hành các quy tắc ảnh hưởng đến đa số người Hồi giáo ở nước cộng hòa – tuyên bố trang phục niqab, là một loại áo dài che kín toàn thân, ngoại trừ đôi mắt sẽ bị cấm “cho đến khi các mối đe dọa khủng bố được loại bỏ”; và rằng các nhà chức trách tôn giáo đã đến “một kết luận thần học mới.”

Lệnh cấm tạm thời được đưa ra sau một loạt vụ tấn công phối hợp nhằm vào các giáo đường Do Thái và nhà thờ Chính thống giáo ở thủ đô Makhachkala của Dagestan và thành phố Derbent hôm 23 Tháng Sáu khiến 22 người thiệt mạng và hàng chục người khác bị thương. Chính quyền Dagestani vào thời điểm đó đổ lỗi cho “các tổ chức khủng bố quốc tế” nhưng không nêu tên nhóm nào chịu trách nhiệm.

Các báo cáo cho rằng một trong năm tay súng đã lên kế hoạch trốn thoát bằng cách mặc niqab để cải trang. Sau đó, thống đốc Dagestan Sergei Melikov gọi niqab là một rủi ro an ninh.

Phần lớn Dagestan là người Hồi giáo và khu vực này có lịch sử nổi dậy của người Hồi giáo.

Những nhân vật nổi tiếng ở Nga đã lên tiếng về việc cấm niqab ở Dagestan. Khi Alexander Bastrykin, nhà lãnh đạo Ủy ban Điều tra Nga, kêu gọi ban hành lệnh cấm toàn diện sau các cuộc tấn công ở Dagestan, nhà cai trị độc tài của Chechnya, Ramzan Kadyrov, đã cảnh báo Bastrykin phải “hết sức cẩn thận”.

Kadyrov nói: “Người ta không nên nhầm lẫn tôn giáo với những ý tưởng liều lĩnh của những kẻ cuồng tín và ma quỷ, những kẻ có thể tự gọi mình là bất cứ thứ gì chúng muốn nhưng hoàn toàn không có mối liên hệ nào với Hồi Giáo”.

Các cuộc tấn công ở Dagestan xảy ra sau khi các chiến binh Tajik xông vào một phòng hòa nhạc gần Mạc Tư Khoa vào tháng 3, làm thiệt mạng 145 người trong một vụ thảm sát do nhóm chiến binh Nhà nước Hồi giáo tuyên bố chịu trách nhiệm.

Cả hai cuộc tấn công đều làm nổi bật mối đe dọa ngày càng tăng của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo ở Nga - một sự xao lãng không mong muốn đối với nhà độc tài Vladimir Putin, người đang tập trung vào cuộc chiến khốc liệt ở Ukraine.

9. Ông Tập và Putin nói mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đang ở mức đẹp tốt nhất trong lịch sử

Putin và chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã gặp nhau tại hội nghị thượng đỉnh của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, gọi tắt là SCO, ở Astana, Kazakhstan, hôm Thứ Tư, 03 Tháng Bẩy.

Ông Tập bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với Nga khi đề cập đến cuộc chiến toàn diện với Ukraine, đồng thời phát biểu bên lề hội nghị thượng đỉnh rằng Trung Quốc “luôn đứng về phía đúng của lịch sử”.

Trong cuộc gặp lần thứ hai giữa hai nhà lãnh đạo trong vòng hai tháng qua, Tập và Putin đã đồng thanh rằng quan hệ song phương đang ở đỉnh cao lịch sử và cùng nhau bảo vệ “hòa bình và ổn định trong khu vực”.

Đổi lại, Putin cũng lên tiếng phản đối sự can thiệp từ bên ngoài vào Biển Đông, nơi Trung Quốc đang tìm cách mở rộng hơn nữa ảnh hưởng và quyền kiểm soát lãnh thổ, khiến nước này đối đầu với các đồng minh và lợi ích của Mỹ trong khu vực.

Mặc dù Trung Quốc chính thức duy trì lập trường trung lập đối với cuộc chiến toàn diện của Nga ở Ukraine và phủ nhận việc cung cấp viện trợ sát thương, nhưng Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa vẫn tiếp tục tăng cường mối quan hệ.

Tổng thống Phần Lan Alexander Stubb nhận xét rằng sự phụ thuộc của Nga vào Trung Quốc đã phát triển đến mức Bắc Kinh có thể kết thúc chiến tranh chỉ bằng một cú điện thoại cho Putin. Tuy nhiên, vấn đề là Trung Quốc muốn duy trì cuộc xâm lược hiện nay của Nga để thủ lợi.

Nhiều quốc gia, bao gồm cả Mỹ, đã cáo buộc Trung Quốc liên tục hỗ trợ cỗ máy chiến tranh của Nga ở Ukraine bằng cách cung cấp máy công cụ, công nghệ vũ khí, hình ảnh vệ tinh, chất bán dẫn và các công nghệ lưỡng dụng khác.

10. Nga phát lệnh bắt giữ các nhà báo lưu vong do đưa tin về chiến tranh

Hôm Thứ Năm, 04 Tháng Bẩy, Trung Tướng Igor Krasnov, Tổng Công Tố Nga, đã ban hành lệnh bắt giữ đối với ba nhà báo lưu vong, một động thái mà các nhà phân tích giải thích là một nỗ lực nhằm quấy rối những người chỉ trích bên ngoài biên giới đất nước. Tuyên bố của Krasnov là nhằm đẩy mạnh và chính thức hóa ở cấp liên bang các phán quyết đã được các tòa án địa phương ở các nước cộng hòa đưa ra.

Vào ngày 17 tháng 6, một tòa án ở Mạc Tư Khoa đã ra lệnh bắt giữ Ekaterina Fomina và Roman Anin, cáo buộc họ truyền bá những gì Điện Cẩm Linh coi là thông tin sai lệch về quân đội Nga.

Trong một vụ án riêng biệt vào ngày 27 tháng 6, một tòa án đã ban hành lệnh bắt giữ Farida Kurbangaleyeva, buộc tội cô biện minh cho khủng bố và phổ biến những gì Mạc Tư Khoa cho là thông tin sai lệch về quân đội Nga, Đài Tiếng nói Hoa Kỳ, gọi tắt là VOA, đưa tin.

Theo báo cáo, Kurbangaleyeva đã đưa tin cho cả các kênh của Nga và quốc tế, đồng thời điều hành một kênh YouTube nơi cô phỏng vấn các chính trị gia Ukraine và Nga.

Theo các cơ quan giám sát, kể từ khi xâm lược toàn diện Ukraine vào năm 2022, Nga đã tăng cường các chiến thuật đàn áp đối với các nhà báo cả trong và ngoài nước. Mặc dù lệnh bắt giữ vắng mặt được coi là ít nghiêm trọng hơn các hình thức quấy rối khác như đầu độc và giám sát, nhưng các chuyên gia coi chúng là một phần trong chiến lược đàn áp xuyên quốc gia rộng lớn hơn của Mạc Tư Khoa.

Những lệnh này không chỉ nhằm mục đích đe dọa các nhà báo lưu vong mà còn là tín hiệu cho khán giả trong nước Nga rằng những lời chỉ trích sẽ không được dung thứ, Grady Vaughan của Freedom House ở Washington giải thích với VOA.

Vaughn nói với VOA: “Nó gửi đi thông điệp rằng chỉ vì người này rời khỏi Nga không có nghĩa là chúng tôi đã quên họ”.

Theo báo cáo năm 2023 của Freedom House, Nga là một quốc gia hung hăng nhất trong ít nhất 26 chính phủ đã tấn công vào các nhà báo và nhà phê bình ở nước ngoài trong thập niên qua.

Karol Luczka, người phụ trách khu vực Đông Âu tại Viện Báo chí Quốc tế, nói với VOA rằng hoạt động này có thể nhằm đáp ứng chỉ tiêu quản lý nội bộ nhằm đàn áp các nhà báo, nhà hoạt động và những nhân vật bất đồng chính kiến trong những khung thời gian cụ thể.

Luczka lưu ý rằng vào mỗi tối thứ Sáu hàng tuần, Bộ Tư pháp Nga thường cập nhật danh sách “đặc vụ nước ngoài”. Họ thường thêm bốn hoặc năm cái tên, và thường bao gồm cả các nhà báo.

Theo Luczka, lệnh bắt giữ cũng có thể “góp phần làm mất uy tín của các nhà báo trong chính người dân Nga”.
 
19 tháng trong lao tù Putin của 2 LM DCCT. 5 điều phải cân nhắc khi cáo buộc ĐTGM Viganò tội ly giáo
VietCatholic Media
17:57 05/07/2024


1. 19 tháng lao tù của các linh mục Công Giáo Ukraine trong nhà tù Nga

Hôm 28 Tháng Sáu, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã vui mừng loan báo rằng hai linh mục Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương bị quân xâm lược Nga bắt giữ từ nhà thờ của các ngài ở Berdyansk vào tháng 11 năm 2022 đã được thả sau 19 tháng bị giam cầm.

Tổng thống Zelenskiy cho biết: Các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Ivan Levitsky và Bohdan Geleta, những người đã phục vụ tại Nhà thờ Chúa Giáng Sinh của Theotokos Chí Thánh ở Berdyansk, nằm trong số 10 tù nhân đã được trả lại cho chính quyền Ukraine.

Ông nói: “Chúng tôi đã cố gắng giải thoát thêm 10 người của mình khỏi sự giam cầm của Nga, bất chấp mọi khó khăn”. Ông ca ngợi “những nỗ lực của Tòa thánh trong việc đưa những người này về nhà”.

Một lúc sau thông báo của Zelenskiy, Giáo Hội Công Giáo Đông Phương Ukraine đã đăng tin này trên trang web của mình, cùng với những hình ảnh của hai linh mục được chụp ngay sau khi được trả tự do. Cả hai vị linh mục đã sụt cân đáng kể, đặc biệt là Cha Geleta, và đầu của các ngài đều bị cạo trọc. Các linh mục nhìn thẳng vào ống kính, tay phải cầm các mề đay tôn giáo và giơ ngón tay cái bên trái lên. Cha Geleta mỉm cười.

Đức Tổng Giám Mục Borys A. Gudziak của Tổng giáo phận Công Giáo Ukraine ở Philadelphia, phát biểu từ Ukraine, nói với OSV News: “Các ngài đã phải trải qua biết bao chấn thương trong suốt 19 tháng hứng chịu bạo lực của quân xâm lược”.

“Chúng tôi vui mừng vì các ngài được an toàn và chúng tôi hy vọng các ngài có thể hồi phục sau thử thách kinh hoàng này”, ngài nói, đồng thời mô tả các linh mục là “những người tuyên xưng đức tin”, một danh hiệu kính trọng trong lịch sử được sử dụng để mô tả những Kitô hữu đã công khai tuyên xưng Chúa Kitô trong bối cảnh bị đàn áp.

Cùng được trả tự do cùng với hai linh mục còn có Nariman Dzhelyal, phó giám đốc Mejlis của Người Tatar ở Crimea, người bị bắt ở Crimea vào năm 2021; thường dân Olena Piekh và Valeriy Matiushenko, bị giam giữ từ năm 2017; và năm thường dân bị bắt ở Belarus: Mykola Shvets, Natalia Zakharenko, Pavlo Kupriienko, Liudmyla Honcharenko và Kateryna Briukhanova.

Tổng thống Zelenskiy tuyên bố: “Tất cả họ hiện đã được tự do và trở về nhà ở Ukraine”. “Chúng tôi chắc chắn sẽ giải phóng tất cả người dân của mình.”

Hai Cha Levitsky và Geleta cho biết các ngài thường không nhận thức được mình đang ở đâu kể từ khi bị bắt. Quân Nga thường xuyên bịt mắt các ngài khi chuyển trại nên rất khó biết mình đang ở đâu.

Gần đây nhất, cả hai vị được tường trình bị giam giữ tại Trại lao động Kalinin của Nga ở Horlivka, nằm ở vùng Donetsk của Ukraine, nơi hiện đang bị Nga xâm lược. Trong suốt thời gian bị cầm tù hai vị thường xuyên bị tra tấn dã man vì nhất định không nhận tội.

Hai vị đã bị quân Nga bắt hồi giữa tháng Mười Một năm 2022, tại thành phố cảng Berdyansk, thuộc tỉnh Zaporizhzhia ở miền đông Ukraine và đưa tới một nơi không được tiết lộ. Báo chí Nga nói rằng hai linh mục bị cáo buộc các tội “khủng bố, sở hữu chất nổ và hai súng ngắn”, là những tội danh mà các ngài nhất định không nhận tội.

Đầu năm nay, Cha Levitsky được Yevhen Zakharov thuộc Nhóm Bảo vệ Nhân quyền Kharkiv báo cáo rằng đang bị giam giữ trong một nhà tù điều tra ở vùng Rostov của Nga, trong khi Cha Geleta được cho là đang bị giam giữ tại một nhà tù điều tra khác ở Crimea bị Nga tạm chiếm. Cha Geleta được biết là mắc bệnh tiểu đường cấp tính.

Cả hai linh mục đã từ chối rời xa giáo dân của mình sau cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào tháng 2 năm 2022. Ngay sau khi hai Cha Levitsky và Geleta bị bắt, Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk, nhà lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo Đông Phương Ukraine, cho biết ngài đã nhận được “tin buồn rằng các linh mục của chúng tôi đang bị tra tấn không thương tiếc.”

Thông tấn xã Tass của Nga đã báo cáo trước đó vào tháng 6 rằng Tatyana Moskalkova, ủy viên nhân quyền của Putin, tuyên bố trên Telegram ngày 23 tháng 5 rằng Nga đã đề xuất trao đổi hai linh mục Công Giáo giấu tên lấy hai linh mục Chính thống giáo đang bị chính quyền Kiev giam cầm.

Đức Tổng Giám Mục Shevchuk đã nhiều lần kêu gọi trả tự do cho hai linh mục và lặp lại lời cầu xin của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về một cuộc trao đổi tù nhân “tất cả cho tất cả” giữa Nga và Ukraine.

Moskalkova tuyên bố: “Gần đây tôi đã đến thăm các linh mục Công Giáo tại nơi giam giữ của họ để bảo đảm rằng các điều kiện phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế,” Moskalkova tuyên bố mà không cho biết ngày và địa điểm của cuộc họp. “Về phần họ, họ chỉ đưa ra một yêu cầu duy nhất là được gặp gia đình và bạn bè càng nhanh càng tốt.”

Các nguồn tin tình báo của Ukraine lưu ý rằng Moskalkova đã ở Donetsk bị tạm chiếm vào ngày 3 tháng 5 và đã đến thăm Horlivka cùng với quan chức nhân quyền do Nga bổ nhiệm cho khu vực, Darya Morozova.

Sau khi được trả tự do, hai linh mục Dòng Chúa Cứu Thế đã ứa nước mắt kể lại những trận đòn tàn bạo của lính Nga, thường xuyên là bằng báng súng, dùi cui, và đôi khi là tất cả những gì có sẵn trong tay chúng. Màn tra tấn kinh hoàng nhất là chích điện vào các đầu ngón tay và các vùng nhạy cảm khác trên thân thể.

Cảm nhận của các linh mục là các ngài bị hành hạ vì là các linh mục của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương, và đàn áp tôn giáo là chủ trương của lính Nga.

Đức Tổng Giám Mục Sviatoslav Shevchuk cũng ghi nhận điều này. Ngài cho biết “Vào đầu năm 2024, những “người Cossacks” của cái gọi là “Cộng hòa Nhân Dân Donetsk” đã phong tỏa tất cả các nhà thờ và các vùng lãnh thổ lân cận, đồng thời không cho phép các tín hữu của Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương vào các nhà thờ và lãnh thổ để cầu nguyện và cử hành thánh lễ.”

Trước khi những sự kiện này xảy ra, các linh mục phục vụ trong các nhà thờ này đã bị trục xuất khỏi các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm.

Điều đáng chú ý là vào ngày 26 tháng 12 năm 2022, trên lãnh thổ bị tạm chiếm của vùng Zaporizhzhia, chính quyền xâm lược đã ban hành cái gọi là lệnh cấm Giáo Hội Công Giáo Ukraine nghi lễ Đông phương hoạt động và cấm các tổ chức dịch vụ xã hội của Giáo Hội trong vùng bị tạm chiếm của vùng Zaporizhzhia.

2. Đức Thánh Cha sẽ viếng thăm Giáo phận Trieste vào Chúa nhật, ngày 07 tháng Bảy

Tuy không có chương trình tiếp kiến trong thời kỳ nghỉ hè tháng Bảy này tại Vatican, nhưng Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm tại thành phố Trieste ở miền đông bắc Ý, vào sáng Chúa nhật, ngày 07 tháng Bảy tới đây, nhân dịp bế mạc Tuần lễ xã hội lần thứ 50 của Giáo Hội Công Giáo Ý, sẽ diễn ra từ ngày 03 đến ngày 07 tháng Bảy, với chủ đề: “Nơi trọng tâm nền dân chủ. Sự tham gia giữa lịch sử và tương lai”. Ngày 03 tháng Bảy, Tổng thống Ý, ông Sergio Mattarella sẽ đến khai mạc tuần lễ này.

Trong cuộc viếng thăm này, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ các hiệp hội Công Giáo hoạt động trong lãnh vực xã hội và Caritas. Sau khi đảng dân chủ Thiên Chúa giáo ở Ý sụp đổ, họ tìm kiếm những con đường mới để dấn thân trong đời sống xã hội và chính trị của đất nước. Điều này trở nên khó khăn hơn vì tình hình chính trị chung ở Ý ngày càng có sự đụng độ gay gắt hơn giữa phe hữu và phe tả, mà không có một trung tâm chính trị đúng nghĩa. Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha sẽ nói về vai trò xã hội của các tín hữu Công Giáo ở Ý ngày nay.

Báo chí Ý nói đến sự hiện diện của ông Philippe Donnet, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Hãng bảo hiểm Generali, tại Tuần lễ xã hội này. Đây là công ty đứng thứ sáu trên thế giới, có trụ sở tại Trieste, chủ yếu nâng đỡ những người tị nạn và các gia đình trong tình trạng khủng hoảng, qua một trong các Quỹ An ninh nhân bản.

Chúa nhật tới, ngày 07 tháng Bảy, tại trung tâm hội nghị, Đức Thánh Cha sẽ đọc diễn văn bế mạc Tuần lễ xã hội, rồi trong lúc đó, một ngàn tham dự viên di chuyển đến Quảng trường Thống Nhất Italia, Đức Thánh Cha gặp gỡ một số nhóm khác nhau, như phái đoàn đại kết Kitô, gồm mười lăm người, giới học thuật năm mươi người, một trăm năm mươi người di dân và khuyết tật.

Sau đó, Đức Thánh Cha đến Quảng trường để cử hành thánh lễ, lúc 10 giờ 30 cho các tín hữu.

Sau thánh lễ, dự kiến vào lúc 12 giờ 30, Đức Thánh Cha sẽ đáp trực thăng trở về Vatican, khoảng 2 giờ chiều.

Trieste

Thành phố cảng Trieste có gần 200.000 dân cư, giáp giới với các nước vùng Balkan, và ở trên lộ trình của những người di dân, kể cả những người từ Đông Nam Á, từ nhiều năm phải sống trong những tình trạng không xứng đáng với con người ở Trieste. Hàng trăm người phải sống trong những nhà kho bị phá hủy ở cảng, giữa những rác thải và ổ chuột. Thành phố cảng này ở biên cương của Ý, là nơi gặp gỡ các dân tộc và các nền văn hóa khác.

Theo báo Il Fatto Quotidiano, với sự hỗ trợ của Cao Ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc, phần lớn những người di dân đã được đặt trong những nhà thùng để làm nhà ở. Những người khác được di chuyển đến các thị trấn hoặc huyện lân cận.

Rất có thể trong cuộc viếng thăm, Đức Thánh Cha cũng sẽ đề cập đến tình trạng của người di dân. Trong thời gian chuẩn bị cuộc viếng thăm của ngài, điều kiện sống của người di dân đã mau lẹ được cải tổ.

3. Phiên tòa ly giáo chống lại Đức Tổng Giám Mục Viganò: 5 vấn đề cần xem xét

Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu, là hạn chót Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò phải đáp lại lệnh triệu tập của Vatican. Ngài đã không đáp ứng các yêu cầu của Tòa Thánh. Vạ tuyệt thông có thể được ban bố bất cứ lúc nào.

Trong bối cảnh đó, Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada có bài phân tích nhan đề “Archbishop Viganò’s Schism Case: 5 Issues to Consider”, nghĩa là “Phiên tòa ly giáo chống lại Đức Tổng Giám Mục Viganò: 5 vấn đề cần xem xét” đăng trên tờ National Catholic Register.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Đức Tổng Giám Mục Carlo Maria Viganò đã bị buộc tội ly giáo và được triệu tập để xét xử tại Bộ Giáo lý Đức tin. Để đáp lại cáo buộc nghiêm trọng đó, ngài đã đưa ra một phản ứng kích động – gọi Vatican II là một “bệnh ung thư”, “Bergoglio” là bất hợp pháp – và từ chối trả lời lệnh triệu tập. Vatican đã cho ngài thời hạn đến Thứ Sáu, 28 Tháng Sáu, để trả lời, bằng văn bản hoặc đích thân đến Tòa Thánh, nếu không ngài “sẽ bị xét xử vắng mặt”.

Dưới đây là năm cân nhắc về các vấn đề phức tạp đang diễn ra.

Ngài tìm cách tách khỏi Giáo Hội

Giống như những câu chuyện về Br'er Rabbit, có vẻ như Đức Tổng Giám Mục Viganò muốn bị ném vào mảnh đất trồng cây thạch nam, háo hức với những hậu quả kỷ luật cho hành động của mình. Tại sao ngài lại coi mảnh đất tuyệt thông là lãnh thổ được chào đón là một vấn đề cần suy đoán.

Hoàn toàn có thể đưa ra những lời chỉ trích – mang tính xây dựng hay không – đối với Đức Thánh Cha Phanxicô và chương trình của ngài mà không cần phải đặt vấn đề về tính hợp pháp của ngài hoặc của Công đồng Vatican II. Nhiều tiếng nói Công Giáo, thuộc cả phe bảo thủ lẫn cấp tiến, đã làm như vậy. Đức Tổng Giám Mục Viganò là người duy nhất trong số các giám mục – chưa kể đến các cựu quan chức giáo triều và sứ thần – có những quan điểm cực đoan. Ngay cả những người đồng tình với một số quan điểm của ngài cũng đã thúc giục ngài từ bỏ việc sử dụng “ngôn ngữ bất kính và thiếu tôn trọng”.

Với kinh nghiệm sâu rộng của Đức Tổng Giám Mục Viganò, cần phải coi rằng ngài chọn cách khiêu khích như vậy chính là vì ngài muốn khiêu khích. Kỷ luật theo giáo luật – vạ tuyệt thông hoặc tệ hơn – có thể chính là điều mà Đức Tổng Giám Mục mong muốn.

Việc kết luận rằng Tổng Giám mục Viganò phạm tội ly giáo sẽ chỉ xác nhận điều mà nhiều nhà quan sát đã nghĩ từ lâu, rằng quan điểm đã nêu của ngài đã đặt ngài ra ngoài sự hiệp thông với Đức Thánh Cha. Bản thân Đức Tổng Giám Mục Viganò cũng có thể nghĩ như vậy, vì ngài không muốn hiệp thông với “Bergoglio”, người mà ngài coi không phải là Đức Giáo Hoàng hợp pháp.

Giáo luật thường đưa ra nhiều lựa chọn về hình phạt. Rôma có thể chọn một phương án ít nhiều nghiêm khắc chính xác vì mong muốn rõ ràng của Đức Tổng Giám Mục Viganò là kích động một phản ứng. Rõ ràng là ngài đã khiêu khích; Rôma có thể chọn mức độ khiêu khích mà mình muốn đáp lại. Tòa Thánh không bắt buộc phải cung cấp cho ngài những gì ngài rõ ràng muốn.

Sức khỏe tâm thần của ngài phải là một câu hỏi

Nhà giáo luật Ed Condon của tờ The Pillar lưu ý rằng cáo buộc ly giáo chống lại Đức Tổng Giám Mục Viganò được nhiều người coi là “đã quá hạn từ lâu”, rằng ngài đã đi vào “một quỹ đạo đi xuống dốc”, khi tố cáo Đức Thánh Cha Phanxicô bằng “những thuật ngữ rõ ràng về mặt giáo luật”.

Vì vậy, khi tưởng tượng mình được bổ nhiệm làm luật sư bào chữa cho Đức Tổng Giám Mục Viganò, Condon tự hỏi loại biện hộ nào có thể được đưa ra. Ông gợi ý rằng cách bào chữa tốt nhất là cho rằng vị tổng giám mục đang bị suy giảm năng lực nào đó. Có lẽ ngài đã bị suy sụp tinh thần hoặc cảm xúc nào đó và phát điên.

Điều đó là có cơ sở. Hành vi của ngài kể từ năm 2018, khi ngài đưa ra tuyên bố đầu tiên chống lại Đức Thánh Cha Phanxicô, liên quan đến Đức Hồng Y Theodore McCarrick lúc bấy giờ, đã trở nên thất thường hơn bao giờ hết. Ngài sống ẩn dật. Ngài có ảo tưởng về sự nguy hiểm không? Có lẽ ngài bị bao vây - hoặc thậm chí bị giam giữ - bởi những cộng sự có bản chất đáng ngờ? Ngài nhận được thông tin gì trong quá trình tự động cách ly?

Ngược lại, hãy xem xét Đức Hồng Y Giuse Trần Nhật Quân, giám mục danh dự của Hương Cảng, người sống dưới sự giám sát liên tục của nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc, nhưng ngài tự do đi lại, phát biểu tự do và sẵn sàng trả lời các câu hỏi. Và ngài đã đưa ra một số lời chỉ trích gay gắt về các sáng kiến gần đây của Vatican.

Khi một giám mục đơn độc - có hơn 5.000 giám mục như thế trên toàn thế giới - hành động theo một cách hoàn toàn kỳ lạ và rõ ràng là kỳ quặc, thì hoàn toàn hợp lý khi đặt câu hỏi tại sao lại như vậy. Không thể loại trừ sự điên rồ và các tòa án, theo công lý, có nghĩa vụ phải tính đến khả năng đó khi tuyên án.

Cáo buộc ly giáo là vấn đề nghiêm trọng

Khi công bố – và tố cáo – lệnh triệu tập mình do Bộ Giáo Lý Đức Tin đưa ra, Đức Tổng Giám Mục Viganò đã so sánh mình với Đức Tổng Giám Mục Marcel Lefebvre, người sáng lập Huynh Đoàn Thánh Piô 10 vào những năm 1970, và bị vạ tuyệt thông vào năm 1988 vì tấn phong các giám mục mà không có sự ủy nhiệm của Đức Giáo Hoàng.

Đức Tổng Giám Mục Viganò tự tâng bốc mình. Đức Tổng Giám Mục Lefebvre, bất chấp tất cả những rắc rối sau đó, đã là một nhà truyền giáo đáng ngưỡng mộ ở Phi Châu trong nhiều năm. Thay vì lẩn trốn, ngài đã thành lập một cộng đồng. Đức Tổng Giám Mục Viganò có lẽ đã quan sát thấy rằng nhiều tín hữu của Đức Tổng Giám Mục Lefebvre coi hình phạt của ngài là khắc nghiệt so với mức độ dành cho nhiều người khác vào những năm 1970.

Đó là một điểm quan trọng mà các quan chức Vatican cần phải tính đến. Những gì được coi là nghiêm trọng theo quan điểm giáo luật không phải luôn luôn phù hợp với quan điểm phổ biến trong xã hội. Ví dụ, việc vứt bỏ Bí tích Thánh Thể sẽ bị trừng phạt bằng vạ tuyệt thông tiền kết. Nhưng, giết người hàng loạt thì không. Có những lý do chính đáng giải thích tại sao lại như vậy, và nó đòi hỏi phải nhận thức được rằng những vấn đề siêu nhiên nghiêm trọng hơn những vấn đề tự nhiên.

Tội ly giáo cũng thế. Phá vỡ sự hiệp thông của Giáo hội có nguy cơ cắt đứt ân sủng bí tích của tín hữu. Ở ngoài sự hiệp thông ở cõi trần này có thể dẫn tới việc ở ngoài sự hiệp thông với các thánh trong cõi vĩnh hằng. Đó là lý do tại sao Giáo hội đánh giá rất nghiêm trọng tội ly giáo, ngay cả khi nó không gây ra trong tâm trí người bình dân sự ghê tởm tương tự như trong trường hợp lạm dụng tình dục.

Não trạng “những người kia thì sao”

Thuật ngữ “whataboutism” đã tham gia vào các cuộc tranh luận chính trị và văn hóa trong những năm gần đây. Một bên chỉ trích Donald Trump cách đối xử với phụ nữ. Thay vì đề cập đến cáo buộc, phe của ông Trump nói, “Còn Bill Clinton thì sao”?

Mọi giáo viên - và phụ huynh, về vấn đề đó - đều biết rằng não trạng “những người kia thì sao” nảy sinh trong các vấn đề kỷ luật. Một đứa trẻ bị kỷ luật vì tội X hỏi: “Còn người này người khác cũng đã làm X và không bị trừng phạt thì sao?” Hoặc, “Còn đứa trẻ khác đã làm điều Y, điều đó tệ hơn X thì sao?”

Chỉ vài giờ sau khi có tin tức về Đức Tổng Giám Mục Viganò dòng tiêu đề sau đã xuất hiện, “Phiên xử tội ly giáo Đức Tổng Giám Mục Viganò à… sao không xử Rupnik đi.”

Những cái tên khác có thể được thay thế, nhưng cựu linh mục Dòng Tên Marko Rupnik, là vụ án kỷ luật nổi tiếng nhất còn tồn đọng vào thời điểm hiện tại. Vị linh mục Dòng Tên này đã bị điều tra một thời gian, bị Dòng Tên trục xuất, và sự phẫn nộ toàn cầu đối với việc ông có thể tiếp tục công việc của mình đã buộc Đức Thánh Cha Phanxicô phải ra lệnh mở một cuộc điều tra mới vào mùa thu năm ngoái sau khi đã đình chỉ một cuộc điều tra trước đó do quá thời hiệu.

Não trạng “những người kia thì sao” không phải là lý do thuyết phục khiến việc kỷ luật đối với X không thể được tiến hành vì nó chưa được áp dụng đối với Y. Nhưng nếu có đủ số người tin rằng kỷ luật được áp dụng một cách không công bằng, liệu nó có đe dọa đến uy tín của cơ quan hữu quan không?

Đức Hồng Y Parolin đổ dầu trên mặt nước

Sự can thiệp đáng hoan nghênh đối với lệnh triệu tập của Đức Tổng Giám Mục Viganò đến từ một giới chức có thẩm quyền cao, Đức Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh của Đức Thánh Cha. Ngài bày tỏ sự ngưỡng mộ và buồn bã, hoang mang trước tất cả những gì đang diễn ra.

“Tôi luôn đánh giá cao Đức Tổng Giám Mục như một người làm việc rất tốt, rất trung thành với Tòa Thánh, ở một khía cạnh nào đó, ngài cũng là một tấm gương”, Đức Hồng Y Parolin nói về Đức Tổng Giám Mục Viganò cựu Sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ. “Khi còn là sứ thần Tòa thánh, ngài đã làm việc rất xuất sắc, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.”

Đức Tổng Giám Mục Viganò đã có một sự nghiệp được nhiều người đánh giá cao. Việc bổ nhiệm đầu tiên của ngài với tư cách là Sứ Thần Tòa Thánh, dưới thời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là đến Nigeria, có lẽ là vị trí quan trọng nhất ở Phi Châu. Sau đó, ngài trở lại Rôma trong một vị trí hết sức nhạy cảm, đại diện cho các cơ quan đại diện của Đức Giáo Hoàng, vừa là giám đốc nhân sự vừa là người giám sát các nhà ngoại giao trên toàn thế giới. Sau đó, ngài giữ chức tổng thư ký của quốc gia Thành Vatican, nổi tiếng về việc quản lý hiệu quả và loại bỏ tận gốc nạn tham nhũng. Trở lại vai trò Sứ thần Tòa Thánh tại Hoa Kỳ, ngài được nhiều người kính trọng khi nghỉ hưu vào năm 2016.

Khi Đức Tổng Giám Mục Viganò đưa ra tuyên bố đầu tiên vào năm 2018, một số giám mục Hoa Kỳ đã bày tỏ sự tin tưởng vào danh tiếng về sự trung thực của ngài và nói rằng những tuyên bố của ngài cần được điều tra.

Những nhận xét trung thực của Đức Hồng Y Parolin là một lời đáp trả đáng hoan nghênh dành cho những người không trung thực muốn đọc lại quá khứ của Đức Tổng Giám Mục Viganò trong những năm gần đây một cách tiêu cực, để mà lên án những người đã ca ngợi ngài trước khi quỹ đạo đi xuống của ngài trở nên rõ ràng.

Bây giờ điều hiển nhiên đối với tất cả mọi người, là cần có những bình luận sáng suốt từ tất cả các bên để hạn chế thiệt hại mà trường hợp Đức Tổng Giám Mục Viganò đã gây ra.


Source:National Catholic Register