Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 04/01: Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a – Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ - TGP Hà Nội
Giáo Hội Năm Châu
01:21 03/01/2025
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
Khi ấy, ông Gio-an đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: “Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Họ đáp: “Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?” Người bảo họ: “Đến mà xem.” Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười.
Ông An-rê, anh ông Si-môn Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-môn và nói : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-môn và nói: “Anh là Si-môn, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha” (tức là Phê-rô).
Đó là lời Chúa
Hiển Linh Hành trình đức tin
Lm Nguyễn Xuân Trường
03:39 03/01/2025
Hiển linh HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN
Phúc Âm lễ Chúa Hiển Linh kể chuyện các nhà chiêm tinh hành hương tìm kiếm thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Đó cũng là hành trình đức tin của mỗi chúng ta: hành hương gặp gỡ Chúa và thay đổi đời sống của mình.
1. Lên đường. Trong Năm Thánh này có thể coi các nhà chiêm tinh là những người hành hương hy vọng. Mặc dù, các thượng tế và kinh sư thông thạo Kinh Thánh đã biết Hài Nhi Giêsu sinh ra ở Bêlem, nhưng họ ngồi yên ở nhà, họ sợ dấn thân. Còn các nhà chiêm tinh đã ra khỏi nhà mình, lặn lội lên đường hành hương hy vọng tìm gặp Chúa. Vua Hêrôđê thì chỉ lo cho bản thân mình, ông không đi ra khỏi ngai vàng của mình, ông không tin Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Độ. Các nhà chiêm tinh không chỉ ra khỏi nhà, mà còn ra khỏi niềm tin về một Thiên Chúa quyền uy cao sang, để sấp mình thờ lạy một Thiên Chúa yêu thương khiêm nhường nơi Hài Nhi Giêsu. Khi đã có một niềm tin mới về Thiên Chúa, thì tiếp theo, họ cũng thay đổi một lối sống mới.
2. Đổi hướng. Các nhà chiêm tinh sau khi thờ lạy và dâng lễ vật cho Hài Nhi Giêsu, thì các ông đã không quay trở lại đường cũ, mà đi về lối khác. Lối khác gợi lên một lối sống mới của những người đã gặp và tin Chúa thực sự. Sau cuộc hành hương tìm gặp Chúa, các nhà chiêm tinh bắt đầu một hành trình mới sâu sắc hơn: không còn là hành trình đường xá không gian bên ngoài, mà là hành trình thay đổi ở bên trong tâm hồn và trong lối sống suốt cuộc đời của mình. Từ nay, họ không đi con đường của thế gian nữa, mà đi con đường của Chúa, con đường của tin tưởng, yêu thương và hy vọng.
Ước gì như các nhà chiêm tinh, nhờ lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta cũng sẽ thay đổi, bắt đầu một lối sống khác tin tưởng hơn, hy vọng hơn, yêu thương hơn. Nhờ đó, mỗi người làm lộ ra hình ảnh Chúa nơi bản thân mình như Chúa đã hiển linh nơi con người Giêsu năm xưa. Amen.
Phúc Âm lễ Chúa Hiển Linh kể chuyện các nhà chiêm tinh hành hương tìm kiếm thờ lạy Hài Nhi Giêsu. Đó cũng là hành trình đức tin của mỗi chúng ta: hành hương gặp gỡ Chúa và thay đổi đời sống của mình.
1. Lên đường. Trong Năm Thánh này có thể coi các nhà chiêm tinh là những người hành hương hy vọng. Mặc dù, các thượng tế và kinh sư thông thạo Kinh Thánh đã biết Hài Nhi Giêsu sinh ra ở Bêlem, nhưng họ ngồi yên ở nhà, họ sợ dấn thân. Còn các nhà chiêm tinh đã ra khỏi nhà mình, lặn lội lên đường hành hương hy vọng tìm gặp Chúa. Vua Hêrôđê thì chỉ lo cho bản thân mình, ông không đi ra khỏi ngai vàng của mình, ông không tin Hài Nhi Giêsu là Đấng Cứu Độ. Các nhà chiêm tinh không chỉ ra khỏi nhà, mà còn ra khỏi niềm tin về một Thiên Chúa quyền uy cao sang, để sấp mình thờ lạy một Thiên Chúa yêu thương khiêm nhường nơi Hài Nhi Giêsu. Khi đã có một niềm tin mới về Thiên Chúa, thì tiếp theo, họ cũng thay đổi một lối sống mới.
2. Đổi hướng. Các nhà chiêm tinh sau khi thờ lạy và dâng lễ vật cho Hài Nhi Giêsu, thì các ông đã không quay trở lại đường cũ, mà đi về lối khác. Lối khác gợi lên một lối sống mới của những người đã gặp và tin Chúa thực sự. Sau cuộc hành hương tìm gặp Chúa, các nhà chiêm tinh bắt đầu một hành trình mới sâu sắc hơn: không còn là hành trình đường xá không gian bên ngoài, mà là hành trình thay đổi ở bên trong tâm hồn và trong lối sống suốt cuộc đời của mình. Từ nay, họ không đi con đường của thế gian nữa, mà đi con đường của Chúa, con đường của tin tưởng, yêu thương và hy vọng.
Ước gì như các nhà chiêm tinh, nhờ lễ Chúa Hiển Linh, chúng ta cũng sẽ thay đổi, bắt đầu một lối sống khác tin tưởng hơn, hy vọng hơn, yêu thương hơn. Nhờ đó, mỗi người làm lộ ra hình ảnh Chúa nơi bản thân mình như Chúa đã hiển linh nơi con người Giêsu năm xưa. Amen.
Ngài Đã Ở Đây, Trước Đó
Nguyễn Trung Tây
06:43 03/01/2025
Nguyễn Trung Tây
Ngài Đã Ở Đây, Trước Đó – John 1:29
Trong quá khứ, những nhà truyền giáo được hiểu là họ phải vượt đường biên giới quốc gia để mang Tin Mừng của Đức Giêsu tới những vùng đất dân ngoại, nơi đó người dân địa phương chưa nhận ra Đức Giêsu Kitô.
Nhưng cách hiểu đặc thù này đã thay đổi. Nhiều lý do đã đóng góp vào sự thay đổi này. Mô hình Gioan Tiền Hô khi gặp Đức Giêsu là một trong những lý do. Theo như Tin Mừng Gioan, khi nhận ra Đức Giêsu xuất hiện giữa đám đông người Do Thái, ngôn sứ Gioan đã giới thiệu Ngài tới người dân Do Thái bằng một tuyên ngôn truyền giáo: “Đây Chiên Thiên Chúa” (John 1:29).
Qua tuyên ngôn truyền giáo John 1:29, ngôn sứ Gioan Tiền Hô đưa ra đồng thời cũng xác nhận một nét thần học. Đó là, Đức Giêsu đã và đang xuất hiện, đồng hành, và sinh hoạt với người địa phương. Nhiệm vụ của nhà lãnh đạo tôn giáo Gioan chính là giới thiệu Đức Giêsu Kitô, Đấng đang có mặt trong vùng nhưng chưa được nhận ra, tới người dân địa phương.
Tương tự như thế, dựa vào mô hình truyền giáo Gioan Tiền Hô, nhà truyền giáo và các vị lãnh đạo giáo hội địa phương ngày hôm nay, cũng có nhiệm vụ giúp người dân bản xứ nhận ra Đức Giêsu Kitô đã ở đây, trước đó, giữa người dân địa phương.
Chuyện kể trong nhà nguyện của một giáo xứ truyền giáo tại đảo quốc Samoa có một bức tranh tường. Người họa sĩ vẽ bức tranh diễn tả lại giây phút người dân bản xứ kéo tới bãi biển chào đón thuyền gỗ chở những nhà truyền giáo phương xa. Giữa đám đông dân chúng tụ họp tại bãi biển, người ta nhận ra Đức Giêsu cũng đứng giữa cư dân địa phương. Ngài cũng tươi cười rạng rỡ chào đón những nhà truyền giáo thuyền gỗ. Thần học gia kết thúc bài giảng hôm đó bằng một câu hóm hỉnh, “Thật là bất ngờ, Đức Giêsu Kitô cất tiếng hỏi những nhà truyền giáo một câu: ‘Thầy đã sinh hoạt ở đây từ bao lâu rồi! Sao mãi bây giờ các con mới tới?’”
(Trích "Suy Niệm Ta Thương Tổn Ta" sẽ xuất bản)
Ngài Đã Ở Đây, Trước Đó – John 1:29
Trong quá khứ, những nhà truyền giáo được hiểu là họ phải vượt đường biên giới quốc gia để mang Tin Mừng của Đức Giêsu tới những vùng đất dân ngoại, nơi đó người dân địa phương chưa nhận ra Đức Giêsu Kitô.
Nhưng cách hiểu đặc thù này đã thay đổi. Nhiều lý do đã đóng góp vào sự thay đổi này. Mô hình Gioan Tiền Hô khi gặp Đức Giêsu là một trong những lý do. Theo như Tin Mừng Gioan, khi nhận ra Đức Giêsu xuất hiện giữa đám đông người Do Thái, ngôn sứ Gioan đã giới thiệu Ngài tới người dân Do Thái bằng một tuyên ngôn truyền giáo: “Đây Chiên Thiên Chúa” (John 1:29).
Qua tuyên ngôn truyền giáo John 1:29, ngôn sứ Gioan Tiền Hô đưa ra đồng thời cũng xác nhận một nét thần học. Đó là, Đức Giêsu đã và đang xuất hiện, đồng hành, và sinh hoạt với người địa phương. Nhiệm vụ của nhà lãnh đạo tôn giáo Gioan chính là giới thiệu Đức Giêsu Kitô, Đấng đang có mặt trong vùng nhưng chưa được nhận ra, tới người dân địa phương.
Tương tự như thế, dựa vào mô hình truyền giáo Gioan Tiền Hô, nhà truyền giáo và các vị lãnh đạo giáo hội địa phương ngày hôm nay, cũng có nhiệm vụ giúp người dân bản xứ nhận ra Đức Giêsu Kitô đã ở đây, trước đó, giữa người dân địa phương.
Chuyện kể trong nhà nguyện của một giáo xứ truyền giáo tại đảo quốc Samoa có một bức tranh tường. Người họa sĩ vẽ bức tranh diễn tả lại giây phút người dân bản xứ kéo tới bãi biển chào đón thuyền gỗ chở những nhà truyền giáo phương xa. Giữa đám đông dân chúng tụ họp tại bãi biển, người ta nhận ra Đức Giêsu cũng đứng giữa cư dân địa phương. Ngài cũng tươi cười rạng rỡ chào đón những nhà truyền giáo thuyền gỗ. Thần học gia kết thúc bài giảng hôm đó bằng một câu hóm hỉnh, “Thật là bất ngờ, Đức Giêsu Kitô cất tiếng hỏi những nhà truyền giáo một câu: ‘Thầy đã sinh hoạt ở đây từ bao lâu rồi! Sao mãi bây giờ các con mới tới?’”
(Trích "Suy Niệm Ta Thương Tổn Ta" sẽ xuất bản)
Đời đời hơn
Lm Minh Anh
16:09 03/01/2025
ĐỜI ĐỜI HƠN
“Đến mà xem!”.
“Mọi con đường trong cuộc đời đều kết thúc ở nấm mồ. Con đường của các tôn giáo, con đường danh vọng và thành công không bao giờ có thể đưa bạn qua lũng tối của cái chết. Chỉ con đường Giêsu mới làm được điều đó. Ngài sẽ dẫn bạn đến một nơi giàu có hơn, đời đời hơn, nếu bạn đặt trọn niềm tin vào Ngài!” - Carol Berubee.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Gioan Tiền Hô để các đồ đệ của mình chọn đi con đường Giêsu. Dõi theo vị ‘Thầy mới’, họ dè dặt, “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”; Ngài bảo, “Đến mà xem!” - không là một tấm danh thiếp, nhưng là một lời mời - Họ đã đến, xem, và “ở lại với Ngài”. Kìa! Nào ai biết, nhờ nghĩa cử hào hiệp này, thầy trò Gioan Tiền Hô đã trở nên giàu có hơn, ‘đời đời hơn!’.
Trên đường trần, có rất nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp sớm rơi vào quên lãng; có những cuộc gặp mà sau khi chia tay, bạn cảm thấy mình nghèo hơn. Nhưng cũng có những cuộc gặp khiến một số người đổi đời, chẳng hạn cuộc gặp gỡ của các môn đệ Gioan với Chúa Giêsu hôm nay. Đó là cuộc gặp gỡ làm cho phong phú, đổi đời, đời đời và còn hơn thế, ‘cứu đời’; bởi lẽ hàng chục năm sau, khi viết Tin Mừng thứ tư, Gioan - người đi theo Chúa Giêsu chiều hôm ấy - vẫn còn nhớ chính xác thời điểm, “Lúc đó khoảng giờ thứ mười”, tức khoảng bốn giờ chiều.
Tính giản dị của cuộc gặp khiến độc giả hụt hẫng. Họ muốn biết về những gì các môn đệ đã thấy ‘chiều ngày định mệnh’ ấy; họ muốn biết ‘nơi chỗ’ mà vị ‘Thầy mới’ tiếp ‘quý khách’; và nhất là ‘nội dung’ của cuộc gặp. Thế nhưng, tác giả không nói gì về chủ đề này - không một lời về nơi chỗ, một lời về diễn biến - chỉ có thời giờ nhưng cũng phỏng chừng.
Thế mà chiều ngày hôm ấy, một điều gì đó mang tính quyết định đã xảy ra; vì đó là cuộc gặp gỡ đã thay đổi ‘đến mấy’ cuộc đời - niềm vui, ánh sáng tràn ngập trong trái tim họ như một dòng sông dữ dội - Anrê vồn vã thổ lộ, “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia” và dẫn Simon em mình đến gặp Chúa Giêsu. Hôm sau, Philipphê, đến lượt mình, cũng tuyên bố, “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp Ngài!”.
Cảm nhận việc đúng đắn khi đi theo vị ‘Thầy mới’, về sau Gioan viết, “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, đừng để ai làm cho anh em đi lạc đường!” - bài đọc một. Đi theo Giêsu, họ trở nên giàu hơn, ‘đời đời hơn’; và qua họ, ơn cứu độ được loan truyền cho thế giới, “Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Đến mà xem!”. Gioan Tẩy Giả đã dun dũi các đồ đệ của mình đến và xem Chúa Giêsu. Đó hẳn là một trải nghiệm buồn vui lẫn lộn. Ở một mức độ nào đó, có lẽ Gioan cảm thấy mất đi những đồ đệ của mình; nhưng mất mát này được đền bù bởi một niềm vui lớn hơn khi biết rằng, mình đang hoàn thành mục đích sứ vụ khi hướng người khác đến với Chúa Kitô. Tình yêu đích thực của người môn đệ Kitô luôn luôn vị tha, tập trung vào Chúa Kitô, hướng người khác về Ngài. Và Gioan là tấm gương tuyệt vời về nhân đức này; nhờ đó, thầy trò họ trở nên phong phú hơn, ‘đời đời hơn’. Bạn và tôi được mời gọi hãy làm vậy!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con nghèo đi khi không dám buông bỏ. Cho con biết ‘dun dũi’ những ai đến với con về phía Chúa, hầu con bớt tục luỵ nhưng trở nên ‘đời đời!’”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Đến mà xem!”.
“Mọi con đường trong cuộc đời đều kết thúc ở nấm mồ. Con đường của các tôn giáo, con đường danh vọng và thành công không bao giờ có thể đưa bạn qua lũng tối của cái chết. Chỉ con đường Giêsu mới làm được điều đó. Ngài sẽ dẫn bạn đến một nơi giàu có hơn, đời đời hơn, nếu bạn đặt trọn niềm tin vào Ngài!” - Carol Berubee.
Kính thưa Anh Chị em,
Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Gioan Tiền Hô để các đồ đệ của mình chọn đi con đường Giêsu. Dõi theo vị ‘Thầy mới’, họ dè dặt, “Thưa Thầy, Thầy ở đâu?”; Ngài bảo, “Đến mà xem!” - không là một tấm danh thiếp, nhưng là một lời mời - Họ đã đến, xem, và “ở lại với Ngài”. Kìa! Nào ai biết, nhờ nghĩa cử hào hiệp này, thầy trò Gioan Tiền Hô đã trở nên giàu có hơn, ‘đời đời hơn!’.
Trên đường trần, có rất nhiều cuộc gặp gỡ. Có những cuộc gặp sớm rơi vào quên lãng; có những cuộc gặp mà sau khi chia tay, bạn cảm thấy mình nghèo hơn. Nhưng cũng có những cuộc gặp khiến một số người đổi đời, chẳng hạn cuộc gặp gỡ của các môn đệ Gioan với Chúa Giêsu hôm nay. Đó là cuộc gặp gỡ làm cho phong phú, đổi đời, đời đời và còn hơn thế, ‘cứu đời’; bởi lẽ hàng chục năm sau, khi viết Tin Mừng thứ tư, Gioan - người đi theo Chúa Giêsu chiều hôm ấy - vẫn còn nhớ chính xác thời điểm, “Lúc đó khoảng giờ thứ mười”, tức khoảng bốn giờ chiều.
Tính giản dị của cuộc gặp khiến độc giả hụt hẫng. Họ muốn biết về những gì các môn đệ đã thấy ‘chiều ngày định mệnh’ ấy; họ muốn biết ‘nơi chỗ’ mà vị ‘Thầy mới’ tiếp ‘quý khách’; và nhất là ‘nội dung’ của cuộc gặp. Thế nhưng, tác giả không nói gì về chủ đề này - không một lời về nơi chỗ, một lời về diễn biến - chỉ có thời giờ nhưng cũng phỏng chừng.
Thế mà chiều ngày hôm ấy, một điều gì đó mang tính quyết định đã xảy ra; vì đó là cuộc gặp gỡ đã thay đổi ‘đến mấy’ cuộc đời - niềm vui, ánh sáng tràn ngập trong trái tim họ như một dòng sông dữ dội - Anrê vồn vã thổ lộ, “Chúng tôi đã gặp Đấng Messia” và dẫn Simon em mình đến gặp Chúa Giêsu. Hôm sau, Philipphê, đến lượt mình, cũng tuyên bố, “Đấng mà sách luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp Ngài!”.
Cảm nhận việc đúng đắn khi đi theo vị ‘Thầy mới’, về sau Gioan viết, “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, đừng để ai làm cho anh em đi lạc đường!” - bài đọc một. Đi theo Giêsu, họ trở nên giàu hơn, ‘đời đời hơn’; và qua họ, ơn cứu độ được loan truyền cho thế giới, “Toàn cõi đất này đã xem thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta!” - Thánh Vịnh đáp ca.
Anh Chị em,
“Đến mà xem!”. Gioan Tẩy Giả đã dun dũi các đồ đệ của mình đến và xem Chúa Giêsu. Đó hẳn là một trải nghiệm buồn vui lẫn lộn. Ở một mức độ nào đó, có lẽ Gioan cảm thấy mất đi những đồ đệ của mình; nhưng mất mát này được đền bù bởi một niềm vui lớn hơn khi biết rằng, mình đang hoàn thành mục đích sứ vụ khi hướng người khác đến với Chúa Kitô. Tình yêu đích thực của người môn đệ Kitô luôn luôn vị tha, tập trung vào Chúa Kitô, hướng người khác về Ngài. Và Gioan là tấm gương tuyệt vời về nhân đức này; nhờ đó, thầy trò họ trở nên phong phú hơn, ‘đời đời hơn’. Bạn và tôi được mời gọi hãy làm vậy!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, đừng để con nghèo đi khi không dám buông bỏ. Cho con biết ‘dun dũi’ những ai đến với con về phía Chúa, hầu con bớt tục luỵ nhưng trở nên ‘đời đời!’”, Amen.
(Tgp. Huế)
Lên đường đổi hướng
Lm Nguyễn Xuân Trường
17:59 03/01/2025
Chúa Nhật Lễ Hiển Linh (C)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:31 03/01/2025
CHÚA NHẬT LỄ HIỂN LINH
Tin Mừng: Mt 2, 1-12.
“Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Ngài.”
Bạn thân mến,
Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy nổi bật lên hai khuôn mặt thật của hai loại người: một là khuôn mặt dối trá thâm hiểm của vua Hê-rô-đê, hai là khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đến từ phương Đông.
Khuôn mặt dối trá và thâm hiểm của vua Hê-rô-đê đã đánh lừa được những người hiền lành chất phác, nhưng ông ta không thể đánh lừa được Thiên Chúa, những mưu mô tận đáy lòng của ông đã không che giấu được con mắt của Thiên Chúa, là Đấng luôn nhìn thấy và che chở những người hiền lành. Ông ta đã thất bại chua cay vì có Chúa can thiệp và phá vỡ âm mưu thâm hiểm của ông ta.
Khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đã cho chúng ta thấy các ông là những người yêu thích và luôn tìm kiếm chân lý trong cuộc sống của mình. Thái độ và khuôn mặt thật thà ấy đã làm cho vua Hê-rô-đê hí hửng vui mừng vì rất dễ dàng đánh lừa được họ, nhưng chính Thiên Chúa đã không để những người thành tâm tìm kiếm chân lý bị người khác lợi dụng bắt nạt, Ngài đã ra tay cứu giúp, và các vị hiền sĩ trở về quê nhà cách bình an...
Bạn thân mến,
Trong con người của bạn và tôi đều có hai khuôn mặt: khuôn mặt của Hê-rô-đê tàn ác và khuôn mặt thành kính thật thà của ba nhà hiền sĩ...
Khuôn mặt tàn ác đã làm cho chúng ta trở thành những tên lừa dối anh em chị em của mình, khuôn mặt gian thâm này đã làm cho chúng ta không nhìn thấy được thiện chí của tha nhân, nên chúng ta vẫn cứ mãi lừa dối và mưu hại anh em và người khác để thoả mãn lòng tham của mình. Trái lại, khuôn mặt thành kính thật thà nơi bạn và tôi sẽ làm cho nhiều người nhận ra Đức Chúa Ki-tô đang hiện diện và hoạt động trong thái độ thân tình, yêu mến và khiêm tốn của chúng ta, và đó chính là một sự chọn lựa: chọn khuôn mặt của Hê-rô-đê hay chọn khuôn mặt của các nhà hiền sĩ, tất cả đều lệ thuộc vào đức tin và cuộc sống của mình mà thôi.
Lễ Hiển Linh là ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, có nghĩa là ơn cứu độ của Thiên Chúa không dành cho một ai, nhưng là hể ai thành tâm đón nhận Tin Mừng thì sẽ được ơn cứu độ.
Thành tâm đón nhận Tin Mừng như ba nhà hiền sĩ phương Đông, hoặc thành tâm đón nhận Tin Mừng như các mục đồng của thành Bê-lem là đón nhận, và trở thành những ánh sao lạ chiếu soi Tin Mừng của Chúa cho mọi người, đó cũng là sứ điệp truyền giáo mà Giáo Hội đang ngày đêm thúc giục chúng ta, hãy làm tất cả những gì có thể để Lời Chúa được mau chạy đến với các linh hồn vậy.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Tin Mừng: Mt 2, 1-12.
“Từ phương Đông chúng tôi đến bái lạy Ngài.”
Bạn thân mến,
Đọc bài Tin Mừng hôm nay chúng ta thấy nổi bật lên hai khuôn mặt thật của hai loại người: một là khuôn mặt dối trá thâm hiểm của vua Hê-rô-đê, hai là khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đến từ phương Đông.
Khuôn mặt dối trá và thâm hiểm của vua Hê-rô-đê đã đánh lừa được những người hiền lành chất phác, nhưng ông ta không thể đánh lừa được Thiên Chúa, những mưu mô tận đáy lòng của ông đã không che giấu được con mắt của Thiên Chúa, là Đấng luôn nhìn thấy và che chở những người hiền lành. Ông ta đã thất bại chua cay vì có Chúa can thiệp và phá vỡ âm mưu thâm hiểm của ông ta.
Khuôn mặt ngây thơ thật thà và thành kính của ba nhà hiền sĩ đã cho chúng ta thấy các ông là những người yêu thích và luôn tìm kiếm chân lý trong cuộc sống của mình. Thái độ và khuôn mặt thật thà ấy đã làm cho vua Hê-rô-đê hí hửng vui mừng vì rất dễ dàng đánh lừa được họ, nhưng chính Thiên Chúa đã không để những người thành tâm tìm kiếm chân lý bị người khác lợi dụng bắt nạt, Ngài đã ra tay cứu giúp, và các vị hiền sĩ trở về quê nhà cách bình an...
Bạn thân mến,
Trong con người của bạn và tôi đều có hai khuôn mặt: khuôn mặt của Hê-rô-đê tàn ác và khuôn mặt thành kính thật thà của ba nhà hiền sĩ...
Khuôn mặt tàn ác đã làm cho chúng ta trở thành những tên lừa dối anh em chị em của mình, khuôn mặt gian thâm này đã làm cho chúng ta không nhìn thấy được thiện chí của tha nhân, nên chúng ta vẫn cứ mãi lừa dối và mưu hại anh em và người khác để thoả mãn lòng tham của mình. Trái lại, khuôn mặt thành kính thật thà nơi bạn và tôi sẽ làm cho nhiều người nhận ra Đức Chúa Ki-tô đang hiện diện và hoạt động trong thái độ thân tình, yêu mến và khiêm tốn của chúng ta, và đó chính là một sự chọn lựa: chọn khuôn mặt của Hê-rô-đê hay chọn khuôn mặt của các nhà hiền sĩ, tất cả đều lệ thuộc vào đức tin và cuộc sống của mình mà thôi.
Lễ Hiển Linh là ngày Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, có nghĩa là ơn cứu độ của Thiên Chúa không dành cho một ai, nhưng là hể ai thành tâm đón nhận Tin Mừng thì sẽ được ơn cứu độ.
Thành tâm đón nhận Tin Mừng như ba nhà hiền sĩ phương Đông, hoặc thành tâm đón nhận Tin Mừng như các mục đồng của thành Bê-lem là đón nhận, và trở thành những ánh sao lạ chiếu soi Tin Mừng của Chúa cho mọi người, đó cũng là sứ điệp truyền giáo mà Giáo Hội đang ngày đêm thúc giục chúng ta, hãy làm tất cả những gì có thể để Lời Chúa được mau chạy đến với các linh hồn vậy.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
-----------
http://www.vietcatholic.net
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://www.nhantai.info
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Số lượng kỷ lục thanh thiếu niên đổ về Salt Lake City để tham dự SEEK25
Vũ Văn An
13:26 03/01/2025
Kate Quiñones của CNA, ngày 2 tháng 1 năm 2025, tường trình rằng hơn 21,000 người đã bắt đầu năm mới bằng cách tìm kiếm Chúa Giêsu tại hội nghị dành cho thanh thiếu niên Công Giáo lớn nhất trong năm tại Hoa Kỳ, được tổ chức tại hai địa điểm. SEEK25, do Fellowship of Catholic University Students (FOCUS) tổ chức, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 5 tháng 1 tại Salt Lake City và từ ngày 2 đến ngày 5 tháng 1 tại Washington, D.C.
Chương trình kéo dài bốn ngày này quy tụ những người Công Giáo từ khắp Bắc Mỹ. Năm nay, số lượng đăng ký đạt kỷ lục mới với 17,274 người tham gia trả phí tại Salt Lake City. Ngoài địa điểm thứ hai tại Washington, D.C., với 3,355 người đăng ký đã bán hết vé, SEEK còn có một hội nghị nhỏ hơn tại Cologne, Đức, năm nay với 486 người tham dự đã đăng ký.
Một lượng lớn người tham dự tại Salt Lake City đến từ các cơ sở của FOCUS, nơi các nhà truyền giáo của FOCUS giúp xây dựng các cộng đồng Công Giáo trong khuôn viên trường. Khoảng 11,084 sinh viên từ các cơ sở của FOCUS đã đăng ký tham gia SEEK, tăng 16% so với năm ngoái. 1,672 sinh viên khác đến từ các cơ sở không thuộc FOCUS, tăng 36%.
Biến cố này cũng thu hút 46 giám mục, tăng so với con số kỷ lục là 44 của năm ngoái.
Trong khi SEEK hướng đến sinh viên đại học, những người lớn trong chương trình “Making Missionary Disciples” cũng tham dự biến cố này cũng như các gia đình có con nhỏ.
Tại trung tâm hội nghị, Salt Palace, những người tham dự SEEK rất đông, xếp hàng dọc các bức tường, lấp đầy hành lang, reo hò và vẫy cờ đại diện cho các trường đại học khác nhau của họ.
Đám đông phấn khởi chủ yếu là những người trẻ tuổi trở nên im lặng khi Thánh lễ khai mạc bắt đầu, diễn ra vào đêm Ngày đầu năm mới, ngày lễ Đức Mẹ Maria, Mẹ Thiên Chúa. Bài thánh ca “Sing of Mary” cũng vang lên khi hơn 100 linh mục diễu hành qua hội trường chính, bao gồm cả Giám mục Oscar Solis của Salt Lake City. Phải mất hai bài hát rước kiệu thì tất cả các linh mục mới diễu hành vào, hôn bàn thờ và ngồi vào chỗ của mình.
Trong bài giảng, ĐC Solis tập trung vào năm mới cũng như Năm Thánh Hy Vọng 2025.
SEEK nổi tiếng với các bài phát biểu quan trọng, năm nay được phát trực tiếp trên EWTN.
Bài phát biểu quan trọng đầu tiên của hội nghị là Arthur Brooks, một giáo sư và tác giả của Harvard, người đã nói về hạnh phúc. Trong bài phát biểu của mình, GS Brooks đã nhấn mạnh rằng sự hài lòng không phải là vĩnh viễn và hạnh phúc đến từ việc có ý nghĩa trong cuộc sống.
"Có ý nghĩa là chìa khóa", ông nói với những người tham dự SEEK. "Lý do sống của bạn là tối quan trọng". GS Brooks lưu ý rằng nhiều người trong nền văn hóa của chúng ta đã gặp phải tình trạng mất ý nghĩa, điều mà ông liên hệ với cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần. Ông cho biết, thật khó để tìm thấy hạnh phúc khi bạn không biết "lý do" của cuộc sống mình.
Sơ Mary Grace, SV, một Nữ tu Úc của Life và là một diễn giả chính khác, tập trung vào ý nghĩa, Chúa Kitô và sự nghỉ ngơi của Thiên Chúa. Sơ lưu ý rằng tất cả chúng ta đều “tìm kiếm sự nghỉ ngơi thực sự” và rằng “Thiên Chúa có thể đưa vinh quang vào mọi câu chuyện, không loại trừ hay loại trừ bất cứ ai.
“Sự nghỉ ngơi trong bình an không bao giờ chỉ dành riêng cho những người trung thành đã khuất, hoặc những người đã nghỉ hưu, hoặc những người có khả năng chi trả”, Sơ Mary Grace nói với những người tham dự. “Bản thân Sáng thế cho thấy rằng Thiên Chúa đã dành sáu ngày để sáng tạo, nhưng đỉnh cao không đến vào ngày thứ bảy, khi Thiên Chúa nghỉ ngơi và chúng ta nghỉ ngơi trong Người. Sự nghỉ ngơi của Thiên Chúa là phương thuốc duy nhất cho những trái tim nặng trĩu”.
Hội nghị tiếp tục diễn ra sôi nổi vào thứ năm, ngày 2 tháng 1, với buổi cầu nguyện mân côi buổi sáng tiếp theo là Thánh lễ. Hương vẫn còn vương trên không trung khi những người tham dự chia thành các hội trường riêng biệt cho các phiên thảo luận nhóm của nam và nữ. Hàng đoàn đàn ông diễu hành đến tham dự phiên thảo luận với Cha Dave Pivonka, TOR, chủ tịch Đại học Franciscan, trong khi những người phụ nữ tụ tập để nghe Fallon Scanlan, một nhân viên lâu năm của FOCUS, người đã nói về ý nghĩa của việc trở thành một người phụ nữ.
Phần còn lại của ngày tràn ngập các phiên thảo luận nhóm từ các diễn giả bao gồm Tammy Peterson, người dẫn chương trình podcast và là vợ của nhà tâm lý học kiêm tác giả Jordan Peterson, người đã nói về lòng biết ơn và sự cải đạo gần đây của bà sang Công Giáo, và Trent Horn, nhà biện hộ và tác giả của Catholic Answers, người đã chia sẻ câu chuyện trở lại đạo của mình trong một bài nói chuyện có tên là "Tại sao chúng ta là người Công Giáo".
Giữa các phiên thảo luận nhóm, những người tham dự đi dạo quanh “Mission Way”, một khu vực lớn có các gian hàng do đại diện của các tông đồ Công Giáo, các trường cao đẳng và các dòng tu điều hành.
Cha Mike Schmitz là người lên sân khấu vào buổi tối, sau đó là các cơ hội cầu nguyện và cộng đồng, bao gồm khiêu vũ swing và khiêu vũ theo hàng.
Vào ngày thứ chín của lễ Giáng sinh
Vũ Văn An
14:05 03/01/2025
Francis X. Maier, trên The Catholic Thing, Thứ sáu, ngày 3 tháng 1 năm 2025, tâm sự: Trong nhà chúng tôi, chúng tôi bám víu vào mùa Giáng sinh như những người sống sót sau một chiếc tàu hơi nước bị ngư lôi đánh chìm. Cây thông vẫn đứng cho đến khi nó trở thành mối nguy hiểm hỏa hoạn. Các bài thánh ca giáng sinh vẫn được chơi cho tới Lễ Chúa chịu phép rửa, với một hoặc hai bài hát nữa cho đến Lễ Nến. Chúng tôi không dẹp hang đá cho đến Lễ dâng Chúa vào Đền Thờ. Lễ Giáng sinh là điểm tựa cho cả năm của chúng tôi.
Người ta có thể hỏi tại sao. Đó là một câu hỏi hợp lý. Lễ Phục sinh, không phải Giáng sinh, là sự kiện trung tâm của lịch Công Giáo. Và than ôi, Giáng sinh giờ đây đi kèm với một loạt các hoạt động thương mại thô tục. Một số trong số đó có tính giải trí. John Travolta trong vai Ông già Noel, rao bán thẻ Capital One theo nhịp điệu của bài hát "Stayin' Alive", là một thiên tài tiếp thị. Quảng cáo cá cược trên truyền hình thì không hẳn vậy. Không có gì nói lên “tội ác chống lại loài người” bằng một nhóm ca sĩ đường phố hát mừng Xổ số Pennsylvania theo giai điệu bài “Mười hai ngày Giáng sinh”, trong khi Gus the Groundhog – linh vật của Xổ số – thúc giục người nghe đánh bạc hết tiền lương của họ.
Sau đó là yếu tố kỳ lạ. Ai có thể quên bản ghi âm về những chú chó tài năng sủa “Jingle Bells”? Tổng thống Biden có thể muốn tha thứ cho bất cứ ai có ý tưởng đó trước khi ông rời nhiệm sở. Danh sách những điều kỳ lạ của Giáng sinh ở Mỹ sẽ dài hơn danh sách những đứa trẻ hư của Thánh Nicôla. Một người hàng xóm ở phía bên kia đường của chúng tôi có Đức Maria, Thánh Giuse và Chúa Hài đồng trên bãi cỏ của mình vào mỗi đêm trong kỳ nghỉ... được bao quanh bởi một sở thú gồm những con tuần lộc bằng điện, những chú yêu tinh cười toe toét và Frosty the Snowmen được thổi phồng một nửa. Ý hướng có tính sùng đạo. Nhưng đáng tiếc là hiệu ứng lại khá khác biệt: một Thánh Gia con tin bị mắc hội chứng Stockholm.
Nước Mỹ vẫn có thể được xếp hạng là quốc gia “tôn giáo” nhất trong số các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Nhưng Giáng sinh như "Lễ Misa Chúa Kitô", như sự nhập thể của con Thiên Chúa để cứu rỗi thế giới và niềm vui lẽ ra phải tuôn chảy từ đó, lại bị nhấn chìm hàng năm trong tiếng ồn ào và sự thèm ăn. Câu hỏi đặt ra là tại sao?
Đôi khi những người bên ngoài bờ biển của chúng ta nhìn thấy những điểm yếu của chúng ta rõ ràng hơn chính chúng ta. Vào năm 1831-2, Alexis De Tocqueville đã dành chín tháng ở Mỹ để thực hiện nghiên cứu cuối cùng đã định hình nên văn bản kinh điển của ông, Nền dân chủ ở Mỹ. Năm 1988, học giả Vương Hỗ Ninh cũng đã làm điều tương tự. Ông đã dành sáu tháng đi du lịch ở Hoa Kỳ. Sau đó, ông đã viết Nước Mỹ chống lại nước Mỹ, một bản phân tích văn hóa toàn diện về bối cảnh nước Mỹ. Hiện ông là nhà lý luận chính trị hàng đầu của Đảng Cộng sản Trung Quốc và là một trong những nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc.
Vương đã nhìn nước Mỹ qua lăng kính của một nhà phê bình và đối thủ cạnh tranh văn minh. Do đó, một số kết luận của ông có thiên vị hoặc đơn giản là sai. Tuy nhiên, những quan sát của ông vừa sâu sắc vừa mang tính hướng dẫn. Vương lập luận rằng người Mỹ "không có ý thức về lịch sử" và ít quan tâm hoặc kiên nhẫn với mầu nhiệm. Họ chú trọng vào số lượng, bản chất duy vật và có tính sáng tạo cao, điều này lý giải cho thành công của Hoa Kỳ trong công nghệ. Họ cũng giàu cảm xúc, "đặc biệt là trong chính trị, tôn giáo, văn hóa và khoa học". Sau cuộc bầu cử gây chấn động ở Hoa Kỳ trong sáu tháng qua, tất cả những điều này hẳn nghe quen thuộc.
Vương nói thêm, tôn giáo là một thế lực mạnh mẽ trong văn hóa Hoa Kỳ và hàng triệu người Mỹ là những tín đồ tôn giáo chân thành. Nhưng nhiều người khác thì không. Và điều đó bao gồm nhiều người đi nhà thờ. Vương lập luận rằng việc đi nhà thờ và đức tin chân chính không phải lúc nào cũng trùng lặp vì tôn giáo Hoa Kỳ thường hoạt động như một thói quen được thừa hưởng, hoặc một quy tắc đạo đức tích cực, hoặc một phương tiện phục vụ xã hội, hoặc một công cụ cho sức khỏe tâm lý mà không có cốt lõi siêu nhiên quan trọng.
Điều này cũng nghe quen thuộc. Và nó có những hậu quả về mặt văn hóa, một trong số đó là “Lễ Giáng sinh kỷ niệm sự ra đời của Chúa Giêsu Ki-tô, nhưng ngày lễ này đã bị thế tục hóa từ lâu” – trên thực tế, bị thu hẹp lại – thành một “ngày lễ dân gian” mang tính thương mại nặng nề.
Vương đã viết những lời đó cách đây hơn ba mươi năm. Những gì đúng vào thời điểm đó thậm chí còn đúng hơn vào thời điểm hiện tại. Nó giải thích cho bộ xương tiệc Halloween đội mũ ông già Noel đứng trong sân trước ngay dưới phố của chúng tôi.
C.S. Lewis, người không bao giờ có thể bị buộc tội là lỏng lẻo hoặc không chân thành trong đức tin của mình, có một sự ghê tởm đặc biệt đối với “ngày lễ dân gian” Giáng sinh mà Vương Hỗ Ninh mô tả. Ông nói theo cách này:
Chúng ta được cho biết rằng toàn bộ hoạt động kinh doanh [Giáng sinh] ảm đạm phải tiếp tục vì nó tốt cho thương mại. Trên thực tế, đó chỉ là một triệu chứng hàng năm của tình trạng điên rồ của đất nước chúng ta, và thực sự là của thế giới, nơi mọi người sống bằng cách thuyết phục mọi người khác mua đồ. Tôi không biết cách thoát ra. Nhưng liệu tôi có thực sự có nghĩa vụ phải mua và nhận hàng loạt đồ bỏ đi vào mỗi mùa đông chỉ để giúp những người bán hàng không? Nếu điều tồi tệ nhất xảy ra, tôi thà cho họ tiền mà không lấy gì cả và coi đó là từ thiện. Chẳng lấy gì cả? Tại sao, thà chẳng lấy gì cả còn hơn là gây phiền toái.
“Quy tắc [Xmas] hiện đại” Lewis viết, “là bất cứ ai cũng có thể ép bạn tặng quà cho họ bằng cách gửi cho bạn một món quà hoàn toàn không có lý do của riêng họ. Nó gần như là một sự tống tiền.”
Được rồi, thế đấy là một lời nói quá. Nhưng vấn đề đã được nêu ra.
Mọi bà mẹ tốt đều trân trọng sự ra đời của một đứa con mới. Mọi người cha tốt cũng vậy. Cả hai đều cất giữ ký ức về mỗi cuộc sống mới quý giá, mỗi đứa con trai hay con gái mới, ở nơi sâu thẳm trong trái tim họ. Sự ra đời là vấn đề của máu thịt; nó gắn kết hữu cơ với những khởi đầu mới và hy vọng đi kèm với chúng.
Đây là lý do tại sao Giáng sinh, cùng niềm vui, vẻ đẹp và nỗi nhớ gắn liền với nó, lại dễ dàng (và dễ dàng) tiếp cận theo cách mà Lễ Phục sinh, với tất cả vinh quang và sức mạnh giải phóng của nó, lại không như vậy. Đó cũng là lý do tại sao Giáng sinh dễ dàng bị bắt cóc vào những tưởng tượng duy vật và bị hạ thấp khỏi ý nghĩa sâu sắc hơn của nó.
Cuối cùng, điều đó đưa tôi trở lại với lý do tại sao, trong gia đình chúng tôi, mùa Giáng sinh là điểm tựa cho năm của chúng tôi. Máng cỏ Bêlem đã chứa Đấng Cứu Thế của thế giới. Chúa Hài Đồng là món quà thực sự và lâu dài duy nhất của mùa này. Và nếu chúng ta thực sự tin vào điều đó, thì không có gì có thể vượt qua được, không thể quên nó, và không có gì quan trọng hơn. Hôm nay, ngày 3 tháng 1, là ngày thứ chín của lễ Giáng sinh. Trong ngôi nhà của chúng tôi, chúng tôi sẽ trân trọng từng khoảnh khắc của nó. Chúng tôi cũng chúc bạn như vậy.
Năm thánh nhìn từ Helsinki: ‘phó thác bản thân vào tay Thiên Chúa’
Vũ Văn An
18:22 03/01/2025
Edgar Beltrán của tạp chí The Pillar, ngày 3 tháng 1 năm 2025, cho đăng bài phỏng vấn của ông với vị giám mục đóng vai trò lớn trong lá thư mục vụ của hội đồng Giám Mục Bắc Âu về năm thánh 2025. Mời bạn đọc cùng lướt qua bài phỏngf vấn:
Vào ngày 24 tháng 12, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã khai mạc Năm Thánh Hy vọng bằng việc mở Cửa Thánh tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.
Trước khi Năm Thánh được khai mạc, Hội đồng Giám mục Bắc Âu đã công bố một lá thư mục vụ, thảo luận về mối quan hệ giữa “luận lý học Năm Thánh” và phẩm giá con người.
The Pillar đã phỏng vấn Giám mục Raimo Goyarrola của Helsinki, phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Bắc Âu, về lá thư, Năm Thánh, sự tục hóa và Giáng sinh.
Goyarrola, một giáo sĩ của Opus Dei và là một bác sĩ, đã sống ở Helsinki từ năm 2006, khi ngài được phân công làm tuyên úy đại học tại quốc gia này.
Chức vụ của ngài sớm được mở rộng — năm 2011, ngài được bổ nhiệm làm tổng đại diện giáo phận Helsinki. Tháng 11 năm 2023, ngài trở thành giám mục Helsinki, sau thời gian bốn năm trống tòa.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện bằng tiếng Tây Ban Nha. Nội dung đã được dịch và biên tập để có độ dài và rõ ràng hơn.
Các giám mục và người Công Giáo Bắc Âu đang chuẩn bị cho Năm Thánh như thế nào?
Với sự nhiệt tình và hy vọng lớn lao, bất chấp những khó khăn.
Chúng ta đang rất gần với cuộc chiến ở Ukraine và đang phải chịu những khó khăn về kinh tế vì chiến tranh và giá điện, nhưng Năm Thánh là năm của ân sủng và hy vọng.
Đức Giáo Hoàng đã nói đúng trọng tâm khi ngài chọn chủ đề hy vọng cho Năm Thánh khi người ta thấy thế giới như thế nào, với quá nhiều chiến tranh, bạo lực và khủng hoảng.
Vì vậy, chúng ta đón nhận Năm Thánh này với niềm vui và nhiều hy vọng, bởi vì Thiên Chúa là Đấng tốt lành, Người thương xót, Người ở cùng chúng ta và Người yêu thương chúng ta.
Nhưng làm sao các Ki-tô hữu có thể sống hy vọng giữa tất cả những vấn đề này và trong một thế giới - đặc biệt là ở một khu vực như khu vực của ngài- đang ngày càng trở nên ít Ki-tô hữu hơn?
Vâng, chính là vì chúng ta là các Ki-tô hữu (cười).
Thiên Chúa đã chọn chúng ta và gọi chúng ta bằng tên. Phép rửa là một điều gì đó rất sâu sắc. Đúng là nếu bạn nhìn vào bản đồ thế giới, các Ki-tô hữu không phải là đa số. Tuy nhiên, việc trở thành một Ki-tô hữu đã là nguồn vui, hòa bình và hy vọng bởi vì một Thiên Chúa toàn năng, là Chúa của lịch sử, đã đích thân chọn tôi để trở thành một Ki-tô hữu và mang thông điệp hòa bình và niềm vui này đến với thế giới.
Nếu một người theo đạo Thiên Chúa không tràn đầy hy vọng, họ khó có thể tự gọi mình là một Ki-tô hữu.
Ngài đã công bố bức thư mục vụ này ngay trước Giáng sinh và Năm Thánh bắt đầu chính vào Đêm Giáng sinh. Mối quan hệ giữa Năm Thánh và Giáng sinh là gì?
Tôi đã thực hiện một cuộc phỏng vấn khác trong đó tôi đã thực hiện một video chúc mừng Giáng sinh cho các cộng đồng Ki-tô giáo ở Phần Lan trước Cảnh Chúa giáng sinh.
Vâng, trong Cảnh Chúa giáng sinh, tôi đã thấy Chúa Hài Đồng Giêsu… Và ở đó, bạn thấy Thiên Chúa, Đấ g vốn là Chúa, toàn năng, đã trở thành một đứa trẻ và tín thác nơi con người.
Người tín thác nơi Đức Maria và Thánh Giuse, một cặp vợ chồng trẻ, sau đó phải chạy trốn vì [Hê-rốt] muốn giết Người và Người đã ra đi, như một đứa trẻ, mà không làm gì cả. Nhưng cuối cùng, chính Đứa trẻ đã làm mọi sự.
Người là một vị Thiên Chúa dường như không làm gì ở bình diện con người, một đứa trẻ tin tưởng gia đình mình, những người đưa Người đến Ai Cập, một gia đình lo lắng về việc Người sẽ ăn gì, những người đã chọn quần áo cho Người, những người khi họ ở trên sông Nile đã đảm bảo rằng không có cá sấu (cười) khi Người chơi đùa, những người đã chăm sóc Người. Người là một vị Thiên Chúa cho phép mình được con người giúp đỡ. Điều này lấp đầy chúng ta với niềm hy vọng.
Thật điên rồ khi Thiên Chúa tin tưởng vào con người, biết rõ chúng ta như thế nào. Tất nhiên, Chúa Kitô cũng có những bậc cha mẹ tốt nhất trên thế giới, phải không? Nhưng Thiên Chúa đã biến chúng ta thành một phần của gia đình này như các Ki-tô hữu.
Niềm hy vọng này nói với chúng ta về sự tín thác và phó thác vào Thiên Chúa. Bất cứ điều gì xảy ra trên thế giới đều là vì Thiên Chúa muốn hoặc vì Thiên Chúa cho phép.
Đôi khi có những điều Thiên Chúa muốn và chúng ta không hiểu chúng, và có những điều Thiên Chúa không muốn, nhưng Người cho phép chúng mang lại điều tốt đẹp lớn lao.
Đây có thể là chủ đề tuyệt vời để cầu nguyện trong những ngày Giáng sinh này: Chúa Giêsu phó thác mình trong tay nhân loại và nói với chúng ta, "Đây, Ta là một em bé." Và, ngược lại, chúng ta phải đáp lại rằng: "Lạy Chúa Giêsu, con phó thác mình trong tay Chúa, ngay cả khi Chúa là một em bé, ngay cả khi con không nhìn thấy Chúa, con phó thác mình trong vòng tay Chúa."
Và đây sẽ là một bước tiến lớn trong đời sống tâm linh của chúng ta. Và tôi nghĩ đây là chủ đề tuyệt vời để suy gẫm trong Năm Thánh này, và đó là điều tôi đã cầu nguyện cho bản thân và cho cộng đồng Công Giáo ở Phần Lan: rằng chúng ta hãy thực hiện bước phó thác mình trong Thiên Chúa vì hy vọng của người Kitô hữu là phó thác mình trong tay Chúa Cha, vì chúng ta có Chúa Giêsu là anh em của chúng ta.
Bức thư mục vụ nói rằng, “Để một xã hội phát triển, các cá nhân trong xã hội đó trước tiên phải trở thành một dân tộc, gắn kết với nhau bằng một giao ước công lý phù hợp với luật tự nhiên và được Chúa linh hứng.” Ngài có nghĩ đây là trường hợp trong các xã hội tự do đương thời không, hay họ đang bỏ lỡ điều gì đó?
Đây là rủi ro của các xã hội tự do ngày nay: họ phân tích cá nhân nhưng không có bối cảnh của cá nhân đó; họ thấy cá nhân mà không xét đến việc anh ta là một thực thể xã hội, sinh ra trong một gia đình, họ coi anh ta gần giống như một vật sinh vô tính (clone). Có thể thấy rằng họ muốn tạo ra một xã hội của những vật sinh vô tính không có quan hệ xã hội và không có sự bảo vệ của gia đình.
Phẩm giá con người xuất phát từ kiện tôi là một con người, con của một người cha và một người mẹ, nhưng sâu thẳm bên trong tôi có phẩm giá vì tôi là con của Thiên Chúa.
Nhưng hãy xóa bỏ rào cản đầu tiên - gia đình - và nhà nước sẽ có toàn quyền. Nếu đó là một nhà nước trung thực, nó sẽ tìm kiếm lợi ích chung, nhưng nếu không thì sao? Chúng ta thấy điều gì xảy ra với các hệ tư tưởng, hoàn toàn phi lý, tìm cách kiểm soát và loại bỏ các bộ lọc của con người - các mối quan hệ xã hội và gia đình. Khi đó sẽ không có ai che chở hoặc bảo vệ chúng ta, và vì vậy rất dễ bị cuốn theo chiều gió.
Và những hệ tư tưởng hoặc niềm tin sai lầm nào ngài thấy đang gây ra những vấn đề này?
Tôi sẽ đưa ra cho bạn một câu trả lời mang tính thần học.
Satan không khôn ngoan, nhưng hắn thông minh. Chống lại Thiên Chúa, hắn không thể làm gì được. Bây giờ, điều mà hắn có thể làm là tấn công hình ảnh của Thiên Chúa trong con người.
Một phần của hình ảnh Thiên Chúa trong con người là chúng ta là nam và nữ. Vì vậy, hệ tư tưởng tấn công vào thực tế nhân học, sinh học, tâm lý và tâm linh này. Và đằng sau hệ tư tưởng này, tôi nghĩ có thể có một hữu thể tâm linh muốn phá hủy thực tại này.
Vì vậy, Thiên Chúa tạo ra đàn ông và đàn bà theo hình ảnh của Người. Những hệ tư tưởng này cũng muốn phá hủy hôn nhân và gia đình theo nhiều cách. Đầu tiên, trong nhiều năm với việc thúc đẩy ly hôn. Sau đó, bằng cách thay đổi ngay cả ngữ nghĩa của chính hôn nhân, muốn nói rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa bất cứ hai con người nào. Nhưng tại sao chỉ có hai? Tại sao không phải là ba? Thực tế của hôn nhân đã bị phá hủy.
Tất cả những điều này đều là hệ tư tưởng đi ngược lại lý trí và lương tri. Chúng đi ngược lại sự kiện con người đã được tạo ra và thế giới có trật tự và ý nghĩa. Vì vậy, ở tận cùng, những hệ tư tưởng này đi ngược lại khoa học và sự thật. Chúng đặt câu hỏi về bản thân sinh học và sự thật của con người và sự sáng tạo, sự thật của mọi sự.
Satan rất năng động, đó có thể là một dấu hiệu tốt vì có lẽ chúng ta đang ở ngưỡng cửa của một mùa xuân mới trong Giáo hội.
Thánh Gioan Phao-lô II đã nói rằng thiên niên kỷ thứ ba hoặc là Ki-tô giáo hoặc đơn giản sẽ không phải là như vậy.
Chúng ta đang trong một cuộc chiến giống như trong Chúa tể của Những Chiếc nhẫn, nơi không có lập trường trung dung. Hoặc là tôi ở phe ánh sáng hoặc ở phe bóng tối của Mordor. Tôi phải đưa ra lựa chọn cho cuộc sống. Và nhiều người đã lựa chọn nền văn hóa của cái chết, nền văn hóa của bóng tối.
Nếu không, làm sao bạn hiểu được rằng trong một đại dịch mạnh mẽ như vậy, với rất nhiều người chết mỗi ngày, các luật được thảo luận ở nhiều quốc gia của chúng ta lại mở rộng phá thai và an tử? Nó không có ý nghĩa thông thường, không có ý nghĩa chính trị.
Đó là ý thức hệ thuần túy, hoàn toàn phi lý khi trong một đại dịch mà rất nhiều công dân đang chết, rất nhiều con người, luật mà bạn đang thảo luận lại là an tử.
Chúng ta đã đạt đến điểm mà chúng ta không làm chính trị, mà là phản chính trị.
Bức thư tạo ra mối liên hệ giữa điều mà bức thư gọi là "luận lý học của Năm Thánh" và phẩm giá con người. Ngài có thể giải thích một chút về cách thức hoạt động của điều này không?
Năm Thánh là một năm vui vẻ. Nhưng vui vẻ vì điều gì? Bởi vì có sự ăn năn.
Nhiều người trên thế giới này không hối tiếc. Bây giờ, họ có thể vui vẻ không? Tôi không nghĩ vậy. Tôi nghĩ niềm vui lớn nhất đến từ việc cầu xin sự tha thứ và được tha thứ bởi vì sâu thẳm bên trong, điều đó cho tôi biết rằng tôi được yêu thương và tôi yêu thương. Tôi học cách cầu xin sự tha thứ khi tôi yêu thương vì tôi nhận ra khi tôi thất bại hoặc làm tổn thương người khác.
Nếu tôi không yêu thương, thì tôi cầu xin sự tha thứ để làm gì? Tôi đâu có quan tâm đến việc xúc phạm bất cứ ai.
Vì vậy, càng yêu thương, càng tha thứ, và càng tha thứ, càng yêu thương. Năm Thánh là một năm vui vẻ bởi vì Giáo hội, với tư cách là một người mẹ tốt, mang đến cho chúng ta thời gian để cầu xin sự tha thứ và thanh tẩy bản thân, và trong sự thanh tẩy này, phẩm giá con người tỏa sáng.
Tại sao lại như vậy? Bởi vì, tôi nhắc lại, phẩm giá con người hiện hữu vì Thiên Chúa hiện hữu, vì chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa. Nếu không có Thiên Chúa, rất khó, nếu không muốn nói là không thể, nói về phẩm giá con người. Nếu không có Thiên Chúa, phẩm giá con người dựa trên điều gì? Trên luật pháp của Quốc hội? Làm sao chúng ta biết rằng chúng ta được tạo ra bình đẳng nếu phẩm giá phụ thuộc vào một điều gì đó thay đổi quá nhiều?
Vì vậy, hãy loại bỏ sự bi quan, tội lỗi, gánh nặng tiêu cực trong đời sống nội tâm. Chúng ta, các Ki-tô hữu, sống một cuộc sống nội tâm vui tươi. Khi tôi thanh tẩy bản thân khỏi những đau khổ của mình, tôi nhìn thấy phẩm giá con người của người khác, tôi nhìn bằng con mắt của Chúa Giêsu, và nhìn người khác bằng con mắt của Chúa Giêsu, tôi sẽ có thể nhìn thấy những người là anh chị em cần sự giúp đỡ, sự phục vụ, tình cảm và sự tha thứ của tôi.
Tôi cũng sẽ có thể yêu thương bằng trái tim của Chúa Giêsu và bảo vệ phẩm giá của tất cả mọi người, bất kể họ đến từ đất nước của tôi, đảng phái của tôi, hệ tư tưởng của tôi, v.v., tất cả chúng ta đều bình đẳng!
Luận lý học của Năm Thánh về sự tha thứ, niềm vui và ân sủng của Thiên Chúa giúp chúng ta nhìn thấy và bảo vệ phẩm giá con người, được làm sáng tỏ bởi sự thanh tẩy của tôi và niềm vui của tôi khi có thể nhìn thấy người khác bằng con mắt của Thiên Chúa và yêu thương họ bằng trái tim của Chúa Giêsu.
Trong thư, ngài có đề cập rằng “khi các quốc gia của chúng ta được truyền bá tin mừng cách đây khoảng một thiên niên kỷ, một bước tiến lớn về mặt văn minh là sự công nhận phẩm giá tối cao của mỗi người, điều này được thấy bắt đầu từ trong bụng mẹ”. Ngài có nghĩ rằng sự tục hóa là lý do đằng sau sự phủ nhận phẩm giá này không?
Tôi sẽ phân biệt giữa hai loại tục hóa: một sự tục hóa thụ động, chỉ thuận theo chiều gió. Đó là sự tục hóa hời hợt, những người tốt nhưng để mình bị cuốn đi bởi sự thờ ơ, khi thấy rằng mọi người đều làm mọi việc theo một cách nhất định, vì vậy họ rời xa Thiên Chúa mà không hề nhận ra. Họ bị dòng sông cuốn đi. Đó là sự hờ hững khi có một chân ở đây và một chân ở đó.
Một điều khác là sự tục hóa tích cực. Có những người tích cực muốn xóa bỏ Chúa Giêsu Kitô và thông điệp của Người khỏi thế giới. Vì vậy, sự tục hóa thứ hai này thật đau đớn, thật đáng buồn và được nhìn thấy trong nhiều hệ tư tưởng và khuynh hướng chính trị, như trong một hình thức chủ nghĩa tự do nhất định.
Nếu những luồng tư tưởng hay ý tưởng này dẫn chúng ta đến chỗ xóa bỏ phẩm giá của con người như hình ảnh của Thiên Chúa, thì kết quả là con người không còn là một con người nữa, mà là một vật thể, một con số, một bước đệm, một phương tiện và không còn là mục đích trong chính bản thân mình nữa.
Vì vậy, hai sự tục hóa song hành với nhau và đều đau đớn như nhau. Nhưng nhiều người bị cuốn theo sự tục hóa đầu tiên, vì nó dễ dãi, nó thiếu quyết đoán, nó giống như Sách Khải Huyền đã nói: Ngươi không lạnh cũng không nóng, thì Ta sẽ mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.
Hiện tại ở Phần Lan, thời tiết rất lạnh, nhưng đôi khi có những ngày -1 ºC (30 ºF) hoặc 0 ºC (32 ºF), đó là thời tiết hâm hấp (cười) đối với chúng ta, và khi điều này xảy ra, mọi người đều mắc bệnh. Mọi người đều bị cúm, bị cảm lạnh. Và chỉ có vậy thôi, tình trạng hâm hấp khiến chúng ta mang bệnh. Nếu bạn ở nhiệt độ -20 ºC (-4 ºF) thì không ai mắc bệnh vì không có vi-rút, nếu bạn ở nhiệt độ 20 ºC (86 ºF), thì cũng không ai mắc bệnh, nhưng khi bạn ở giữa thì mọi người đều mắc bệnh.
Cả hai sự tục hóa đều có hại và cả hai đều đang hủy hoại phương Tây, cả sự thờ ơ thụ động lẫn việc ghét đức tin, những người biết đức tin nhưng lại từ chối nó. Cả hai đều có hại.
Nhưng đối với cả hai, đều có cùng một giải pháp: làm việc tông đồ. Những người trong chúng ta không ở một trong hai bờ này là ánh sáng và muối, chúng ta có thể nói về Chúa Giêsu bằng cuộc sống của mình, làm chứng.
Chứng tá này giúp chúng ta thắp sáng lại những người đang trở nên thờ ơ để họ có thể quay trở lại Giáo hội và tìm thấy Chúa Kitô trong Giáo hội, là mẹ, là ánh sáng và là con đường cứu rỗi vì Giáo hội là thân thể của Chúa Kitô.
Ngài kết thúc bức thư bằng câu nói "Xin cho chúng ta làm chứng một cách đáng tin cậy về sự mới mẻ này với tư cách là môn đồ của Chúa Kitô thông qua lòng bác ái quảng đại, sự hiệp thông vững chắc và công lý dũng cảm, được soi sáng bởi sự huy hoàng của Chân lý." Nhưng có vẻ như còn thiếu điều gì đó: làm sao chúng ta có thể làm được điều này?
Khi lắng nghe câu hỏi này, các Ki-tô hữu tiên khởi hiện lên trong tâm trí.
Họ phải đối diện với một đế chế đang phát triển, một điều gì đó theo một cách nào đó đã giúp truyền bá Tin Mừng.
Nhưng đâu là chìa khóa? "Hãy xem họ yêu thương nhau như thế nào", như Tertullian đã nói. Đó là điều đã thu hút những người trở lại đạo đầu tiên vĩ đại, Tertullian, Origen và các nhà thần học vĩ đại của Giáo hội sơ khai. Hãy xem họ yêu thương nhau như thế nào.
Đây chính là chìa khóa, đó là đức tin bằng hành động, đức tin này hữu hình và có thực chất. Tôi không có kẻ thù, nhưng tôi sẽ yêu kẻ thù của mình nếu tôi có họ. Luôn yêu thương bằng hành động.
Những Ki-tô hữu đầu tiên đã làm gì? Họ không làm những điều kỳ lạ: một cuộc sống bình thường với công việc, gia đình, yêu thương người khác, nói về Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống của họ. Đó là chứng kiến Chúa Kitô bằng một lời nói, bằng một lời khuyên, một cuộc trò chuyện. Đó là Chúa Giêsu hành động trong chúng ta.
Nhưng để điều này có hiệu quả, chúng ta phải cầu nguyện. Các Ki-tô hữu đầu tiên đã làm trở lạitoàn bộ đế chế vì họ là những người cầu nguyện. Và họ hiểu rõ rằng Thánh lễ là trung tâm của cuộc sống họ.
Có những lời chứng rất đẹp từ thời đó. Sách Giáo lý của Giáo hội ghi nhớ một trong những Kitô hữu ở Bắc Phi trong cuộc đàn áp của Diocletian, người đã nói với người La Mã khi họ bị bắt rằng họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn với họ, nhưng không được để họ không có Thánh lễ.
Chúng ta là những Kitô hữu đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba. Xin trích dẫn lại lời của Đức Gioan Phaolô II: thiên niên kỷ thứ ba sẽ là Kitô hữu hoặc sẽ không là, hoặc sẽ là Kitô hữu hoặc sẽ là sự kết thúc của mọi sự. Và giống như những Kitô hữu đầu tiên, hai chân của chúng ta là cầu nguyện và Bí tích Thánh Thể.
Nếu chúng ta có một cuộc sống dựa trên các bí tích, đặc biệt là Thánh lễ và cầu nguyện, chúng ta có thể tiến rất xa trên đôi chân này. Chúng ta có thể có hai cánh tay để ôm lấy người khác, để yêu thương nhiều hơn và đồng hành với rất nhiều người cần tình cảm và sự hiểu biết. Chúng ta là cánh tay của Chúa Kitô và Đức Mẹ trên thế giới. Đôi khi, thể hiện tình cảm, một nụ cười hoặc một chi tiết phục vụ sẽ hữu hiệu hơn là dành 10 giờ với một bác sĩ tâm thần.
Chúng ta là Chúa Kitô cho người khác. Và Chúa Kitô đã bắt đầu bằng cách làm gì? Chữa lành người bệnh; đó là cách vương quốc của Chúa Kitô bắt đầu, với một điều cụ thể và vật chất như chữa lành bệnh tật.
Chúa Giêsu ở trong tình bác ái với người khác. Ở đó chúng ta chứng tỏ rằng Chúa Giêsu là con đường, là sự thật và là sự sống. Ở đó tôi cho thấy sự thật rằng tôi là một Kitô hữu. Tôi cho thấy cách yêu thương và cuộc sống mà tôi đang trao cho người khác. Đó là ân sủng của Chúa đang hành động qua chúng ta, bởi vì chúng ta là một phần của thân thể Chúa Kitô. Chúng ta luôn là Giáo hội.
Ngay trong phòng xông hơi ở Helsinki, như ngài đã nói trong bài giảng của ngài khi ngài được tấn phong giám mục.
(cười) Khi chúng ta ở trong phòng xông hơi, hoặc ăn pizza hoặc uống bia. Tôi là Giáo hội vào Chúa Nhật, nhưng cũng là vào Thứ Hai lúc ba giờ chiều và vào Thứ Ba lúc năm giờ chiều.
Và đó là lý do tại sao có hy vọng mặc dù chúng ta không phải lúc nào cũng nhìn thấy toàn bộ thực tại. nhưng Thiên Chúa nhìn thấy.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ngôi Sao lạ & Các Chiêm tinh gia : Sức cuốn trong văn chương tôn giáo
Nguyễn Đức Cung
17:56 03/01/2025
NGÔI SAO LẠ & CÁC CHIÊM TINH GIA: SỨC CUỐN HÚT TRONG VĂN CHƯƠNG TÔN GIÁO
Nếu nhìn trong tổng thể, mô hình máng cỏ của Thánh Phan-xi-cô Khó Khăn từ thế kỷ XII đã để lại một trải nghiệm tâm linh và nghệ thuật không thể nào xóa mờ trong ký ức của nhân loại thì dấu ấn của một ngôi sao lạ và ba chiêm tinh gia, thường được gọi là “Ba Vua” đã và sẽ là những dấu ấn bất hủ đóng vào trên trang đầu của lịch sử Vua Trời giáng sinh trong tiến trình cứu độ nhân loại.
1.-Về ngôi sao lạ ở phương Đông, nguồn cảm hứng văn chương bất tận.
Trong sách Tân Ước, Thánh sử Mát-Thêu nói về ngôi sao lạ như sau:
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Vidimus stellam ejus in oriente et venimus adorare Eum” Mát-thêu 2: 1-2).
Khi định nghĩa về văn chương, một học giả Việt Nam, ông Phan Kế Bính đã cho biết : “văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng”, vậy thì thiên văn 天 文 sau những danh từ kép như thiên nhiên, thiên tượng, thiên thể, thiên quốc, thiên mệnh v.v… sẽ phải được định nghĩa như là vẻ đẹp của trời đất, mà đẹp nhất trong mùa giáng sinh đối với người Kitô Hữu đó là hiện tượng ngôi sao lạ được vị thánh sử ở trên nói tới trong sách Tin Mừng của ngài.
Ngôi sao lạ là một hiện tượng phổ biến trong nền văn chương Ki-Tô Giáo nhất là từ khi Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226) thường gọi Thánh Phanxicô Khó Khăn có sáng kiến làm hang đá vào dịp Lễ Giáng Sinh từ thế kỷ XII và sau đó lan tràn khắp thế giới.
Tại Giáo Phận Huế có Linh Mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích (1891-1978) là người có nhiều tài năng, nhất là làm thơ và soạn nhạc thánh ca. Trong tập thơ Sảng Đình Thi Tập của Ngài do Giáo sư Đoàn Khoách biên soạn có bài hát “Ngôi sao lạ” ca được theo điệu Đăng đàn cung vốn là phần nhạc khi cử quốc thiều của Triều Nguyễn (Thanh Tịnh xb, California, USA, 2001, trang 112-114).
Bài hát ấy như sau:
Vidimus stellam ejus in oriente…
Lạ lạ lạ kìa áng (quang) hào quang
Vầng sao mới rực rỡ huy hoàng!
Rạng ngời trong đêm mờ mịt,
Đêm mờ mịt rày bóng đà tan.
Điềm Thiên Chúa hạ giáng nhân hoàn,
Nghiệm lời Thánh kinh đà nghiệm,
Nay đà nghiệm (phân) mười phân,
Chính sao dòng Gia-cọp,
Đêm mờ mịt rày bóng đà tan.
Et venimus adorare Eum…
Lòng khoan khoái vội bước lên đường,
Lạnh lùng xa xuôi nào ngại.
Muôn ngàn dặm dầm tuyết giày sương,
Từ quê vức vượt núi băng rừng,
Một lòng quyết cho tìm đặng,
Lo tìm đặng Chúa lòng thương,
Bước ta cùng gắng bước,
Lo tìm đặng Chúa lòng thương,
Bước ta cùng gắng bước,
Muôn ngàn dặm dầm tuyết giày sương.
Surge, illuminare, Jerusalem, quia venit lumentuum, et gloria Domini super te orta est…
Dậy dậy dậy! Thành thánh Jérusalem!
Nầy ơn Chúa giọi sáng êm đềm,
Một vùng vinh quang ngời rạng,
Cung và điện rực rỡ càng thêm
Đoàn xe giá chật trước sân thềm,
Một nhà cháu con vầy mặt,
Vui vầy mặt xem kìa xem,
Bốn phương đều đua đến,
Xe và ngựa nêm đường nêm,
Lễ hương vàng dâng tiến,
Vàng lời nguyện nhà Chúa ngày đêm.
Et tu, Bethlehem, nequaquam minima es in principibus Juda; ex te enim exiet dux qui regat populum meum Israel…
Lời Kinh thánh, lại chỉ đem đàng,
Nọ thành Bethleem hèn mọn,
Nơi hèn mọn đầy yếng hào quang,
Nầy hang đá, một Trẻ đơn hèn,
Nệm nằm nắm rơm và rạ,
Rơm và rạ ôi (sang) giàu sang.
Yếng sao mầu soi đến,
Rơm và rạ ôi (sang) giàu sang,
Yếng sao mầu soi đến,
Nơi hèn mọn đầy yếng hào quang.
Quia melior est dies una in atriis tuis super millia. (Ps. 83)
Ngày ơn phước nặng giá muôn vàn,
Một ngày hơn trăm ngàn vạn,
Hơn ngàn vạn ngày phước trần gian;
Vì trông thấy mặt Chúa thiên đàng,
Gội nhuần ơn quang mầu nhiệm.
Tâm hồn đặng (an) bằng an,
Trí khôn đầy ánh sáng,
Tâm hồn đặng (an) bằng an,
Trí khôn đầy ánh sáng,
Hơn ngàn vạn ngày phước trần gian.
Et procidentes adoraverunt Eum; et apertis thesauris suis, obtulerunt ei munera aurum, thus et myrrham.
Quì dâng hiến một lễ phi thường,
Nọ vàng, nhũ hương, mộc-dược,
Hương, mộc-dược cùng tấm lòng đơn.
Vàng yêu mến, dạ mến khôn lường,
Một đời đắng cay mộc-dược,
Thêm lời nguyện như (hương) mùi hương,
Chúa Hài Đồng thương đoái,
Thêm lời nguyện (hương) mùi hương,
Chúa Hài Đồng thương đoái.
(Lê Ngọc Bích, Sưu Tập Thơ-Văn-Nhạc-Họa của Linh Mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, Sài Gòn 2003, trang 75-77).
Trong cuốn ĐỨC GIÊ-SU, CUỘC ĐỜI VÀ THỜI ĐẠI, viết bằng tiếng Anh (Jesus and His times) của sáu tác giả người Mỹ, Charles Bricker, Lionel Casson, Charles Flowers, Wendy Murphy, Bryce Walker, Bernard Weisberger do Nguyễn Ước dịch, có viết rằng: “Khi Đức Giê-su ra đời, chúng ta được kể về Các Nhà Chiêm Tinh – (còn gọi là nhà thông thái, đạo sĩ, hoặc theo truyền khẩu, ‘các vua’) – “từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: ‘Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt. 2:1-2) Mát-thêu không diễn tả đầy đủ ngôi sao mà Các Nhà Chiêm Tinh đi theo, ngoài việc mô tả nó là một hiện tượng lạ lùng. Nó là ngôi sao chuyển động thẳng phía trước Các Nhà Chiêm Tinh và dừng lại ngay trên ngôi nhà Đức Giê-su ở. Những nhà khảo cứu bằng chứng lịch sử thấy chẳng có gì ăn khớp. Không có chỉ dấu nào về một ngôi sao chỗi lớn xuất hiện cách tự nhiên vào thời Đức Giê-su ra đời, dù người ta có thể thấy sao chỗi nổi tiếng Ha-lây vào năm 12 trước C.N. Nhiều sao chỗi xuất hiện suốt lịch sử theo chu kỳ đều đặn đáng tin nhưng hiếm khi xảy ra chuyện chúng có vẻ báo điềm lạ hoặc điềm xấu.” (Nhà xb. Văn hóa Thông tin, 2003, trang 45). Đọc tiếp đoạn dưới, các tác giả này viết: “Một số người suy đoán Mát-thêu, vốn không phải chiêm tinh gia, đã có thể dễ dãi diễn tả hiện tượng đặc biệt đó cách giản dị là “một ngôi sao”. (trang 46).
Quả thật, các tác giả người Mỹ trên đây đã tỏ ra hời hợt không biết Mát-thêu đưa ra tín hiệu nào về “một ngôi sao”, nhưng các nhà chú giải Kinh Thánh của Công Giáo, Chính Thống Giáo hay Tin Lành chắc chắn là phải biết ý nghĩa của ba chữ “một ngôi sao” là muốn nói điều gì.
Trong sách The Catholic Study Bible, các nhà chú giải Kinh Thánh đã viết: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của ngài: đây là một niềm tin cũ mang tính phổ quát là một ngôi sao mới đã xuất hiện vào thời có một đấng thống trị sinh ra. Mát-thêu cũng trích dẫn câu chuyện của Balaam trong Cựu Ước, người đã nói tiên tri rằng “một ngôi sao sẽ xuất hiện từ Gia-cóp” (Dân số, 24, 17), mặc dầu ở đó ngôi sao không có nghĩa là một hiện tượng thiên văn mà chỉ một ông vua.” (Oxford University, 2006, trang 1254).
Trong cuốn The Orthodox Study Bible, các học giả Kinh Thánh đã viết về “ngôi sao lạ” như sau: “Ngôi sao nói lên ý nghĩa quan trọng khác thường của việc hạ sinh Chúa Cứu Thế Hài Nhi. Trong thời cổ đại ngôi sao tượng trưng cho một vị thần, một quân vương được thần hóa (Dân số 24:17). Ngôi sao này là dấu hiệu của chính Đấng Messia, có nghĩa là ánh sáng Người sẽ soi chiếu trên thế gian.” (Nhà xb. Thomas Nelson Publishers, Nashville, Tennessee, 1993, trang 6).
2.-Những người đã thấy ngôi sao lạ…
Trong sách Dân Số của Cựu Ước, Balaam là một tiên tri ngoại giáo đã nói: “… một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp” (Dân số 24: 17) tức là nói trước về sự sinh hạ của Đấng Cứu Chuộc qua “ngôi sao lạ”, thì việc ba nhà chiêm tinh, đạo sĩ hay ba vua ở phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường mà có thể tìm tới thờ lạy Hài Nhi Giê-su quả là một biến cố mang ý nghĩa trọng đại.
Theo từ nguyên, Magi là tiếng Hy lạp có nghĩa là các nhà thông thái, các đạo sĩ hay ba vua theo truyền thống của Hòa Lan, Đức và kể cả Việt Nam. Tại các quốc gia Âu châu lễ ba vua được tổ chức rất lớn. Các nhà thông thái này là những người có thể xuất phát từ Ba Tư, Babylon hay Ả-rập đến bái lạy trẻ Giê-su là Đấng Thiên Sai. Tiếng Hy lạp dùng trong Mát-thêu chỉ các nhà thông thái được dịch ra tiếng Anh là các nhà chiêm tinh. Dõi theo một ngôi sao, họ từ phương Đông tìm đến Bethlehem với các lễ vật là vàng, nhũ hương và một dược. Tại sao họ đến từ phương Đông? Đọc trong Cựu Ước chúng ta thấy Abraham là tổ phụ dân Do Thái, được Thiên Chúa gọi từ miền Ur tức phía đông đất nước Do Thái hiện nay, rồi đi tới một miền đất mới. Khi tổ phụ Abraham ra đi khoảng thế kỷ 18 trước C.N, bà con của ông còn lại ở vùng Ur rất nhiều cho nên các nhà chiêm tinh có thể là hậu duệ của Abraham trong nhiều sắc dân ở phương Đông. Tổ phụ Abraham từ Ur tiến lên phía bắc dọc theo sông Euphrates qua Larsa, Erech hoặc Nippur tới Babylon lên Sippar… rồi hướng về phía tây đi tới đất Canaan. Một vài câu chuyện truyền thống cũ đã nối kết các nhà chiêm tinh này với Zoroaster và truyền thống này còn tồn tại khi khoảng năm 614 quân đội xâm lăng Ba Tư chừa lại Thánh đường Giáng sinh của Giáo đoàn Thánh Justinian mà không triệt phá vì ở đó có một thánh tích là trang phục Ba Tư của một trong ba nhà chiêm tinh được cất giữ ở đó. Nhà thần học Tertullian của thế kỷ thứ hai nhắc nhở các nhà chiêm tinh như là những vị vua và đến thế kỷ thứ sáu thì truyền thống này được phổ biến rộng rãi. Nhà thần học Origen trong thế kỷ thứ ba cho rằng các vị vua đó là những nhà thông thái, cho đến thế kỷ thứ sáu họ được gắn cho các tên là Caspar, Melchior, và Balthasar. Trong thời Trung Cổ, các nhà chiêm tinh này được coi như là các vị thánh và các thánh tích của họ được Frederick Barbarossa đưa về Giáo đường Cologne năm 1162 (Theo Who’s Who In The Bible của Joan Comay và Ronald Brownrigg, 1971, trang 262).
Trong đại tác phẩm Catena Aurea của Thánh Thomas Aquinas nhằm thu tập lại tất cả các đoạn văn từ những tác phẩm của các Giáo Phụ (hơn 88 vị trong lịch sử của Giáo Hội) như là những chú thích của họ đối với bộ Tân Ước, người ta đọc thấy Remigius, linh mục tu sĩ của Auxerre, năm 880, cho biết xuất xứ của các vị đạo sĩ như sau: “ REMIG. It should be known, that opinions vary respecting the Magi. Some say they were Chaldaeans, who are known to have worshipped a star as God; thus their fictitious Deity shewed them the way to the true God. Others think that they were Persians; others again, that they came from the utmost ends of the earth. Another and more probable opinion is, that they were descendants of Balaam, who having his prophecy, There shall rise a Star out of Jacob, as soon as they saw the star, would know that a King was born.” (Catena Aurea, ST. Thomas Aquinas, Edited by John Henry Newman, Volume I Gospel of St. Matthew Parts 1 & 2, USA, Second Reprinting, 2009, trang 62). Tạm dịch: “Remig. Cần phải biết rằng có nhiều ý kiến khác biệt liên quan đến các nhà đạo sĩ. Một vài người nói rằng họ là người xứ Can-đê nổi tiếng vì thờ một ngôi sao như là Chúa của họ, nhờ vị Chúa hư cấu đó đã chỉ cho họ đến với vị Chúa thật. Những người khác nghĩ rằng họ là người Ba Tư; các kẻ khác một lần nữa cho rằng họ đến từ những miền tận cùng trái đất. Kẻ khác với ý kiến cho rằng họ là hậu duệ của Balaam, người đã nói tiên tri rằng, Sẽ mọc lên một vì sao Gia-cóp, khi họ vừa thấy ngôi sao, liền biết rằng một vì Vua đã sinh ra.”
Thánh John Henry Newman (+1890), một Hồng Y, đã thành lập Tu viện Oratory (Hùng Biện) ở Birmingham, Anh Quốc, và là một nhà giảng thuyết rất có lợi khẩu.
Con đường của tổ phụ Abraham đi từ Ur tới Canaan cũng được Stephen M. Miller vẽ lại qua một bản đồ trong tác phẩm The Complete Guide To The Bible bán hơn 700,000 ấn bản (Barbour Books, An Imprint of Barbour Publishing, Inc, 2007, trang 17). Cũng trong sách này tác giả Miller dự đoán con đường các vị đạo sĩ đi phải hơn một nghìn dặm và phải mất từ một đến hai năm, nghĩa là lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã lên một, hai tuổi. (Sách đã dẫn, trang 305)
Linh mục Dwight Longenecker trong cuốn sách có tên “Mystery of the Magi, The Quest To Identify The Three Wise Men” (Bí mật của Ba Vua, Nỗ lực tìm ra căn cước ba vị đạo sĩ) nói một cách quả quyết rằng: “Cuốn sách ‘Bí ẩn của các Đạo Sĩ của tôi đã được xuất bản cách đây vài năm, và trong đó tôi đưa ra hai tuyên bố đáng ngạc nhiên: Thứ nhất, các đạo sĩ thực sự hiện hữu… Câu chuyện này không phải là một chuyện cổ tích được thêu dệt ra bởi Giáo Hội sơ khai. Thứ hai, các đạo sĩ đến từ vương quốc láng giềng Nabatea - quốc gia thương mại có lãnh thổ bao trùm các quốc gia ngày nay là Jordan, Syria, Ả Rập Saudi, Yemen và vùng sừng Phi Châu. Dưới đây là một số gạch đầu dòng trong luận điểm của tôi:
Thánh Matthêu nói đó là “Từ phương Đông”. Trong Cựu Ước, “người phương Đông” gần như luôn luôn là những bộ lạc khác nhau sinh sống trên bán đảo Ả Rập. “Những người từ phương Bắc” là người Babylon - Người Ba Tư – vào thời kỳ Chúa Giáng Sinh được gọi là người Parthia.
Thánh Matthêu đang viết thư cho những người Do Thái ở Giuđêa. “Phương Đông” đối với họ là kiểu nói tắt đề cập đến Ả Rập KHÔNG PHẢI Ba Tư.
Chỉ khi trung tâm của Giáo Hội di chuyển theo hướng Bắc và Tây sau khi Giêrusalem thất thủ vào năm 70 sau Chúa Giáng Sinh thì “Phương Đông” mới được cho là Ba Tư / Babylon / Parthia.
Trong lịch sử, các đạo sĩ là một giai cấp bao gồm các pháp sư, các chiêm tinh gia, học giả và “nhà thông thái” đến từ Babylon, nhưng vào thời điểm Chúa Giáng Sinh, họ đã được lan truyền khắp thế giới cổ đại nên Thánh Matthêu sử dụng “Magi” như một thuật ngữ chung để chỉ những nhà tư vấn giỏi cho một triều đình. Hầu hết các vị vua trong thế giới cổ đại đều có các chiêm tinh gia, thầy bói, người giải mộng và các pháp sư.”
Từ khảo cổ học, chúng ta biết rằng tôn giáo của người Nabatea là tôn giáo liên quan đến các vì sao. Các ngôi đền của họ thẳng hàng với các vì sao và chuyển động của mặt trời và một cung hoàng đạo chạm khắc bằng đá đã được phát hiện tại ngôi đền Nabatea tại Khirtbet et Tannur. Các Đạo Sĩ người Nabatea là những người ngắm sao.
Tôn giáo của người Nabatea là sự pha trộn giữa Do Thái giáo, tôn giáo của các bộ lạc Ả Rập du mục và tôn giáo bao gồm cả đạo Zoroast. Cả ba hệ thống tôn giáo đều có những tiên đoán về một Đấng Mesia sắp đến. Các đạo sĩ Nabatea hẳn đã biết những lời tiên tri của Zoroast cũng như những lời tiên tri trong kinh thánh Do Thái.”
Nabatea là một quốc gia buôn bán - họ lấy hàng hóa từ các con tàu cập cảng Yemen và vận chuyển chúng bằng các đoàn lạc đà băng qua sa mạc Ả Rập đến cảng Gaza của Địa Trung Hải và phiá Tây đến phần còn lại của Đế quốc La Mã. Họ cũng chạy các tuyến đường thương mại từ Nam sang Phi Châu và Bắc vào Syria và Parthia. Thành ra, họ đại diện cho “mọi quốc gia” như đã được tiên tri trong chương 60 sách Tiên tri Isaia.” (Mười hai lý do tại sao các đạo sĩ là người Ả Rập chứ không phải là người Ba Tư, bản dịch Việt ngữ của Kim Thúy, Vietcatholic).
Linh mục Dwight Longenecker lớn lên trong một gia đình theo giáo phái Evangelical ở Pennsylvania. Sau khi tốt nghiệp ngành Thần học Căn Bản từ trường Đại Học Bob Jones với học vị về Ngôn Ngữ và Anh Văn, ngài theo học thần học ở Đại Học Oxford và được thụ phong linh mục Anh Giáo, phục vụ như một tuyên úy trường học ở Cambridge, và là một cha xứ thuộc một giáo xứ thôn quê ở The Isle of Wight. Nhận thấy Giáo hội Anh Giáo và bản thân ngài đang đi trên những con đường khác biệt nhau, nên năm 1995, ngài cùng gia đình được nhận vào Giáo Hội Công Giáo. Trong suốt 10 năm ngài sống ở Anh Quốc với nghề cầm bút với những sinh hoạt bác ái. Năm 2006, ngài được phép đến Hoa Kỳ và được thụ phong là một linh mục thuộc Giáo Hội Công Giáo. Bây giờ ngài đang phục vụ trong cương vị là một Linh mục chính xứ tại Nhà Thờ Mân Côi (The Rosary Church) ở Greenville, South Carolina. Tháng 11 năm 2017, Linh mục Dwight Longenecker xuất bản cuốn sách “The Mystery of the Magi” giải mã sự bí mật về các nhà đạo sĩ, và hiện nay ngài đang viết một cuốn sách về các Thiên Thần. Tác phẩm “The Mystery of the Magi, The Quest To Identify The Three Wise Men””, 210 trang, là một cuốn sách biên khảo sử học tôn giáo có giá trị cần đọc trong mùa lễ Giáng sinh.
Theo linh mục Dwight Longenecker, Thánh Bede Khả Kính viết vào những năm đầu thế kỷ thứ tám ở Anh, đã suy tư về nguồn gốc quốc tế của ba vị đạo sĩ cũng có thể hiểu là ba con trai của ông Noah, như truyền thống kể lại, đã sinh sôi này nở trên khắp địa cầu và họ chính là nguồn gốc của ba giống người căn bản. Vị thánh này đã tóm tắt câu chuyện về ba nhà đạo sĩ như sau: “Các vị đạo sĩ là những người đã mang quà tặng đến cho Chúa. Vị thứ nhất được gọi là Melchior, một người già cả có tóc trắng và râu dài… dâng vàng cho Chúa như một vì vua. Vị thứ hai, tên gọi Gaspard, trẻ và không có râu, nước da mầu đỏ dâng Chúa nhũ hương như lời cầu nguyện thánh thiêng. Vị thứ ba, với nước da đen và râu rậm, tên gọi Balthasar,… dâng một dược ý chỉ Con Người sẽ phải chết.” (trang 33). Ở trang tiếp vị linh mục này còn cho biết theo Gioan viết, ngôi sao sáng như mặt trời. Melchior đã trải cuộc hành trình từ Nubia và Arabia, Balthasar từ Godolia và Saba, còn Caspar đến từ Tharsis và Egrisoulle. Mỗi ông vua với một đoàn tùy tùng hoành tráng đã đi theo ngôi sao trong mười ba ngày.
Ý nghĩa của ba lễ vật vàng (gold), nhũ hương (frankincense) và một dược (myrrh) được các nhà chiêm tinh dâng lên Chúa Hài Nhi mang nhiều yếu tố cao cả đặc biệt: vàng, tượng trưng cho uy quyền của vị quân vương, nhũ hương chỉ sự thánh thiêng thơm ngát chốn cung điện và một dược tượng trưng phẩm liệu ướp xác người quyền quý khi họ mất. Nhưng đây là những lời tôi giải thích theo một số kiến thức đọc được trong sách vở trước đây. Một lối giải thích khác có chỗ hay hơn và thấm nhuần mùi đạo vị hơn sẽ được gặp thấy ở sau.
Trong một bộ sách của Maria Valtorta nhan đề tiếng Ý là Il Poema Dell’ Uomo-Dio, bản tiếng Anh đề là The Poem Of The Man-God, và bản tiếng Pháp có tên L’Évangile tel qu’il m’a été révélé, Linh mục Nguyễn Phương (1921-1993) trong thời gian ở tại nhà hưu dưỡng Dòng Đồng Công (Missouri) dịch bộ sách đồ sộ này ra tiếng Việt có tên Người Thần Truyện Thánh, và Nt. Phạm Thị Hùng, CMR cũng có dịch ra tiếng Việt dựa trên bản tiếng Pháp và đã được in ở Việt Nam năm 2007 với cái tên Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi (in năm 2008).
Trước hết xin lưu ý quý độc giả rằng bộ sách Người Thần Truyện Thánh của Maria Valtorta mà Linh mục Nguyễn Phương dịch là Maria Vân Tước Tử được viết do chính Chúa Giê-su, Mẹ Maria và một thiên thần đọc cho Chị ấy viết, cho nên những đoạn chúng tôi trích dẫn dưới đây rút ra từ bộ sách đã được mặc khải, đã đưa Maria Valtorta trở thành một nhà nhiệm khải nổi danh khắp nơi. Sau đây là một vài nét sơ lược về tiểu sử của Chị.
Maria Valtorta (1897-1973) là một nhà mạc khải tư có tiếng trên thế giới trong thế kỷ 20. Chị sinh ngày 14-3-1897 tại Caserta, nước Ý, chỗ thân phụ là một đội trưởng kị binh đang phục vụ, và mất ngày 12-10-1961. Học lực của Valtorta bình thường, từ 1917 đến mùa hè 1920 làm nữ y tá trong các bệnh viện. Năm 1929 gia nhập phong trào Công Giáo tiến hành. Ngày 01 tháng 7 năm 1930, Valtorta dâng mình làm nạn nhân cho phép công thẳng Chúa và được Chúa nhậm lời nên chị bị đau đớn triền miên. Từ năm 1934 đến 1961 chị bị liệt giường cho đến khi chết. “Từ năm 1943 đến 1951, Maria Valtorta đã viết tay hơn 15,000 trang giấy (120 tập vở). Chị ta viết một mách (không chuẩn bị, không phác thảo, không hề sửa chữa, và cũng không đọc lại xem mình đã viết gì. Tác phẩm của chị ta gồm những bức tranh mô tả cảnh vật (tả như Chị ta thấy và nghe được) và những bản văn viết theo lối viết chính tả (theo lời đọc của Chúa Giê-su, Đức Trinh-nữ, và một vị thiên thần). Thể văn trong các chỗ mô tả và các bài chính tả khác nhau một cách rõ rệt. Tại đây chúng ta chứng kiến được sự kiện này, là kết quả, tức là tác phẩm, dường như vượt quá khả năng của nguyên nhân, tức là Maria Vân-tước-tử” (Gabriel M. Roschini, La Vierge Marie dans l’oeuvre de Maria Valtorta, Linh mục Nguyễn Phương dịch Đức Trinh-Nữ trong di bút của Maria Vân-tước-tử, bản dịch tiếng Việt của Vân-Tước Thư-Xá, 1994, trang 6). Đây là một bộ sách đồ sộ về lượng cũng như về phẩm, và trước khi chưa được phổ biến, các vị có liên hệ đến bộ sách như Cha Andrea M. Cecchin, Tu-viện Trưởng Dòng Phụ tá Đức Mẹ, Corrado Berti và Romualdo M. Megliorini, thần học gia, trong buổi hội kiến riêng ngày 26 tháng 2, 1948, đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII khuyến khích: “ Hãy xuất bản sách này ra, đã viết làm sao in ra làm vậy. Ai đọc vào sẽ hiểu”. Ngày nay bộ sách của Maria Valtorta được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
3.- Mạc khải về Chúa Hài Nhi qua ngôi sao lạ.
Sau đây chúng tôi sẽ sử dụng bản in của Nữ tu Phạm Thị Hùng vì đã in dựa trên bản tiếng Pháp để nói về các sự kiện liên quan đến “ngôi sao lạ”, “ba vị đạo sĩ”, cùng các “lễ vật” có đề cập ở trên.
“Tôi thấy gia tăng ánh sáng ban đêm chiếu xuống từ bầu trời đầy sao lấp lánh và rất đẹp ở phía đông. Ánh sáng rất mạnh và rất lớn đến nỗi nó như ở rất gần, giống như những bông hoa trên bầu trời bằng nhung mà người ta có thể đến rờ vào nó. Tôi ngước mắt lên để tìm cái nguồn làm gia tăng ánh sáng này. Tôi thấy một ngôi sao lớn khác thường, giống như một vầng trăng nhỏ, đang tiến đi trên bầu trời của Bétlem. Những ngôi sao khác như mờ đi để nhường lối cho nó, giống như những kẻ theo hầu một bà hoàng, vì ánh sáng của nó trổi vượt, tựa như làm chúng biến mất. Từ quả cầu giống như một viên lam ngọc khổng lồ, được soi sáng ở trong ruột bởi một mặt trời, phát ra những luồng sáng, trong đó trổi vượt là ánh sáng lam ngọc, hòa tan với mầu vàng của hoàng ngọc, mầu xanh của bích ngọc, mầu sáng của miêu ngọc, ánh đỏ máu của hồng ngọc, và các lấp lánh êm dịu của tử ngọc. Tất cả các đá quí của trái đất đều ở trong giải sáng đang di chuyển mau lẹ trên trời, dợn sóng giống như nó sống động. Nhưng mầu sắc trội hơn cả là mầu lam ngọc lạt và sáng của Thiên Đàng. Trông như nó mưa xuống từ trái cầu của vì sao, nó chiếu xuống và phủ mầu xanh biếc cho các nhà cửa, đường phố, đất đai Bétlem, cái nôi của Vị Cứu Tinh.” (Maria Valtorta, Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi, Nt. Phạm Thị Hùng dịch, Quyển thứ nhất, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, trang 246).
Tiếp đây là chân dung và phong thái của các nhà chiêm tinh chuẩn bị trước khi bước vào kính bái Chúa Hài Nhi, theo lời tường thuật của Maria Valtorta (viết theo lời đọc của Chúa Giê-su) mà trong bản dịch này dịch giả viết là nhà đạo sĩ:
“Trong khi các đầy tớ tiến lại chỗ dành cho các đoàn du mục và các con vật, ba Đại Nhân Vật xuống khỏi các con vật dành riêng của họ mà một người đầy tớ dắt tới một nơi khác, họ đi bộ về phía căn nhà. Ở đó, họ quỳ gối, trán chạm đất và hôn cát bụi. Đó là ba nhân vật quyền thế, theo như y phục của họ chỉ cho biết. Một người nước da rất sậm, vừa xuống khỏi con lạc đà, ông liền bao phủ toàn thân trong một chiếc áo lụa trắng tuyệt vời. Trên trán ông có một vòng đai bằng kim quí. Ở thắt lưng ông là chiếc giây lưng đắt tiền, ở đó có dắt một con dao hay cái kiếm mà bao có trang trí các hạt ngọc. Hai người kia cũng xuống khỏi con ngựa tuyệt trần. Một ông mặc vải sọc rất đẹp mà mầu vàng nổi bật. Y phục này được làm giống như một loại áo dài, có một chiếc nón và một sợi giây, hình như tất cả là một mảnh liền bằng sợi vàng, vì nó trang trí bằng các đường thêu chỉ vàng. Người thứ ba mặc một chiếc áo lụa thùng thình, để ló ra chiếc quần rộng và dài túm lại ở cổ chân. Ông khoác một chiếc khăn rất mỏng, giống như một mảnh vườn đầy hoa, vì nó được trang trí toàn bộ bằng những mầu sắc rất tươi. Trên đầu ông cuốn khăn, được giữ bằng một sợi giây xích bằng miêu ngọc và kim cương.
Sau khi đã tôn kính căn nhà, nơi Vị Cứu Tinh cư ngụ, họ đứng dậy và đi tới nhà dành cho đoàn du mục, nơi các đầy tớ đã gõ cửa để xin mở.
(Thị kiến dừng lại ở đây, rồi sau ba tiếng đồng hồ, lại tiếp tục với cảnh các nhà đạo sĩ thờ lạy Chúa Giêsu).
Đây là lúc ban ngày. Mặt trời rực rỡ trên trời vào lúc sau trưa. Một người đầy tớ của các Đạo Sĩ băng qua công trường và đi lên chiếc cầu thang nhỏ của căn nhà nhỏ. Anh ta vào. Anh ta ra. Anh ta trở về quán trọ.
Ba nhà Đạo Sĩ ra, mỗi người có người đầy tớ riêng theo sau. Họ băng qua công trường. Số người ít oi qua lại quay mặt nhìn các nhân vật oai vệ đi qua rất từ từ và trang trọng. Từ lúc người đầy tớ vào tới lúc ba nhà Đạo Sĩ vào, có khoảng thời gian độ một khắc đồng hồ. Điều đó cho phép các người trong nhà chuẩn bị đón khách.
Những người này bây giờ ăn vận còn sang trọng hơn là đêm hôm trước: Lụa là rực rỡ, vàng ngọc sáng chói. Một chòm lông đắt giá lốm đốm những vảy quí lấp lánh trên đầu của ông có quấn khăn. Một trong những người đầy tớ mang một chiếc rương có cẩn khắp chung quanh, mà các đồ trang điểm bằng kim loại đều là vàng cẩn. Người thứ hai mang một chiếc cúp được làm cách rất tinh tế, được đậy bằng một cái nắp hoàn toàn bằng vàng chạm trổ. Người thứ ba mang một thứ bình rộng và thấp, cũng bằng vàng, có nắp đậy hình kim tự tháp mà ở trên đỉnh có một viên kim cương. Những vật này hẳn là nặng, vì các người đầy tớ mang cách khó lòng, nhất là người mang chiếc rương. Ba người lên cầu thang và vào. Họ vào trong một phòng mà từ ngoài đường, người ta phải đi ra lối sau nhà để vào. Người ta nhận thấy mảnh vườn nhỏ qua chiếc cửa sổ mở ra phía sau cho mặt trời. Các người chủ nhà đang đứng đó để nhìn: Một người đàn ông, một người đàn bà, và ba hay bốn đứa trẻ trong khoảng giữa tuổi của hai người trên.
Maria ngồi ôm con trong lòng, Giuse đứng bên cạnh. Nhưng cô đứng dậy ngay và cúi mình khi thấy ba nhà Đạo Sĩ vào. Cô mặc toàn trắng. Cô rất đẹp trong y phục trắng đơn giản, bao phủ từ cổ tới bàn chân, từ vai tới cổ tay tinh tế. Rất đẹp với đầu tóc quấn các bím vàng vòng quanh như triều thiên, với khuôn mặt mà sự cảm động phủ cho một lớp mầu hồng rõ hơn, với đôi mắt mỉm cười dịu dàng, với chiếc miệng mở ra để nói: “Thiên Chúa ở với các ngài”. Ba nhà Đạo Sĩ ngây ra một lát, rồi họ tiến lên, họ quì phục dưới chân cô và xin cô ngồi.
Họ thì không, họ không ngồi, dù Maria mời. Họ vẫn quì gối và ngồi trên gót chân. Ba người đầy tớ ở đàng sau và cũng quì gối. Tất cả họ đều ở ngay sau cửa. Họ để ba vật mà họ mang theo ở trước mặt và họ chờ.
Ba nhà Đạo Sĩ nhìn ngắm chú bé. Tôi thấy chú có vẻ độ từ chín tháng tới một năm, vì chú rất tỉnh táo và phốp pháp. Chú ngồi tựa vào ngực mẹ. Chú mỉm cười và nói líu lo với giọng chim nhỏ. Chú cũng mặc toàn trắng như má, với đôi xăng-đan tí xíu ở chân. Y phục đơn giản: một áo dài nhỏ, từ đó lú ra các bàn chân lúc lắc, đôi bàn tay mũm mĩm muốn rờ vào tất cả, và nhất là khuôn mặt nhỏ rất đẹp với đôi mắt mầu xanh dương đậm trong sáng; cái miệng núm đồng tiền ở hai bên khi chú cười nhe ra mấy chiếc răng nhỏ. Các lọn tóc giống như bụi vàng, vì chúng bóng và mịn như tơ.
Người Đạo Sĩ lớn tuổi nhất nói nhân danh tất cả. Ông giải thích cho Maria rằng họ đã thấy, vào một đêm của tháng mười hai trước, một vì sao đã thắp sáng lên trên trời với vẻ rực rỡ khác thường. Các bản đồ trời không hề bao giờ có vì sao này hay báo hiệu nó. Tên nó không được biết tới. Nó không có tên. Được sinh ra từ lòng Thiên Chúa, nó đã nở hoa để nói cho loài người một sự thật có phước, một bí mật của Thiên Chúa. Nhưng loài người không lưu tâm, vì linh hồn họ chìm trong bùn. Họ không nhìn lên Thiên Chúa và không biết đọc những lời Người viết ra - Nguyện chúc Người muôn đời – bằng những thiên thể bằng lửa trên bầu trời.
Họ đã thấy ngôi sao và đã cố gắng để hiểu tiếng nói của nó.
Tự nguyện từ bỏ một ít giấc ngủ mà trước đây họ đã chấp nhận cho cơ thể họ. Họ quên ăn để vùi đầu vào việc nghiên cứu hoàng đới, sự giao hội của các hành tinh; thời gian, các mùa, các tính toán về thời gian cổ xưa và các phối hợp về thiên văn, đã nói cho họ tên và sự bí mật của ngôi sao. Tên của nó là “Messi”. Bí mật của nó là: “Đấng Messi đến trong thế giới”. Và họ đã ra đi để thờ lạy Người. Người nọ không hề biết gì về những người kia. Băng qua núi, sa mạc, thung lũng, sông ngòi, đi trong đêm, họ đã đi về phía Palestin, vì ngôi sao đi về hướng này. Mỗi người, từ ba điểm khác nhau trên trái đất, đều đi về hướng này. Rồi họ gặp nhau ở phía bên kia biển Chết. Ý Thiên Chúa đã hội tụ họ ở đó, và cùng nhau, họ tiến lên phía trước. Họ hiểu nhau, mặc dù mỗi người vẫn nói tiếng của mình. Họ hiểu và có thể nói những ngôn ngữ của các nước mà họ đi qua, bởi phép lạ của Thiên Chúa.
Cùng nhau họ đi về Jêrusalem, vì Đấng Messi là Vua của Jêrusalem, vua của người Do-Thái. Nhưng ngôi sao biến mất ở trên trời của thành phố này. Họ cảm thấy con tim họ vỡ ra vì đau đớn. Họ tự xét mình xem có phải vì họ bất xứng với Thiên Chúa. Nhưng lương tâm của họ bảo đảm cho họ. Họ liền tìm đến vua Hêrôđê để hỏi xem Vua Do-Thái sinh ra trong lâu đài nào để họ đến thờ lạy Người. Nhà vua liền tụ họp các thủ lãnh của các thầy cả, các luật sĩ để hỏi xem Đấng Messi sinh ra ở đâu, và họ trả lời ông: “Tại Bétlem xứ Juđa”.
Họ đi về phía Bétlem và ngôi sao lại hiện ra trước mắt họ. Nó đã rời Thành Thánh, và tối hôm qua, nó đã gia tăng vẻ rực rỡ của nó. Tất cả bầu trời đều được đốt cháy. Rồi ngôi sao dừng lại, thu thập ánh sáng của các ngôi sao khác vào các luồng sáng của nó và chiếu xuống trên căn nhà này. Họ liền hiểu là trẻ Thiên Chúa sinh ra ở đây. Bây giờ họ thờ lạy Người, dâng cho Người các tặng phẩm hèn mọn của họ, và hơn tất cả, họ dâng cho Người quả tim của họ, sẽ không bao giờ ngừng chúc tụng Thiên Chúa vì ơn Người đã ban cho họ, và họ yêu mến Con của Người mà họ được nhìn thấy trong một nhân tính thánh thiện. Rồi họ trở về cho Hêrôđê biết, vì ông cũng muốn thờ lạy Người.
“Đây cùng một trật: Vàng là thứ thích hợp với một vị Vua, đây là Nhũ hương, thích hợp với Thiên Chúa; và đây, ôi Mẹ, đây là mộc dược, vì con Mẹ sinh ra là Thiên Chúa nhưng cũng là người, trong thân xác của Người và trong cuộc sống làm người, Người sẽ biết cái cay đắng của định luật không thể tránh được của sự chết. Tình yêu của chúng con không muốn nói những lời này, và nghĩ rằng thân xác Người sẽ muôn đời giống như Thần Trí Người. Nhưng ôi Bà! Nếu sự nghiên cứu của chúng con, nhất là nếu tâm hồn chúng con không lầm, thì con Bà là Vị Cứu Tinh, là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, và vì thế, để cứu thế giới, Người phải mang trên mình Người mọi khốn nạn của thế gian, mà một trong các hình phạt là sự chết. Chất nhựa này để cho giờ đó, để xác thịt thánh của Người không phải biết tới sự hư thối, và bảo trì nó nguyên vẹn tới giờ sống lại. Chớ gì do những của này, Người nhớ đến chúng con và cứu các tôi tớ của Người, bằng cách ban Nước của Người cho chúng con. Lúc này, để được thánh hóa, xin Mẹ là Mẹ Người, ban con nhỏ của Mẹ cho tình yêu của chúng con, để nhờ được hôn chân Người, phúc lành của Trời xuống trên chúng con”. (Maria Valtorta, Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi, (bản dịch đã dẫn, trang 245-248).
Bethlehem là một ngôi làng khoảng 5 dặm (8km) phía nam Giêrusalem, gọi “Bethlehem trong xứ Judea”, sinh quán của Chúa Giêsu để phân biệt với thị trấn Bethlehem khoảng 7 dặm (11.3km) thuộc tây bắc Nazareth.
4.- Một vài chú thích thay cho lời kết…
Để chú thích các chữ “vì sao của Người” mà Thánh Mát-Thêu viết trong Tin Mừng trích dẫn ở đầu bài viết này, Giám Mục Frederick Justus Knecht, D.D. trong tác phẩm A Practical Commentary on Holy Scripture, ấn bản đầu tiên bằng tiếng Đức ra mắt năm 1883, được tái bản ở Đức mười sáu lần, ấn bản tiếng Anh năm 1894, đã viết như sau: “His star. This star which the Magi, before they left their home, had seen rising in the direction of Judaea, and therefore in the west, was no ordinary star, for it “went before them” from Jerusalem to Bethlehem, and there stopped over the house where the Child Jesus dwelt. It was, we may suppose, a sort of meteor, an appearance of light in the form of a star, of an extraordinary and brilliant description. The holy bishop of Antioch, Ignatius, a disciple of the Apostle St. John, thus writes about it in his epistle to the Ephesians: “A star appeared in the heavens which eclipsed all the other stars; its light was indescribable, and its novelty caused astonishment.” The holy kings who, full of faith, were waiting for the promised Saviour, by divine inspiration recognized this star to be the sign which was to herald the Birth of the Messias; therefore they called it His star.” (TAN Books, Charlotte, North Carolina, 2003, trang 465).
Tạm dịch: “Ngôi sao của Ngài. Ngôi sao này, mà các nhà đạo sĩ, trước khi họ rời nhà của họ, đã mọc lên chỉ hướng Judaea và bởi vậy ở về hướng tây, không phải là một ngôi sao bình thường, vì nó “đi trước họ” từ Jerusalem đến Bethlehem và đã dừng lại trên ngôi nhà có Trẻ Giêsu trú ngụ. Chúng ta có thể đoán rằng đó là một loại thiên thể, một vầng sáng xuất hiện dưới hình thức một vì sao lạ thường và sáng láng khi miêu tả. Thánh giám mục của Antioch, Ignatius, học trò của Thánh Tông Đồ Gioan, đã viết về nó trong một thư gửi cho các tín hữu Ê-phê-sô như sau: “Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời che khuất các vì sao khác; ánh sáng của nó không thể diễn tả được và câu chuyện của nó gây ra sự ngạc nhiên.” Các vị vua thánh thiện, tràn đầy đức tin, đã trông chờ vị Cứu Thế được hứa hẹn và nhờ nguồn cảm hứng thánh thiêng đã công nhận ngôi sao này là dấu chỉ báo trước cuộc Sinh hạ của Đấng Messia; vì thế họ gọi nó là ngôi sao của Ngài.”
Đã có nhiều nỗ lực trong việc giải thích nguồn ánh sáng tích tụ lại qua sự chiếu sáng khác thường của ngôi sao lạ, cũng được các nhà nghiên cứu Thánh Kinh gọi là “Ngôi sao Bê Lem” (Star of Bethlehem). Trong cuốn sách Archaeological Study Bible, An Illustrated Walk Through Biblical History And Culture, nhà xuất bản Zondervan, do nhóm Walter C. Kaiser và Colman M. Mockler chủ biên, 2005, trang 1560 có ghi “đó không phải là một ngôi sao bình thường, một hành tinh hay một ngôi sao chổi, mặc dù một vài nhà chú giải đã nói nó là một sự phối hợp của Jupiter và Saturn hoặc với một vài hiện tượng thiên văn khác.”
Trong cuốn sách của Stephen M. Miller đã được trích dẫn ở trên, tác giả này cho biết khoảng một nghìn năm lại có hiện tượng Jupiter và Saturn cùng với trái đất nằm trên một đường thẳng ba lần trong chỉ một năm. Vào năm 7 BC, một vài nhà chiêm tinh đã ước đoán chúng nằm trên một trục thẳng trong giải sao Pisces. Theo hệ thống tử vi cổ Trung Đông, Jupiter tượng trưng cho các vị vua, Saturn tượng trưng người Do Thái và Pisces (“con cá”) là quê hương Do Thái. Chính sự hội ngộ của ba luồng sáng hiếm hoi này có thể đã dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Israel tìm chiêm bái vị vua mới sinh. (trang 304) Cũng trong cuốn sách này, Miller đã ghi lại lộ trình của ba nhà chiêm tinh khởi sự từ Susa đi qua Babylon dọc theo sông Euphrates theo về hướng tây, đối diện với Caesarea Philippi vòng xuống Capernaum tới núi Tabor đi dọc xuống hữu ngạn sông Jordan.
Trong bài hát “Ngôi sao lạ” của Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích mà chúng tôi đã nêu lên ở phần đầu của bài viết này, có hai chữ mộc dược được vị học giả này dùng để chỉ một trong những báu vật ba vị đạo sĩ dâng lên cho Chúa Hài Đồng ngoài hai món vàng và nhũ hương. Chúng tôi muốn dừng lại đây và thử hỏi nên dùng hai chữ mộc dược 木 藥 hay một dược 沒 藥? Chúng tôi đã tra các tự điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Văn Khôn, Gustave Hue mà không thấy hai chữ này, chỉ có chữ dược thảo mà sách của Đào Duy Anh có chua thêm tiếng Pháp là plantes pharmaceutiques, còn sách của Gustave Hue ghi thêm là plantes médicinales. (id. végétaux). Không bằng lòng với những gì có trong tay, chúng tôi tìm thêm trong cuốn Pháp-Việt Từ-Điển của cụ Đào dày cộm có tới 1960 trang khổ lớn và thấy ghi: “Myrrhe n.f. (Thực) Nhựa cây mật nhi lạp 密 兒 拉 thường gọi là một-dược. 沒 藥”(Đào Duy Anh, Pháp-Việt Từ-Điển (Chú thêm chữ Hán) Dictionnaire Francais – Vietnamien, In lần thứ hai, Deuxième Édition, Minh-Tân, Paris, 1951, trang 1120).
Cũng trong tác phẩm A Practical Commentary on Holy Scripture này có ghi chú chữ một dược như sau: “Myrrh. This is a bitter though sweet-smelling resin which is laid on the bodies of the dead to preserve them from corruption.” (trang 466) Tạm dịch: “Một dược.- Đây là một thứ nhựa cây đắng mà có mùi ngọt dùng để đặt trên xác chết để giữ khỏi hư thối.” Chữ một theo Hán văn có nghĩa là chết. Như vậy một dược là loại thuốc làm từ nhựa cây để ướp xác người chết, đúng như trong nhiều tư liệu trước đây và nhất là trong tư liệu của Maria Valtorta đọc thấy ở trên.
Trong Traduction Oecuménique De La Bible, bản dịch Kinh Thánh đại kết do Tin Lành, Chính Thống Giáo và Công Giáo dịch chung thường gọi là bản TOB viết:
“Entrant dans la maison, ils virent l’enfant avec Marie, sa mère, et, se prosternant, ils lui rendirent homage; ouvrant leurs coffrets, ils lui offrirent en présent de l’or, de l’encens et de la myrrhe.” Tạm dịch: “Vào trong nhà, họ thấy hài nhi với Marie, mẹ Người, và họ quỳ gối thờ lạy, họ dâng lên tặng phẩm gồm có vàng, nhũ hương và một dược.” Ở dưới ta đọc thấy ghi chú: “Parfums traditionnels de l’Arabie.- nghĩa là “Các hương liệu truyền thống của xứ Ả Rập” (Bản in của Société biblique francaise & Editions du Cerf, Paris, 2004, trang 1397).
Tham khảo sách Chronological Study Bible, Explore God’s Word In Historical Order, chúng tôi thấy ghi: “The gifts given to Jesus by the foreign rulers were luxury items (Matt. 2: 11), like the symbolic gifts exchanged by rulers today, and like the wealth brought by Gentiles to Israel’s king (Ps. 72:10; Is. 60:6). Frankincense and myrrhe are resins or gums taken from plants that grow in Arabia or the Horn of Africa. They were used for incense and perfume.” Tạm dịch: “Các tặng phẩm do các vị vua ngoại quốc dâng lên Chúa Giêsu là những loại quý báu, cũng giống như các tặng vật mang tính tượng trưng trao đổi giữa các vua chúa ngày nay tương tự các đồ quý giá người nước ngoài mang đến cho vua Israel (Ps. 72:10; Is. 60:6). Nhũ hương và một dược là loại nhựa hay chất keo lấy từ các thảo mộc trồng ở Ả rập hoặc vùng Sừng Phi châu. Chúng được dùng để xông hương hoặc ướp thơm.” (Bản in năm 2008 do Thomas Nelson, Inc., trang 1087).
Đoạn cuối chương 56 của bộ sách của Maria Valtorta miêu tả sự giã từ của ba nhà đạo sĩ và Thánh gia như sau: “Bây giờ chủ cũng như đầy tớ, tất cả đều ở trên yên. Họ ra lệnh khởi hành. Ba người cúi xuống tới sát cổ con vật của họ để chào lần chót. Giuse cũng cúi mình, Maria cũng vậy. Và Mẹ lại cầm tay Giêsu để vẽ một cử điệu từ biệt và chúc lành.”
James Jacques Joseph Tissot (khoảng năm 1894) đã để lại một tác phẩm hội họa bất hủ có tên “The Journey of the Magi” (Cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh) hiện trưng bày tại Minneapolis Institute of Arts có lẽ cũng đã tạo nên nguồn cảm hứng nghệ thuật lai láng cho nhiều người trên thế giới từ đó cho đến ngày nay.
Gerad David, The Adoration of the Magi, circa 1520.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia, January 03-2025
Nếu nhìn trong tổng thể, mô hình máng cỏ của Thánh Phan-xi-cô Khó Khăn từ thế kỷ XII đã để lại một trải nghiệm tâm linh và nghệ thuật không thể nào xóa mờ trong ký ức của nhân loại thì dấu ấn của một ngôi sao lạ và ba chiêm tinh gia, thường được gọi là “Ba Vua” đã và sẽ là những dấu ấn bất hủ đóng vào trên trang đầu của lịch sử Vua Trời giáng sinh trong tiến trình cứu độ nhân loại.
1.-Về ngôi sao lạ ở phương Đông, nguồn cảm hứng văn chương bất tận.
Trong sách Tân Ước, Thánh sử Mát-Thêu nói về ngôi sao lạ như sau:
“Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Vidimus stellam ejus in oriente et venimus adorare Eum” Mát-thêu 2: 1-2).
Khi định nghĩa về văn chương, một học giả Việt Nam, ông Phan Kế Bính đã cho biết : “văn là vẻ đẹp, chương là vẻ sáng”, vậy thì thiên văn 天 文 sau những danh từ kép như thiên nhiên, thiên tượng, thiên thể, thiên quốc, thiên mệnh v.v… sẽ phải được định nghĩa như là vẻ đẹp của trời đất, mà đẹp nhất trong mùa giáng sinh đối với người Kitô Hữu đó là hiện tượng ngôi sao lạ được vị thánh sử ở trên nói tới trong sách Tin Mừng của ngài.
Ngôi sao lạ là một hiện tượng phổ biến trong nền văn chương Ki-Tô Giáo nhất là từ khi Thánh Phanxicô Assisi (1182-1226) thường gọi Thánh Phanxicô Khó Khăn có sáng kiến làm hang đá vào dịp Lễ Giáng Sinh từ thế kỷ XII và sau đó lan tràn khắp thế giới.
Tại Giáo Phận Huế có Linh Mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích (1891-1978) là người có nhiều tài năng, nhất là làm thơ và soạn nhạc thánh ca. Trong tập thơ Sảng Đình Thi Tập của Ngài do Giáo sư Đoàn Khoách biên soạn có bài hát “Ngôi sao lạ” ca được theo điệu Đăng đàn cung vốn là phần nhạc khi cử quốc thiều của Triều Nguyễn (Thanh Tịnh xb, California, USA, 2001, trang 112-114).
Bài hát ấy như sau:
Vidimus stellam ejus in oriente…
Lạ lạ lạ kìa áng (quang) hào quang
Vầng sao mới rực rỡ huy hoàng!
Rạng ngời trong đêm mờ mịt,
Đêm mờ mịt rày bóng đà tan.
Điềm Thiên Chúa hạ giáng nhân hoàn,
Nghiệm lời Thánh kinh đà nghiệm,
Nay đà nghiệm (phân) mười phân,
Chính sao dòng Gia-cọp,
Đêm mờ mịt rày bóng đà tan.
Et venimus adorare Eum…
Lòng khoan khoái vội bước lên đường,
Lạnh lùng xa xuôi nào ngại.
Muôn ngàn dặm dầm tuyết giày sương,
Từ quê vức vượt núi băng rừng,
Một lòng quyết cho tìm đặng,
Lo tìm đặng Chúa lòng thương,
Bước ta cùng gắng bước,
Lo tìm đặng Chúa lòng thương,
Bước ta cùng gắng bước,
Muôn ngàn dặm dầm tuyết giày sương.
Surge, illuminare, Jerusalem, quia venit lumentuum, et gloria Domini super te orta est…
Dậy dậy dậy! Thành thánh Jérusalem!
Nầy ơn Chúa giọi sáng êm đềm,
Một vùng vinh quang ngời rạng,
Cung và điện rực rỡ càng thêm
Đoàn xe giá chật trước sân thềm,
Một nhà cháu con vầy mặt,
Vui vầy mặt xem kìa xem,
Bốn phương đều đua đến,
Xe và ngựa nêm đường nêm,
Lễ hương vàng dâng tiến,
Vàng lời nguyện nhà Chúa ngày đêm.
Et tu, Bethlehem, nequaquam minima es in principibus Juda; ex te enim exiet dux qui regat populum meum Israel…
Lời Kinh thánh, lại chỉ đem đàng,
Nọ thành Bethleem hèn mọn,
Nơi hèn mọn đầy yếng hào quang,
Nầy hang đá, một Trẻ đơn hèn,
Nệm nằm nắm rơm và rạ,
Rơm và rạ ôi (sang) giàu sang.
Yếng sao mầu soi đến,
Rơm và rạ ôi (sang) giàu sang,
Yếng sao mầu soi đến,
Nơi hèn mọn đầy yếng hào quang.
Quia melior est dies una in atriis tuis super millia. (Ps. 83)
Ngày ơn phước nặng giá muôn vàn,
Một ngày hơn trăm ngàn vạn,
Hơn ngàn vạn ngày phước trần gian;
Vì trông thấy mặt Chúa thiên đàng,
Gội nhuần ơn quang mầu nhiệm.
Tâm hồn đặng (an) bằng an,
Trí khôn đầy ánh sáng,
Tâm hồn đặng (an) bằng an,
Trí khôn đầy ánh sáng,
Hơn ngàn vạn ngày phước trần gian.
Et procidentes adoraverunt Eum; et apertis thesauris suis, obtulerunt ei munera aurum, thus et myrrham.
Quì dâng hiến một lễ phi thường,
Nọ vàng, nhũ hương, mộc-dược,
Hương, mộc-dược cùng tấm lòng đơn.
Vàng yêu mến, dạ mến khôn lường,
Một đời đắng cay mộc-dược,
Thêm lời nguyện như (hương) mùi hương,
Chúa Hài Đồng thương đoái,
Thêm lời nguyện (hương) mùi hương,
Chúa Hài Đồng thương đoái.
(Lê Ngọc Bích, Sưu Tập Thơ-Văn-Nhạc-Họa của Linh Mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích, Sài Gòn 2003, trang 75-77).
Trong cuốn ĐỨC GIÊ-SU, CUỘC ĐỜI VÀ THỜI ĐẠI, viết bằng tiếng Anh (Jesus and His times) của sáu tác giả người Mỹ, Charles Bricker, Lionel Casson, Charles Flowers, Wendy Murphy, Bryce Walker, Bernard Weisberger do Nguyễn Ước dịch, có viết rằng: “Khi Đức Giê-su ra đời, chúng ta được kể về Các Nhà Chiêm Tinh – (còn gọi là nhà thông thái, đạo sĩ, hoặc theo truyền khẩu, ‘các vua’) – “từ phương Đông đến Giê-ru-sa-lem, và hỏi: ‘Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người” (Mt. 2:1-2) Mát-thêu không diễn tả đầy đủ ngôi sao mà Các Nhà Chiêm Tinh đi theo, ngoài việc mô tả nó là một hiện tượng lạ lùng. Nó là ngôi sao chuyển động thẳng phía trước Các Nhà Chiêm Tinh và dừng lại ngay trên ngôi nhà Đức Giê-su ở. Những nhà khảo cứu bằng chứng lịch sử thấy chẳng có gì ăn khớp. Không có chỉ dấu nào về một ngôi sao chỗi lớn xuất hiện cách tự nhiên vào thời Đức Giê-su ra đời, dù người ta có thể thấy sao chỗi nổi tiếng Ha-lây vào năm 12 trước C.N. Nhiều sao chỗi xuất hiện suốt lịch sử theo chu kỳ đều đặn đáng tin nhưng hiếm khi xảy ra chuyện chúng có vẻ báo điềm lạ hoặc điềm xấu.” (Nhà xb. Văn hóa Thông tin, 2003, trang 45). Đọc tiếp đoạn dưới, các tác giả này viết: “Một số người suy đoán Mát-thêu, vốn không phải chiêm tinh gia, đã có thể dễ dãi diễn tả hiện tượng đặc biệt đó cách giản dị là “một ngôi sao”. (trang 46).
Quả thật, các tác giả người Mỹ trên đây đã tỏ ra hời hợt không biết Mát-thêu đưa ra tín hiệu nào về “một ngôi sao”, nhưng các nhà chú giải Kinh Thánh của Công Giáo, Chính Thống Giáo hay Tin Lành chắc chắn là phải biết ý nghĩa của ba chữ “một ngôi sao” là muốn nói điều gì.
Trong sách The Catholic Study Bible, các nhà chú giải Kinh Thánh đã viết: “Chúng tôi đã thấy ngôi sao của ngài: đây là một niềm tin cũ mang tính phổ quát là một ngôi sao mới đã xuất hiện vào thời có một đấng thống trị sinh ra. Mát-thêu cũng trích dẫn câu chuyện của Balaam trong Cựu Ước, người đã nói tiên tri rằng “một ngôi sao sẽ xuất hiện từ Gia-cóp” (Dân số, 24, 17), mặc dầu ở đó ngôi sao không có nghĩa là một hiện tượng thiên văn mà chỉ một ông vua.” (Oxford University, 2006, trang 1254).
Trong cuốn The Orthodox Study Bible, các học giả Kinh Thánh đã viết về “ngôi sao lạ” như sau: “Ngôi sao nói lên ý nghĩa quan trọng khác thường của việc hạ sinh Chúa Cứu Thế Hài Nhi. Trong thời cổ đại ngôi sao tượng trưng cho một vị thần, một quân vương được thần hóa (Dân số 24:17). Ngôi sao này là dấu hiệu của chính Đấng Messia, có nghĩa là ánh sáng Người sẽ soi chiếu trên thế gian.” (Nhà xb. Thomas Nelson Publishers, Nashville, Tennessee, 1993, trang 6).
2.-Những người đã thấy ngôi sao lạ…
Trong sách Dân Số của Cựu Ước, Balaam là một tiên tri ngoại giáo đã nói: “… một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp” (Dân số 24: 17) tức là nói trước về sự sinh hạ của Đấng Cứu Chuộc qua “ngôi sao lạ”, thì việc ba nhà chiêm tinh, đạo sĩ hay ba vua ở phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường mà có thể tìm tới thờ lạy Hài Nhi Giê-su quả là một biến cố mang ý nghĩa trọng đại.
Theo từ nguyên, Magi là tiếng Hy lạp có nghĩa là các nhà thông thái, các đạo sĩ hay ba vua theo truyền thống của Hòa Lan, Đức và kể cả Việt Nam. Tại các quốc gia Âu châu lễ ba vua được tổ chức rất lớn. Các nhà thông thái này là những người có thể xuất phát từ Ba Tư, Babylon hay Ả-rập đến bái lạy trẻ Giê-su là Đấng Thiên Sai. Tiếng Hy lạp dùng trong Mát-thêu chỉ các nhà thông thái được dịch ra tiếng Anh là các nhà chiêm tinh. Dõi theo một ngôi sao, họ từ phương Đông tìm đến Bethlehem với các lễ vật là vàng, nhũ hương và một dược. Tại sao họ đến từ phương Đông? Đọc trong Cựu Ước chúng ta thấy Abraham là tổ phụ dân Do Thái, được Thiên Chúa gọi từ miền Ur tức phía đông đất nước Do Thái hiện nay, rồi đi tới một miền đất mới. Khi tổ phụ Abraham ra đi khoảng thế kỷ 18 trước C.N, bà con của ông còn lại ở vùng Ur rất nhiều cho nên các nhà chiêm tinh có thể là hậu duệ của Abraham trong nhiều sắc dân ở phương Đông. Tổ phụ Abraham từ Ur tiến lên phía bắc dọc theo sông Euphrates qua Larsa, Erech hoặc Nippur tới Babylon lên Sippar… rồi hướng về phía tây đi tới đất Canaan. Một vài câu chuyện truyền thống cũ đã nối kết các nhà chiêm tinh này với Zoroaster và truyền thống này còn tồn tại khi khoảng năm 614 quân đội xâm lăng Ba Tư chừa lại Thánh đường Giáng sinh của Giáo đoàn Thánh Justinian mà không triệt phá vì ở đó có một thánh tích là trang phục Ba Tư của một trong ba nhà chiêm tinh được cất giữ ở đó. Nhà thần học Tertullian của thế kỷ thứ hai nhắc nhở các nhà chiêm tinh như là những vị vua và đến thế kỷ thứ sáu thì truyền thống này được phổ biến rộng rãi. Nhà thần học Origen trong thế kỷ thứ ba cho rằng các vị vua đó là những nhà thông thái, cho đến thế kỷ thứ sáu họ được gắn cho các tên là Caspar, Melchior, và Balthasar. Trong thời Trung Cổ, các nhà chiêm tinh này được coi như là các vị thánh và các thánh tích của họ được Frederick Barbarossa đưa về Giáo đường Cologne năm 1162 (Theo Who’s Who In The Bible của Joan Comay và Ronald Brownrigg, 1971, trang 262).
Trong đại tác phẩm Catena Aurea của Thánh Thomas Aquinas nhằm thu tập lại tất cả các đoạn văn từ những tác phẩm của các Giáo Phụ (hơn 88 vị trong lịch sử của Giáo Hội) như là những chú thích của họ đối với bộ Tân Ước, người ta đọc thấy Remigius, linh mục tu sĩ của Auxerre, năm 880, cho biết xuất xứ của các vị đạo sĩ như sau: “ REMIG. It should be known, that opinions vary respecting the Magi. Some say they were Chaldaeans, who are known to have worshipped a star as God; thus their fictitious Deity shewed them the way to the true God. Others think that they were Persians; others again, that they came from the utmost ends of the earth. Another and more probable opinion is, that they were descendants of Balaam, who having his prophecy, There shall rise a Star out of Jacob, as soon as they saw the star, would know that a King was born.” (Catena Aurea, ST. Thomas Aquinas, Edited by John Henry Newman, Volume I Gospel of St. Matthew Parts 1 & 2, USA, Second Reprinting, 2009, trang 62). Tạm dịch: “Remig. Cần phải biết rằng có nhiều ý kiến khác biệt liên quan đến các nhà đạo sĩ. Một vài người nói rằng họ là người xứ Can-đê nổi tiếng vì thờ một ngôi sao như là Chúa của họ, nhờ vị Chúa hư cấu đó đã chỉ cho họ đến với vị Chúa thật. Những người khác nghĩ rằng họ là người Ba Tư; các kẻ khác một lần nữa cho rằng họ đến từ những miền tận cùng trái đất. Kẻ khác với ý kiến cho rằng họ là hậu duệ của Balaam, người đã nói tiên tri rằng, Sẽ mọc lên một vì sao Gia-cóp, khi họ vừa thấy ngôi sao, liền biết rằng một vì Vua đã sinh ra.”
Thánh John Henry Newman (+1890), một Hồng Y, đã thành lập Tu viện Oratory (Hùng Biện) ở Birmingham, Anh Quốc, và là một nhà giảng thuyết rất có lợi khẩu.
Con đường của tổ phụ Abraham đi từ Ur tới Canaan cũng được Stephen M. Miller vẽ lại qua một bản đồ trong tác phẩm The Complete Guide To The Bible bán hơn 700,000 ấn bản (Barbour Books, An Imprint of Barbour Publishing, Inc, 2007, trang 17). Cũng trong sách này tác giả Miller dự đoán con đường các vị đạo sĩ đi phải hơn một nghìn dặm và phải mất từ một đến hai năm, nghĩa là lúc bấy giờ Chúa Giêsu đã lên một, hai tuổi. (Sách đã dẫn, trang 305)
Linh mục Dwight Longenecker trong cuốn sách có tên “Mystery of the Magi, The Quest To Identify The Three Wise Men” (Bí mật của Ba Vua, Nỗ lực tìm ra căn cước ba vị đạo sĩ) nói một cách quả quyết rằng: “Cuốn sách ‘Bí ẩn của các Đạo Sĩ của tôi đã được xuất bản cách đây vài năm, và trong đó tôi đưa ra hai tuyên bố đáng ngạc nhiên: Thứ nhất, các đạo sĩ thực sự hiện hữu… Câu chuyện này không phải là một chuyện cổ tích được thêu dệt ra bởi Giáo Hội sơ khai. Thứ hai, các đạo sĩ đến từ vương quốc láng giềng Nabatea - quốc gia thương mại có lãnh thổ bao trùm các quốc gia ngày nay là Jordan, Syria, Ả Rập Saudi, Yemen và vùng sừng Phi Châu. Dưới đây là một số gạch đầu dòng trong luận điểm của tôi:
Thánh Matthêu nói đó là “Từ phương Đông”. Trong Cựu Ước, “người phương Đông” gần như luôn luôn là những bộ lạc khác nhau sinh sống trên bán đảo Ả Rập. “Những người từ phương Bắc” là người Babylon - Người Ba Tư – vào thời kỳ Chúa Giáng Sinh được gọi là người Parthia.
Thánh Matthêu đang viết thư cho những người Do Thái ở Giuđêa. “Phương Đông” đối với họ là kiểu nói tắt đề cập đến Ả Rập KHÔNG PHẢI Ba Tư.
Chỉ khi trung tâm của Giáo Hội di chuyển theo hướng Bắc và Tây sau khi Giêrusalem thất thủ vào năm 70 sau Chúa Giáng Sinh thì “Phương Đông” mới được cho là Ba Tư / Babylon / Parthia.
Trong lịch sử, các đạo sĩ là một giai cấp bao gồm các pháp sư, các chiêm tinh gia, học giả và “nhà thông thái” đến từ Babylon, nhưng vào thời điểm Chúa Giáng Sinh, họ đã được lan truyền khắp thế giới cổ đại nên Thánh Matthêu sử dụng “Magi” như một thuật ngữ chung để chỉ những nhà tư vấn giỏi cho một triều đình. Hầu hết các vị vua trong thế giới cổ đại đều có các chiêm tinh gia, thầy bói, người giải mộng và các pháp sư.”
Từ khảo cổ học, chúng ta biết rằng tôn giáo của người Nabatea là tôn giáo liên quan đến các vì sao. Các ngôi đền của họ thẳng hàng với các vì sao và chuyển động của mặt trời và một cung hoàng đạo chạm khắc bằng đá đã được phát hiện tại ngôi đền Nabatea tại Khirtbet et Tannur. Các Đạo Sĩ người Nabatea là những người ngắm sao.
Tôn giáo của người Nabatea là sự pha trộn giữa Do Thái giáo, tôn giáo của các bộ lạc Ả Rập du mục và tôn giáo bao gồm cả đạo Zoroast. Cả ba hệ thống tôn giáo đều có những tiên đoán về một Đấng Mesia sắp đến. Các đạo sĩ Nabatea hẳn đã biết những lời tiên tri của Zoroast cũng như những lời tiên tri trong kinh thánh Do Thái.”
Nabatea là một quốc gia buôn bán - họ lấy hàng hóa từ các con tàu cập cảng Yemen và vận chuyển chúng bằng các đoàn lạc đà băng qua sa mạc Ả Rập đến cảng Gaza của Địa Trung Hải và phiá Tây đến phần còn lại của Đế quốc La Mã. Họ cũng chạy các tuyến đường thương mại từ Nam sang Phi Châu và Bắc vào Syria và Parthia. Thành ra, họ đại diện cho “mọi quốc gia” như đã được tiên tri trong chương 60 sách Tiên tri Isaia.” (Mười hai lý do tại sao các đạo sĩ là người Ả Rập chứ không phải là người Ba Tư, bản dịch Việt ngữ của Kim Thúy, Vietcatholic).
Linh mục Dwight Longenecker lớn lên trong một gia đình theo giáo phái Evangelical ở Pennsylvania. Sau khi tốt nghiệp ngành Thần học Căn Bản từ trường Đại Học Bob Jones với học vị về Ngôn Ngữ và Anh Văn, ngài theo học thần học ở Đại Học Oxford và được thụ phong linh mục Anh Giáo, phục vụ như một tuyên úy trường học ở Cambridge, và là một cha xứ thuộc một giáo xứ thôn quê ở The Isle of Wight. Nhận thấy Giáo hội Anh Giáo và bản thân ngài đang đi trên những con đường khác biệt nhau, nên năm 1995, ngài cùng gia đình được nhận vào Giáo Hội Công Giáo. Trong suốt 10 năm ngài sống ở Anh Quốc với nghề cầm bút với những sinh hoạt bác ái. Năm 2006, ngài được phép đến Hoa Kỳ và được thụ phong là một linh mục thuộc Giáo Hội Công Giáo. Bây giờ ngài đang phục vụ trong cương vị là một Linh mục chính xứ tại Nhà Thờ Mân Côi (The Rosary Church) ở Greenville, South Carolina. Tháng 11 năm 2017, Linh mục Dwight Longenecker xuất bản cuốn sách “The Mystery of the Magi” giải mã sự bí mật về các nhà đạo sĩ, và hiện nay ngài đang viết một cuốn sách về các Thiên Thần. Tác phẩm “The Mystery of the Magi, The Quest To Identify The Three Wise Men””, 210 trang, là một cuốn sách biên khảo sử học tôn giáo có giá trị cần đọc trong mùa lễ Giáng sinh.
Theo linh mục Dwight Longenecker, Thánh Bede Khả Kính viết vào những năm đầu thế kỷ thứ tám ở Anh, đã suy tư về nguồn gốc quốc tế của ba vị đạo sĩ cũng có thể hiểu là ba con trai của ông Noah, như truyền thống kể lại, đã sinh sôi này nở trên khắp địa cầu và họ chính là nguồn gốc của ba giống người căn bản. Vị thánh này đã tóm tắt câu chuyện về ba nhà đạo sĩ như sau: “Các vị đạo sĩ là những người đã mang quà tặng đến cho Chúa. Vị thứ nhất được gọi là Melchior, một người già cả có tóc trắng và râu dài… dâng vàng cho Chúa như một vì vua. Vị thứ hai, tên gọi Gaspard, trẻ và không có râu, nước da mầu đỏ dâng Chúa nhũ hương như lời cầu nguyện thánh thiêng. Vị thứ ba, với nước da đen và râu rậm, tên gọi Balthasar,… dâng một dược ý chỉ Con Người sẽ phải chết.” (trang 33). Ở trang tiếp vị linh mục này còn cho biết theo Gioan viết, ngôi sao sáng như mặt trời. Melchior đã trải cuộc hành trình từ Nubia và Arabia, Balthasar từ Godolia và Saba, còn Caspar đến từ Tharsis và Egrisoulle. Mỗi ông vua với một đoàn tùy tùng hoành tráng đã đi theo ngôi sao trong mười ba ngày.
Ý nghĩa của ba lễ vật vàng (gold), nhũ hương (frankincense) và một dược (myrrh) được các nhà chiêm tinh dâng lên Chúa Hài Nhi mang nhiều yếu tố cao cả đặc biệt: vàng, tượng trưng cho uy quyền của vị quân vương, nhũ hương chỉ sự thánh thiêng thơm ngát chốn cung điện và một dược tượng trưng phẩm liệu ướp xác người quyền quý khi họ mất. Nhưng đây là những lời tôi giải thích theo một số kiến thức đọc được trong sách vở trước đây. Một lối giải thích khác có chỗ hay hơn và thấm nhuần mùi đạo vị hơn sẽ được gặp thấy ở sau.
Trong một bộ sách của Maria Valtorta nhan đề tiếng Ý là Il Poema Dell’ Uomo-Dio, bản tiếng Anh đề là The Poem Of The Man-God, và bản tiếng Pháp có tên L’Évangile tel qu’il m’a été révélé, Linh mục Nguyễn Phương (1921-1993) trong thời gian ở tại nhà hưu dưỡng Dòng Đồng Công (Missouri) dịch bộ sách đồ sộ này ra tiếng Việt có tên Người Thần Truyện Thánh, và Nt. Phạm Thị Hùng, CMR cũng có dịch ra tiếng Việt dựa trên bản tiếng Pháp và đã được in ở Việt Nam năm 2007 với cái tên Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi (in năm 2008).
Trước hết xin lưu ý quý độc giả rằng bộ sách Người Thần Truyện Thánh của Maria Valtorta mà Linh mục Nguyễn Phương dịch là Maria Vân Tước Tử được viết do chính Chúa Giê-su, Mẹ Maria và một thiên thần đọc cho Chị ấy viết, cho nên những đoạn chúng tôi trích dẫn dưới đây rút ra từ bộ sách đã được mặc khải, đã đưa Maria Valtorta trở thành một nhà nhiệm khải nổi danh khắp nơi. Sau đây là một vài nét sơ lược về tiểu sử của Chị.
Maria Valtorta (1897-1973) là một nhà mạc khải tư có tiếng trên thế giới trong thế kỷ 20. Chị sinh ngày 14-3-1897 tại Caserta, nước Ý, chỗ thân phụ là một đội trưởng kị binh đang phục vụ, và mất ngày 12-10-1961. Học lực của Valtorta bình thường, từ 1917 đến mùa hè 1920 làm nữ y tá trong các bệnh viện. Năm 1929 gia nhập phong trào Công Giáo tiến hành. Ngày 01 tháng 7 năm 1930, Valtorta dâng mình làm nạn nhân cho phép công thẳng Chúa và được Chúa nhậm lời nên chị bị đau đớn triền miên. Từ năm 1934 đến 1961 chị bị liệt giường cho đến khi chết. “Từ năm 1943 đến 1951, Maria Valtorta đã viết tay hơn 15,000 trang giấy (120 tập vở). Chị ta viết một mách (không chuẩn bị, không phác thảo, không hề sửa chữa, và cũng không đọc lại xem mình đã viết gì. Tác phẩm của chị ta gồm những bức tranh mô tả cảnh vật (tả như Chị ta thấy và nghe được) và những bản văn viết theo lối viết chính tả (theo lời đọc của Chúa Giê-su, Đức Trinh-nữ, và một vị thiên thần). Thể văn trong các chỗ mô tả và các bài chính tả khác nhau một cách rõ rệt. Tại đây chúng ta chứng kiến được sự kiện này, là kết quả, tức là tác phẩm, dường như vượt quá khả năng của nguyên nhân, tức là Maria Vân-tước-tử” (Gabriel M. Roschini, La Vierge Marie dans l’oeuvre de Maria Valtorta, Linh mục Nguyễn Phương dịch Đức Trinh-Nữ trong di bút của Maria Vân-tước-tử, bản dịch tiếng Việt của Vân-Tước Thư-Xá, 1994, trang 6). Đây là một bộ sách đồ sộ về lượng cũng như về phẩm, và trước khi chưa được phổ biến, các vị có liên hệ đến bộ sách như Cha Andrea M. Cecchin, Tu-viện Trưởng Dòng Phụ tá Đức Mẹ, Corrado Berti và Romualdo M. Megliorini, thần học gia, trong buổi hội kiến riêng ngày 26 tháng 2, 1948, đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII khuyến khích: “ Hãy xuất bản sách này ra, đã viết làm sao in ra làm vậy. Ai đọc vào sẽ hiểu”. Ngày nay bộ sách của Maria Valtorta được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
3.- Mạc khải về Chúa Hài Nhi qua ngôi sao lạ.
Sau đây chúng tôi sẽ sử dụng bản in của Nữ tu Phạm Thị Hùng vì đã in dựa trên bản tiếng Pháp để nói về các sự kiện liên quan đến “ngôi sao lạ”, “ba vị đạo sĩ”, cùng các “lễ vật” có đề cập ở trên.
“Tôi thấy gia tăng ánh sáng ban đêm chiếu xuống từ bầu trời đầy sao lấp lánh và rất đẹp ở phía đông. Ánh sáng rất mạnh và rất lớn đến nỗi nó như ở rất gần, giống như những bông hoa trên bầu trời bằng nhung mà người ta có thể đến rờ vào nó. Tôi ngước mắt lên để tìm cái nguồn làm gia tăng ánh sáng này. Tôi thấy một ngôi sao lớn khác thường, giống như một vầng trăng nhỏ, đang tiến đi trên bầu trời của Bétlem. Những ngôi sao khác như mờ đi để nhường lối cho nó, giống như những kẻ theo hầu một bà hoàng, vì ánh sáng của nó trổi vượt, tựa như làm chúng biến mất. Từ quả cầu giống như một viên lam ngọc khổng lồ, được soi sáng ở trong ruột bởi một mặt trời, phát ra những luồng sáng, trong đó trổi vượt là ánh sáng lam ngọc, hòa tan với mầu vàng của hoàng ngọc, mầu xanh của bích ngọc, mầu sáng của miêu ngọc, ánh đỏ máu của hồng ngọc, và các lấp lánh êm dịu của tử ngọc. Tất cả các đá quí của trái đất đều ở trong giải sáng đang di chuyển mau lẹ trên trời, dợn sóng giống như nó sống động. Nhưng mầu sắc trội hơn cả là mầu lam ngọc lạt và sáng của Thiên Đàng. Trông như nó mưa xuống từ trái cầu của vì sao, nó chiếu xuống và phủ mầu xanh biếc cho các nhà cửa, đường phố, đất đai Bétlem, cái nôi của Vị Cứu Tinh.” (Maria Valtorta, Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi, Nt. Phạm Thị Hùng dịch, Quyển thứ nhất, Nhà xb. Tôn Giáo, 2008, trang 246).
Tiếp đây là chân dung và phong thái của các nhà chiêm tinh chuẩn bị trước khi bước vào kính bái Chúa Hài Nhi, theo lời tường thuật của Maria Valtorta (viết theo lời đọc của Chúa Giê-su) mà trong bản dịch này dịch giả viết là nhà đạo sĩ:
“Trong khi các đầy tớ tiến lại chỗ dành cho các đoàn du mục và các con vật, ba Đại Nhân Vật xuống khỏi các con vật dành riêng của họ mà một người đầy tớ dắt tới một nơi khác, họ đi bộ về phía căn nhà. Ở đó, họ quỳ gối, trán chạm đất và hôn cát bụi. Đó là ba nhân vật quyền thế, theo như y phục của họ chỉ cho biết. Một người nước da rất sậm, vừa xuống khỏi con lạc đà, ông liền bao phủ toàn thân trong một chiếc áo lụa trắng tuyệt vời. Trên trán ông có một vòng đai bằng kim quí. Ở thắt lưng ông là chiếc giây lưng đắt tiền, ở đó có dắt một con dao hay cái kiếm mà bao có trang trí các hạt ngọc. Hai người kia cũng xuống khỏi con ngựa tuyệt trần. Một ông mặc vải sọc rất đẹp mà mầu vàng nổi bật. Y phục này được làm giống như một loại áo dài, có một chiếc nón và một sợi giây, hình như tất cả là một mảnh liền bằng sợi vàng, vì nó trang trí bằng các đường thêu chỉ vàng. Người thứ ba mặc một chiếc áo lụa thùng thình, để ló ra chiếc quần rộng và dài túm lại ở cổ chân. Ông khoác một chiếc khăn rất mỏng, giống như một mảnh vườn đầy hoa, vì nó được trang trí toàn bộ bằng những mầu sắc rất tươi. Trên đầu ông cuốn khăn, được giữ bằng một sợi giây xích bằng miêu ngọc và kim cương.
Sau khi đã tôn kính căn nhà, nơi Vị Cứu Tinh cư ngụ, họ đứng dậy và đi tới nhà dành cho đoàn du mục, nơi các đầy tớ đã gõ cửa để xin mở.
(Thị kiến dừng lại ở đây, rồi sau ba tiếng đồng hồ, lại tiếp tục với cảnh các nhà đạo sĩ thờ lạy Chúa Giêsu).
Đây là lúc ban ngày. Mặt trời rực rỡ trên trời vào lúc sau trưa. Một người đầy tớ của các Đạo Sĩ băng qua công trường và đi lên chiếc cầu thang nhỏ của căn nhà nhỏ. Anh ta vào. Anh ta ra. Anh ta trở về quán trọ.
Ba nhà Đạo Sĩ ra, mỗi người có người đầy tớ riêng theo sau. Họ băng qua công trường. Số người ít oi qua lại quay mặt nhìn các nhân vật oai vệ đi qua rất từ từ và trang trọng. Từ lúc người đầy tớ vào tới lúc ba nhà Đạo Sĩ vào, có khoảng thời gian độ một khắc đồng hồ. Điều đó cho phép các người trong nhà chuẩn bị đón khách.
Những người này bây giờ ăn vận còn sang trọng hơn là đêm hôm trước: Lụa là rực rỡ, vàng ngọc sáng chói. Một chòm lông đắt giá lốm đốm những vảy quí lấp lánh trên đầu của ông có quấn khăn. Một trong những người đầy tớ mang một chiếc rương có cẩn khắp chung quanh, mà các đồ trang điểm bằng kim loại đều là vàng cẩn. Người thứ hai mang một chiếc cúp được làm cách rất tinh tế, được đậy bằng một cái nắp hoàn toàn bằng vàng chạm trổ. Người thứ ba mang một thứ bình rộng và thấp, cũng bằng vàng, có nắp đậy hình kim tự tháp mà ở trên đỉnh có một viên kim cương. Những vật này hẳn là nặng, vì các người đầy tớ mang cách khó lòng, nhất là người mang chiếc rương. Ba người lên cầu thang và vào. Họ vào trong một phòng mà từ ngoài đường, người ta phải đi ra lối sau nhà để vào. Người ta nhận thấy mảnh vườn nhỏ qua chiếc cửa sổ mở ra phía sau cho mặt trời. Các người chủ nhà đang đứng đó để nhìn: Một người đàn ông, một người đàn bà, và ba hay bốn đứa trẻ trong khoảng giữa tuổi của hai người trên.
Maria ngồi ôm con trong lòng, Giuse đứng bên cạnh. Nhưng cô đứng dậy ngay và cúi mình khi thấy ba nhà Đạo Sĩ vào. Cô mặc toàn trắng. Cô rất đẹp trong y phục trắng đơn giản, bao phủ từ cổ tới bàn chân, từ vai tới cổ tay tinh tế. Rất đẹp với đầu tóc quấn các bím vàng vòng quanh như triều thiên, với khuôn mặt mà sự cảm động phủ cho một lớp mầu hồng rõ hơn, với đôi mắt mỉm cười dịu dàng, với chiếc miệng mở ra để nói: “Thiên Chúa ở với các ngài”. Ba nhà Đạo Sĩ ngây ra một lát, rồi họ tiến lên, họ quì phục dưới chân cô và xin cô ngồi.
Họ thì không, họ không ngồi, dù Maria mời. Họ vẫn quì gối và ngồi trên gót chân. Ba người đầy tớ ở đàng sau và cũng quì gối. Tất cả họ đều ở ngay sau cửa. Họ để ba vật mà họ mang theo ở trước mặt và họ chờ.
Ba nhà Đạo Sĩ nhìn ngắm chú bé. Tôi thấy chú có vẻ độ từ chín tháng tới một năm, vì chú rất tỉnh táo và phốp pháp. Chú ngồi tựa vào ngực mẹ. Chú mỉm cười và nói líu lo với giọng chim nhỏ. Chú cũng mặc toàn trắng như má, với đôi xăng-đan tí xíu ở chân. Y phục đơn giản: một áo dài nhỏ, từ đó lú ra các bàn chân lúc lắc, đôi bàn tay mũm mĩm muốn rờ vào tất cả, và nhất là khuôn mặt nhỏ rất đẹp với đôi mắt mầu xanh dương đậm trong sáng; cái miệng núm đồng tiền ở hai bên khi chú cười nhe ra mấy chiếc răng nhỏ. Các lọn tóc giống như bụi vàng, vì chúng bóng và mịn như tơ.
Người Đạo Sĩ lớn tuổi nhất nói nhân danh tất cả. Ông giải thích cho Maria rằng họ đã thấy, vào một đêm của tháng mười hai trước, một vì sao đã thắp sáng lên trên trời với vẻ rực rỡ khác thường. Các bản đồ trời không hề bao giờ có vì sao này hay báo hiệu nó. Tên nó không được biết tới. Nó không có tên. Được sinh ra từ lòng Thiên Chúa, nó đã nở hoa để nói cho loài người một sự thật có phước, một bí mật của Thiên Chúa. Nhưng loài người không lưu tâm, vì linh hồn họ chìm trong bùn. Họ không nhìn lên Thiên Chúa và không biết đọc những lời Người viết ra - Nguyện chúc Người muôn đời – bằng những thiên thể bằng lửa trên bầu trời.
Họ đã thấy ngôi sao và đã cố gắng để hiểu tiếng nói của nó.
Tự nguyện từ bỏ một ít giấc ngủ mà trước đây họ đã chấp nhận cho cơ thể họ. Họ quên ăn để vùi đầu vào việc nghiên cứu hoàng đới, sự giao hội của các hành tinh; thời gian, các mùa, các tính toán về thời gian cổ xưa và các phối hợp về thiên văn, đã nói cho họ tên và sự bí mật của ngôi sao. Tên của nó là “Messi”. Bí mật của nó là: “Đấng Messi đến trong thế giới”. Và họ đã ra đi để thờ lạy Người. Người nọ không hề biết gì về những người kia. Băng qua núi, sa mạc, thung lũng, sông ngòi, đi trong đêm, họ đã đi về phía Palestin, vì ngôi sao đi về hướng này. Mỗi người, từ ba điểm khác nhau trên trái đất, đều đi về hướng này. Rồi họ gặp nhau ở phía bên kia biển Chết. Ý Thiên Chúa đã hội tụ họ ở đó, và cùng nhau, họ tiến lên phía trước. Họ hiểu nhau, mặc dù mỗi người vẫn nói tiếng của mình. Họ hiểu và có thể nói những ngôn ngữ của các nước mà họ đi qua, bởi phép lạ của Thiên Chúa.
Cùng nhau họ đi về Jêrusalem, vì Đấng Messi là Vua của Jêrusalem, vua của người Do-Thái. Nhưng ngôi sao biến mất ở trên trời của thành phố này. Họ cảm thấy con tim họ vỡ ra vì đau đớn. Họ tự xét mình xem có phải vì họ bất xứng với Thiên Chúa. Nhưng lương tâm của họ bảo đảm cho họ. Họ liền tìm đến vua Hêrôđê để hỏi xem Vua Do-Thái sinh ra trong lâu đài nào để họ đến thờ lạy Người. Nhà vua liền tụ họp các thủ lãnh của các thầy cả, các luật sĩ để hỏi xem Đấng Messi sinh ra ở đâu, và họ trả lời ông: “Tại Bétlem xứ Juđa”.
Họ đi về phía Bétlem và ngôi sao lại hiện ra trước mắt họ. Nó đã rời Thành Thánh, và tối hôm qua, nó đã gia tăng vẻ rực rỡ của nó. Tất cả bầu trời đều được đốt cháy. Rồi ngôi sao dừng lại, thu thập ánh sáng của các ngôi sao khác vào các luồng sáng của nó và chiếu xuống trên căn nhà này. Họ liền hiểu là trẻ Thiên Chúa sinh ra ở đây. Bây giờ họ thờ lạy Người, dâng cho Người các tặng phẩm hèn mọn của họ, và hơn tất cả, họ dâng cho Người quả tim của họ, sẽ không bao giờ ngừng chúc tụng Thiên Chúa vì ơn Người đã ban cho họ, và họ yêu mến Con của Người mà họ được nhìn thấy trong một nhân tính thánh thiện. Rồi họ trở về cho Hêrôđê biết, vì ông cũng muốn thờ lạy Người.
“Đây cùng một trật: Vàng là thứ thích hợp với một vị Vua, đây là Nhũ hương, thích hợp với Thiên Chúa; và đây, ôi Mẹ, đây là mộc dược, vì con Mẹ sinh ra là Thiên Chúa nhưng cũng là người, trong thân xác của Người và trong cuộc sống làm người, Người sẽ biết cái cay đắng của định luật không thể tránh được của sự chết. Tình yêu của chúng con không muốn nói những lời này, và nghĩ rằng thân xác Người sẽ muôn đời giống như Thần Trí Người. Nhưng ôi Bà! Nếu sự nghiên cứu của chúng con, nhất là nếu tâm hồn chúng con không lầm, thì con Bà là Vị Cứu Tinh, là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, và vì thế, để cứu thế giới, Người phải mang trên mình Người mọi khốn nạn của thế gian, mà một trong các hình phạt là sự chết. Chất nhựa này để cho giờ đó, để xác thịt thánh của Người không phải biết tới sự hư thối, và bảo trì nó nguyên vẹn tới giờ sống lại. Chớ gì do những của này, Người nhớ đến chúng con và cứu các tôi tớ của Người, bằng cách ban Nước của Người cho chúng con. Lúc này, để được thánh hóa, xin Mẹ là Mẹ Người, ban con nhỏ của Mẹ cho tình yêu của chúng con, để nhờ được hôn chân Người, phúc lành của Trời xuống trên chúng con”. (Maria Valtorta, Tin Mừng như đã mặc khải cho tôi, (bản dịch đã dẫn, trang 245-248).
Bethlehem là một ngôi làng khoảng 5 dặm (8km) phía nam Giêrusalem, gọi “Bethlehem trong xứ Judea”, sinh quán của Chúa Giêsu để phân biệt với thị trấn Bethlehem khoảng 7 dặm (11.3km) thuộc tây bắc Nazareth.
4.- Một vài chú thích thay cho lời kết…
Để chú thích các chữ “vì sao của Người” mà Thánh Mát-Thêu viết trong Tin Mừng trích dẫn ở đầu bài viết này, Giám Mục Frederick Justus Knecht, D.D. trong tác phẩm A Practical Commentary on Holy Scripture, ấn bản đầu tiên bằng tiếng Đức ra mắt năm 1883, được tái bản ở Đức mười sáu lần, ấn bản tiếng Anh năm 1894, đã viết như sau: “His star. This star which the Magi, before they left their home, had seen rising in the direction of Judaea, and therefore in the west, was no ordinary star, for it “went before them” from Jerusalem to Bethlehem, and there stopped over the house where the Child Jesus dwelt. It was, we may suppose, a sort of meteor, an appearance of light in the form of a star, of an extraordinary and brilliant description. The holy bishop of Antioch, Ignatius, a disciple of the Apostle St. John, thus writes about it in his epistle to the Ephesians: “A star appeared in the heavens which eclipsed all the other stars; its light was indescribable, and its novelty caused astonishment.” The holy kings who, full of faith, were waiting for the promised Saviour, by divine inspiration recognized this star to be the sign which was to herald the Birth of the Messias; therefore they called it His star.” (TAN Books, Charlotte, North Carolina, 2003, trang 465).
Tạm dịch: “Ngôi sao của Ngài. Ngôi sao này, mà các nhà đạo sĩ, trước khi họ rời nhà của họ, đã mọc lên chỉ hướng Judaea và bởi vậy ở về hướng tây, không phải là một ngôi sao bình thường, vì nó “đi trước họ” từ Jerusalem đến Bethlehem và đã dừng lại trên ngôi nhà có Trẻ Giêsu trú ngụ. Chúng ta có thể đoán rằng đó là một loại thiên thể, một vầng sáng xuất hiện dưới hình thức một vì sao lạ thường và sáng láng khi miêu tả. Thánh giám mục của Antioch, Ignatius, học trò của Thánh Tông Đồ Gioan, đã viết về nó trong một thư gửi cho các tín hữu Ê-phê-sô như sau: “Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời che khuất các vì sao khác; ánh sáng của nó không thể diễn tả được và câu chuyện của nó gây ra sự ngạc nhiên.” Các vị vua thánh thiện, tràn đầy đức tin, đã trông chờ vị Cứu Thế được hứa hẹn và nhờ nguồn cảm hứng thánh thiêng đã công nhận ngôi sao này là dấu chỉ báo trước cuộc Sinh hạ của Đấng Messia; vì thế họ gọi nó là ngôi sao của Ngài.”
Đã có nhiều nỗ lực trong việc giải thích nguồn ánh sáng tích tụ lại qua sự chiếu sáng khác thường của ngôi sao lạ, cũng được các nhà nghiên cứu Thánh Kinh gọi là “Ngôi sao Bê Lem” (Star of Bethlehem). Trong cuốn sách Archaeological Study Bible, An Illustrated Walk Through Biblical History And Culture, nhà xuất bản Zondervan, do nhóm Walter C. Kaiser và Colman M. Mockler chủ biên, 2005, trang 1560 có ghi “đó không phải là một ngôi sao bình thường, một hành tinh hay một ngôi sao chổi, mặc dù một vài nhà chú giải đã nói nó là một sự phối hợp của Jupiter và Saturn hoặc với một vài hiện tượng thiên văn khác.”
Trong cuốn sách của Stephen M. Miller đã được trích dẫn ở trên, tác giả này cho biết khoảng một nghìn năm lại có hiện tượng Jupiter và Saturn cùng với trái đất nằm trên một đường thẳng ba lần trong chỉ một năm. Vào năm 7 BC, một vài nhà chiêm tinh đã ước đoán chúng nằm trên một trục thẳng trong giải sao Pisces. Theo hệ thống tử vi cổ Trung Đông, Jupiter tượng trưng cho các vị vua, Saturn tượng trưng người Do Thái và Pisces (“con cá”) là quê hương Do Thái. Chính sự hội ngộ của ba luồng sáng hiếm hoi này có thể đã dẫn đường cho các nhà chiêm tinh đến Israel tìm chiêm bái vị vua mới sinh. (trang 304) Cũng trong cuốn sách này, Miller đã ghi lại lộ trình của ba nhà chiêm tinh khởi sự từ Susa đi qua Babylon dọc theo sông Euphrates theo về hướng tây, đối diện với Caesarea Philippi vòng xuống Capernaum tới núi Tabor đi dọc xuống hữu ngạn sông Jordan.
Trong bài hát “Ngôi sao lạ” của Linh mục Sảng Đình Nguyễn Văn Thích mà chúng tôi đã nêu lên ở phần đầu của bài viết này, có hai chữ mộc dược được vị học giả này dùng để chỉ một trong những báu vật ba vị đạo sĩ dâng lên cho Chúa Hài Đồng ngoài hai món vàng và nhũ hương. Chúng tôi muốn dừng lại đây và thử hỏi nên dùng hai chữ mộc dược 木 藥 hay một dược 沒 藥? Chúng tôi đã tra các tự điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Thiều Chửu, Nguyễn Văn Khôn, Gustave Hue mà không thấy hai chữ này, chỉ có chữ dược thảo mà sách của Đào Duy Anh có chua thêm tiếng Pháp là plantes pharmaceutiques, còn sách của Gustave Hue ghi thêm là plantes médicinales. (id. végétaux). Không bằng lòng với những gì có trong tay, chúng tôi tìm thêm trong cuốn Pháp-Việt Từ-Điển của cụ Đào dày cộm có tới 1960 trang khổ lớn và thấy ghi: “Myrrhe n.f. (Thực) Nhựa cây mật nhi lạp 密 兒 拉 thường gọi là một-dược. 沒 藥”(Đào Duy Anh, Pháp-Việt Từ-Điển (Chú thêm chữ Hán) Dictionnaire Francais – Vietnamien, In lần thứ hai, Deuxième Édition, Minh-Tân, Paris, 1951, trang 1120).
Cũng trong tác phẩm A Practical Commentary on Holy Scripture này có ghi chú chữ một dược như sau: “Myrrh. This is a bitter though sweet-smelling resin which is laid on the bodies of the dead to preserve them from corruption.” (trang 466) Tạm dịch: “Một dược.- Đây là một thứ nhựa cây đắng mà có mùi ngọt dùng để đặt trên xác chết để giữ khỏi hư thối.” Chữ một theo Hán văn có nghĩa là chết. Như vậy một dược là loại thuốc làm từ nhựa cây để ướp xác người chết, đúng như trong nhiều tư liệu trước đây và nhất là trong tư liệu của Maria Valtorta đọc thấy ở trên.
Trong Traduction Oecuménique De La Bible, bản dịch Kinh Thánh đại kết do Tin Lành, Chính Thống Giáo và Công Giáo dịch chung thường gọi là bản TOB viết:
“Entrant dans la maison, ils virent l’enfant avec Marie, sa mère, et, se prosternant, ils lui rendirent homage; ouvrant leurs coffrets, ils lui offrirent en présent de l’or, de l’encens et de la myrrhe.” Tạm dịch: “Vào trong nhà, họ thấy hài nhi với Marie, mẹ Người, và họ quỳ gối thờ lạy, họ dâng lên tặng phẩm gồm có vàng, nhũ hương và một dược.” Ở dưới ta đọc thấy ghi chú: “Parfums traditionnels de l’Arabie.- nghĩa là “Các hương liệu truyền thống của xứ Ả Rập” (Bản in của Société biblique francaise & Editions du Cerf, Paris, 2004, trang 1397).
Tham khảo sách Chronological Study Bible, Explore God’s Word In Historical Order, chúng tôi thấy ghi: “The gifts given to Jesus by the foreign rulers were luxury items (Matt. 2: 11), like the symbolic gifts exchanged by rulers today, and like the wealth brought by Gentiles to Israel’s king (Ps. 72:10; Is. 60:6). Frankincense and myrrhe are resins or gums taken from plants that grow in Arabia or the Horn of Africa. They were used for incense and perfume.” Tạm dịch: “Các tặng phẩm do các vị vua ngoại quốc dâng lên Chúa Giêsu là những loại quý báu, cũng giống như các tặng vật mang tính tượng trưng trao đổi giữa các vua chúa ngày nay tương tự các đồ quý giá người nước ngoài mang đến cho vua Israel (Ps. 72:10; Is. 60:6). Nhũ hương và một dược là loại nhựa hay chất keo lấy từ các thảo mộc trồng ở Ả rập hoặc vùng Sừng Phi châu. Chúng được dùng để xông hương hoặc ướp thơm.” (Bản in năm 2008 do Thomas Nelson, Inc., trang 1087).
Đoạn cuối chương 56 của bộ sách của Maria Valtorta miêu tả sự giã từ của ba nhà đạo sĩ và Thánh gia như sau: “Bây giờ chủ cũng như đầy tớ, tất cả đều ở trên yên. Họ ra lệnh khởi hành. Ba người cúi xuống tới sát cổ con vật của họ để chào lần chót. Giuse cũng cúi mình, Maria cũng vậy. Và Mẹ lại cầm tay Giêsu để vẽ một cử điệu từ biệt và chúc lành.”
James Jacques Joseph Tissot (khoảng năm 1894) đã để lại một tác phẩm hội họa bất hủ có tên “The Journey of the Magi” (Cuộc hành trình của các nhà chiêm tinh) hiện trưng bày tại Minneapolis Institute of Arts có lẽ cũng đã tạo nên nguồn cảm hứng nghệ thuật lai láng cho nhiều người trên thế giới từ đó cho đến ngày nay.
Gerad David, The Adoration of the Magi, circa 1520.
Nguyễn Đức Cung
Philadelphia, January 03-2025
VietCatholic TV
Kursk: 02-01-2025: Bộ Tư Lệnh Nga trúng hỏa tiễn, chiến trường khựng lại. Assad bị đầu độc ở Nga?
VietCatholic Media
03:02 03/01/2025
1. Phải chăng Assad đã bị đầu độc ở Nga? Những gì chúng ta biết
Một kênh Telegram của Nga tuyên bố rằng Bashar al Assad có thể đã bị đầu độc, làm dấy lên nhiều đồn đoán trực tuyến về số phận của nhà độc tài Syria sau khi ông chạy trốn đến Mạc Tư Khoa sau khi bị lật đổ.
Tuyên bố này được đưa ra bởi kênh General SVR, là một phương tiện truyền thông Nga được điều hành bởi các cựu thành viên và thành viên hiện tại của Cục Tình báo nước ngoài Nga, mặc dù không đưa ra bất kỳ bằng chứng nào về mối quan hệ này.
Đây là nguồn gốc của những báo cáo chưa được chứng thực nhưng đầy kịch tính về sức khỏe của Vladimir Putin đã từng được quốc tế đưa tin.
Trong bài đăng trên các kênh tiếng Nga và tiếng Anh, bài viết cho biết “có mọi lý do để tin rằng một nỗ lực ám sát đã được thực hiện” đối với Assad, đồng thời nói thêm rằng ông đã phàn nàn với nhóm an ninh của mình “về việc cảm thấy không khỏe, khó thở và yêu cầu được trợ giúp y tế”.
Các tờ báo của Anh, cũng như người dùng mạng xã hội, đã đưa tin về những tuyên bố này, nhưng chưa được xác minh độc lập. Newsweek đã liên hệ với Điện Cẩm Linh và Kênh General SVR để xin bình luận qua email.
Nga đã cung cấp nơi ẩn náu cho Assad, một đồng minh lâu năm của Vladimir Putin, sau khi năm thập niên nắm quyền của gia đình ông kết thúc sau cuộc nổi dậy của phiến quân do nhóm chiến binh Hồi giáo Hayat Tahrir al-Sham, gọi tắt là HTS cầm đầu.
Mạc Tư Khoa đã phải chịu một đòn giáng mạnh sau khi Assad ra đi và đang đấu tranh để giữ lại các tài sản quân sự của mình ở Syria, chẳng hạn như căn cứ hải quân quan trọng ở Tartus. Không rõ liệu số phận của Assad ở Nga có giống với những cựu độc tài khác hiện đang ở đó hay không, chẳng hạn như cựu lãnh đạo Ukraine Viktor Yanukovych.
Kênh Telegram của General SVR đăng vào đêm giao thừa rằng hai ngày trước đó, Assad đã yêu cầu trợ giúp y tế sau khi gặp khó khăn khi thở và bắt đầu ho dữ dội và nghẹt thở.
Bài đăng cho biết: “Có mọi lý do để tin rằng một vụ ám sát đã được thực hiện nhằm vào cựu Tổng thống Syria Bashar al-Assad”, đồng thời mô tả cách các quan chức Nga được thông báo và nhận được lệnh điều trị cho ông tại nhà.
Bài đăng cho biết các xét nghiệm “cho thấy dấu vết tiếp xúc với chất độc trong cơ thể ông ấy”, trước khi tình trạng của ông ổn định vào tối thứ Hai. Bài đăng nói thêm rằng một cuộc điều tra đang được tiến hành “nhưng vẫn chưa thể xác định được Bashar al-Assad đã tiếp xúc với chất độc như thế nào”.
Kênh tiếng Nga của General SVR có 351.000 người ghi danh, phiên bản tiếng Anh có khoảng 11.000 người. Đây là nguồn cung cấp một số câu chuyện gây sốc nhưng không có căn cứ đã được nhiều tờ báo đăng lại.
Vào tháng 5 năm 2022, có thông tin cho rằng Putin sẽ tạm thời chuyển giao quyền lực để phẫu thuật ung thư, trong khi vào tháng 3 năm 2023, có thông tin cho biết tổng thống Nga đã điều động một người đóng thế để thăm Crimea và Mariupol.
Một bài đăng khác từ tháng 12 năm 2022 cho biết rằng vào cuối một ngày căng thẳng, Putin đã trượt chân và ngã năm bậc thang, đáp xuống xương cụt và được cho là khiến ông “đi ngoài không tự chủ”. Khi được Newsweek liên hệ vào thời điểm đó, văn phòng của Putin đã trả lời qua email rằng “liên quan đến yêu cầu của bạn, chúng tôi có thể nói rằng điều này hoàn toàn không đúng sự thật”.
Tính đến thứ năm, bài đăng về Assad trên kênh tiếng Nga của General SVR đã được xem hơn 221.000 lần. Các tờ báo Anh The Sun và Daily Express đã đưa tin, cũng như The Times of India, trong khi người dùng mạng xã hội cũng chia sẻ các tuyên bố.
“Assad bị cáo buộc đã bị đầu độc ở Mạc Tư Khoa,” Pekka Kallioniemi đăng trên X, người sáng lập Vatnik Soup, chuyên phân tích thông tin sai lệch của Nga. “Điện Cẩm Linh không lãng phí thời gian trừng phạt cựu độc tài vì sự hèn nhát của ông ta.”
Chuyên gia an ninh toàn cầu James Landis đã viết trên X: “Putin có cố gắng loại bỏ Assad không? Điều đó có lý. Assad là một gánh nặng và không mang lại điều gì cho bàn đàm phán. Ông ta đã để mất Syria và đã gây ra vô số đau đầu cho Putin.”
General SVR viết trên Telegram: “Có mọi lý do để tin rằng một vụ ám sát đã được thực hiện đối với cựu Tổng thống Syria Bashar al-Assad. Vào chiều Chúa Nhật, Assad đã phàn nàn với lực lượng an ninh của mình rằng ông cảm thấy không khỏe, khó thở và yêu cầu được giúp đỡ y tế.”
Nhà phân tích thông tin sai lệch của Nga Pekka Kallioniemi trên X: “Assad được tường trình đã bị đầu độc ở Mạc Tư Khoa. Điện Cẩm Linh không lãng phí thời gian trừng phạt cựu độc tài vì sự hèn nhát của ông ta.”
Mikhail Ulyanov, phái viên của Nga tại các tổ chức quốc tế ở Vienna, cho biết rằng Assad và gia đình ông “đang ở Mạc Tư Khoa” và rằng “Nga không bao giờ để bạn bè của mình gặp rắc rối”.
Nhưng bài đăng của Assad vào ngày 16 tháng 12, trong đó ông cho biết ông không cân nhắc “từ chức hoặc tìm nơi ẩn náu”, cho thấy ông muốn những người trung thành với chế độ của mình tin rằng ông không bỏ trốn và ông chỉ rời khỏi Syria theo yêu cầu của Mạc Tư Khoa.
Trong khi đó, người vợ gốc Anh của ông, Asma al-Assad, người đã được điều trị ung thư vú vào năm 2019 và được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu, sẽ không được phép trở về Anh để điều trị, theo các nguồn tin của Anh.
[Newsweek: Has Assad Been Poisoned in Russia? What We Know]
2. Phi công Nga phản ứng khi trực thăng Mi-8 bị bắn trúng: ‘Tôi bị trúng đạn’
Ukraine tuyên bố đã chặn được tín hiệu từ một phi công Nga trên trực thăng Mi-8 sau khi trực thăng này bị thuyền điều khiển từ xa Magura V5 của hải quân và hỏa tiễn R-73 SeeDragon bắn trúng hôm thứ Ba.
Việc Ukraine chặn được các kênh truyền thanh của Nga là dấu hiệu cho thấy Kyiv đã tiếp cận được thông tin liên lạc từ Mạc Tư Khoa và có thể thay đổi chiến thuật chiến đấu.
Trong đoạn ghi âm vô tuyến do tình báo Ukraine, GUR, công bố, phi công Nga nói rằng “Có tiếng nổ mạnh—họ đã bắn trúng tôi. Có một vụ phóng từ dưới nước. Sau đó, lại có một tia chớp khác.
“Tôi không thấy nó bay đi đâu, nhưng quả đầu tiên bay thẳng về phía tôi và phát nổ ở đâu đó gần đó—từ trực thăng, tôi cảm thấy một số hệ thống đã bị hỏng.”
Phi công cũng mô tả thiệt hại do hỏa hoạn ở bên hông trực thăng. Dịch vụ báo chí của GUR đã công bố một đoạn video về một chiếc trực thăng Mi-8 khác của Nga bị các phương tiện mặt nước điều khiển từ xa, gọi tắt là USV của Ukraine bắn hạ trong cuộc tấn công gần Mũi Tarkhankut ở Crimea bị Mạc Tư Khoa xâm lược.
Được sử dụng lần đầu tiên để tấn công mục tiêu trên không, thuyền điều khiển từ xa Magura V5 là USV do GUR phát triển, được sử dụng cho các nhiệm vụ bao gồm trinh sát, tác chiến điện tử và tấn công chính xác.
Máy bay điều khiển từ xa này có tốc độ tối đa 78 km/giờ, hay 48 dặm/giờ, phạm vi hoạt động lên tới 800 km, hay 497 dặm, và tải trọng thuốc nổ 200 kg, hay 440 pound, thường được sử dụng để tấn công các tài sản của Nga ở Crimea.
Hỏa tiễn R-73 SeeDragon được sử dụng để bắn hạ trực thăng Mi-8 của Nga sau khi được bắn từ thuyền điều khiển từ xa Magura V5 ban đầu được sản xuất dưới dạng hỏa tiễn không đối không tầm ngắn, nhưng sau đó đã được cải tiến để tấn công các mục tiêu trên không.
Kể từ khi sáp nhập Crimea vào năm 2014, Nga đã phải đấu tranh lâu dài để giữ lại vùng lãnh thổ bị chiếm giữ này, vì các cuộc không kích của Ukraine trong khu vực đã gia tăng kể từ khi chiến tranh bắt đầu vào năm 2022.
Sau một loạt chiến thắng của Kyiv trên bán đảo vào năm ngoái, Ukraine đã tiếp tục đà tiến triển này bằng cách thực hiện các cuộc tấn công trên không và trên biển trong suốt năm 2024, phá hủy tài sản trị giá hàng triệu đô la của Nga.
Trong một bài đăng trên X, trước đây gọi là Twitter, Igor Sushko, một nhà văn người Ukraine sống tại Hoa Kỳ, đã viết: “TIN MỚI NHẤT: Tình báo quân sự GUR của Ukraine đã đi vào lịch sử vào ngày 31 tháng 12 năm 2024—Trực thăng Mi-8 của Nga đã bị bắn hạ bởi một hỏa tiễn không đối không R-73 IR được cải tiến có tên mã là SeeDragon phóng từ một thuyền điều khiển từ xa trên biển Magura ở Hắc Hải gần Mũi Tarkhankut ở Crimea bị tạm chiếm.”
Điều quan trọng là phải xem liệu Ukraine có tiếp tục chặn thành công các liên lạc vô tuyến của Nga hay không và chúng sẽ ảnh hưởng thế nào đến chiến lược chiến đấu của Kyiv khi nước này đang tiến tới năm thứ tư trong cuộc chiến với Mạc Tư Khoa.
[Newsweek: Russian Pilot Reacts to Mi-8 Helicopter Being Struck: 'I Got Hit']
3. Kyiv tấn công sở chỉ huy của Nga ở Kursk, Bộ Tổng tham mưu tuyên bố
Quân đội Ukraine đã tiến hành một cuộc tấn công chính xác vào một sở chỉ huy của quân đội Nga ở Maryino, Tỉnh Kursk, Bộ Tổng tham mưu Ukraine đưa tin vào ngày 2 tháng Giêng.
“ Những cuộc tấn công này chủ yếu được thực hiện nhằm làm suy yếu khả năng và ý chí thực hiện các hành động khủng bố của Nga nhằm vào thường dân Ukraine”, đồng thời nói thêm rằng “mọi biện pháp cần thiết” đã được thực hiện để giảm thiểu rủi ro cho thường dân ở khu vực lân cận cuộc tấn công.
Theo Andrii Kovalenko, nhà lãnh đạo trung tâm chống thông tin sai lệch của Ukraine, cuộc tấn công nhằm vào Lữ đoàn 810 của Nga, gây ra tổn thất đáng kể.
Các kênh Telegram địa phương trước đó đã đưa tin về vụ pháo kích ở Ivanovskoye thuộc quận Rylsk, gây thiệt hại cho một trường nội trú, bưu điện, trung tâm mua sắm, các tòa nhà dân cư và nhà văn hóa.
Theo quyền Thống đốc tỉnh Kursk Alexander Khinshtein, các cửa sổ bị vỡ tan và các bức tường bị hư hại do mảnh đạn.
Cuộc tấn công diễn ra sau cuộc tấn công bất ngờ của Ukraine vào Tỉnh Kursk vào ngày 6 tháng 8, trong đó lực lượng Ukraine đã chiếm được khoảng 1.300 km2 lãnh thổ.
Mặc dù Kyiv đã mất quyền kiểm soát một nửa khu vực ban đầu bị chiếm giữ, giao tranh trong khu vực vẫn diễn ra ác liệt.
Các quan chức Ukraine coi vùng lãnh thổ bị tạm chiếm là một con bài mặc cả tiềm năng trong các cuộc đàm phán tương lai với Nga.
[Kyiv Independent: Ukraine war latest: Kyiv strikes Russian command post in Kursk Oblast, General Staff claims]
4. ‘Tổng thống đắc cử Donald Trump có thể là nhân tố quyết định trong việc chấm dứt chiến tranh’ —Zelenskiy nói về triển vọng của Ukraine trong năm 2025
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy, cùng với vợ là Đệ nhất phu nhân Olena Zelenska, đã có cuộc phỏng vấn thẳng thắn và sâu rộng trên truyền hình Ukraine phát sóng ngày 2 tháng Giêng, nêu ra tầm nhìn của ông về triển vọng hòa bình tiềm tàng của Ukraine vào năm 2025.
“Năm 2024 có bao nhiêu ngày? 1.000 ngày phải không?” Zelenskiy nói đùa trước khi trả lời câu hỏi về khả năng kết thúc chiến tranh vào năm 2025.
Cuộc phỏng vấn diễn ra chỉ vài tuần trước lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump vào ngày 20 tháng Giêng, người đã tuyên thệ sẽ thay đổi triển vọng của Ukraine sau khi nhậm chức và đàm phán để thoát khỏi chiến tranh.
Trong suốt cuộc phỏng vấn kéo dài một giờ, Zelenskiy đã đi sâu vào nhiều chủ đề rộng - cả về tầm quan trọng trong nước và quốc tế - khi Ukraine phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là bảo đảm hòa bình lâu dài khi bước sang năm thứ tư của cuộc chiến toàn diện.
Vai trò của Tổng thống đắc cử Donald Trump trong việc chấm dứt chiến tranh
Khi được hỏi về Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Ông Donald Trump, Zelenskiy đã nói rõ về tác động mà ông có thể tạo ra đối với triển vọng chấm dứt chiến tranh vào năm 2025.
“Ông ấy có thể là nhân tố quyết định trong việc chấm dứt chiến tranh... hoặc, thực tế hơn, ông ấy có thể giúp chúng ta ngăn chặn Putin. Ông ấy có thể làm được điều này,” Zelenskiy nói, đồng thời nói thêm, “Tôi tin rằng ông ấy thực sự muốn chấm dứt cuộc chiến này.”
Lời cam kết của Tổng thống đắc cử Donald Trump về việc đưa Hoa Kỳ “thoát khỏi” cuộc chiến với Nga và đàm phán một thỏa thuận hòa bình nhanh chóng đã nhận được phản ứng trái chiều ở Kyiv.
Các quan chức Ukraine đã thúc giục tổng thống đắc cử duy trì sự ủng hộ và áp dụng đường lối “hòa bình thông qua sức mạnh” trong các mối quan hệ với Nga vì Tổng thống đắc cử Donald Trump đã đề cử một số quan chức được coi là bảo thủ và hoài nghi hơn về việc cung cấp viện trợ quân sự cho Ukraine.
“Tôi tin rằng Putin sợ Tổng thống đắc cử Donald Trump. Đó là lý do tại sao ông ấy đang thực hiện các bước để đưa một số tiếng nói của Điện Cẩm Linh vào chính quyền Tổng thống đắc cử Donald Trump”, Zelenskiy nói.
Bất chấp một số cuộc bổ nhiệm gây tranh cãi, Tổng thống đắc cử Donald Trump cũng đã chọn những nhân vật chủ chốt được đánh giá tích cực ở Kyiv, bao gồm Tướng Hoa Kỳ Keith Kellogg làm đặc phái viên hòa bình cho Ukraine.
“Cho đến nay, tôi chưa có bất kỳ tương tác tiêu cực nào trong mối quan hệ của chúng tôi (với chính quyền Tổng thống đắc cử Donald Trump),” Zelenskiy nói trong cuộc phỏng vấn. “Điều quan trọng nhất là chúng tôi xây dựng những mối quan hệ này.”
Sau khi bổ nhiệm Kellogg, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Ukraine Heorhii Tykhyi cho biết Kellogg “không phải là người mới đối với Ukraine”.
“Đại sứ quán Ukraine tại Hoa Kỳ đã duy trì mối quan hệ chặt chẽ với ông ấy, đặc biệt là trong khuôn khổ ngoại giao chuyên gia trong những năm gần đây, và đã phát triển và duy trì đối thoại tốt với ông ấy trong thời gian này”, Tykhyi nói thêm.
Kellogg đã nhắc lại cam kết của Tổng thống đắc cử Donald Trump về việc chấm dứt chiến tranh, trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 12, ông nói rằng ông tin rằng cuộc chiến sẽ được “giải quyết trong vài tháng tới”. Kellogg đã đồng ý đến thăm Kyiv sau lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Donald Trump.
Kể từ chiến thắng trong cuộc bầu cử của Tổng thống đắc cử Donald Trump vào tháng 11, Kyiv đã có những nỗ lực chung nhằm tăng cường quan hệ với chính quyền mới, thậm chí còn gặp Tổng thống đắc cử Donald Trump trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2024.
Lịch sử giữa hai nhà lãnh đạo này rất căng thẳng, bắt nguồn từ phiên tòa luận tội Tổng thống đắc cử Donald Trump năm 2019, xoay quanh cáo buộc Tổng thống đắc cử Donald Trump đã giữ lại viện trợ quân sự để gây áp lực buộc Zelenskiy điều tra Hunter Tổng thống Biden, con trai của Tổng thống Joe Biden. Mặc dù vậy, Tổng thống đắc cử Donald Trump gần đây đã nhận xét rằng ông “thích” Zelenskiy và có “mối quan hệ tốt” với ông trong nhiệm kỳ trước.
Zelenskiy trước đó đã nói rằng đất nước phải làm mọi thứ có thể để chấm dứt chiến tranh thông qua các biện pháp ngoại giao vào năm 2025, đồng thời nói thêm rằng chiến tranh sẽ “kết thúc nhanh hơn” dưới thời chính quyền Tổng thống đắc cử Donald Trump.
Bảo đảm an ninh
Trong cuộc phỏng vấn, Zelenskiy cũng đề cập đến nhu cầu cấp thiết của Ukraine về sự bảo đảm an ninh mạnh mẽ.
“Bất kỳ sự bảo đảm an ninh nào mà không có Hoa Kỳ đều là sự bảo đảm an ninh yếu kém cho Ukraine”, Zelenskiy nói. “Thành thật mà nói, người Âu Châu đang để mắt đến ý kiến của tổng thống Hoa Kỳ”.
Tổng thống Ukraine đã cân nhắc đến những nỗ lực của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron trong việc ủng hộ binh lính Âu Châu làm lực lượng gìn giữ hòa bình tiềm năng ở Ukraine. Trong khi ông hoan nghênh các ý tưởng xung quanh sáng kiến này, Zelenskiy nhấn mạnh sự cần thiết của sự tham gia rộng rãi hơn của Âu Châu.
Zelenskiy cho biết: “Chúng tôi không muốn (sáng kiến gìn giữ hòa bình) chỉ là một hoặc hai quốc gia, nếu sáng kiến này được thực hiện”, đồng thời nói thêm rằng bất kỳ con đường tiềm năng nào hướng tới bảo đảm an ninh lâu dài đều phải thông qua tư cách thành viên NATO của quốc gia này.
“Tôi thấy Tổng thống đắc cử Donald Trump có ấn tượng tích cực về ý tưởng này,” Zelenskiy nói về lực lượng gìn giữ hòa bình tiềm năng của Âu Châu tại Ukraine.
Sau cuộc gặp với Zelenskiy và Macron tại Paris vào đầu tháng 12, Tổng thống đắc cử Donald Trump được cho là đã nói rõ rằng ông muốn Âu Châu đảm nhiệm vai trò lãnh đạo giám sát lệnh ngừng bắn tiềm năng ở Ukraine.
“Giai đoạn nóng bỏng của cuộc chiến có thể kết thúc khá nhanh nếu Tổng thống đắc cử Donald Trump giữ vững lập trường của mình, và tôi tin rằng lập trường của ông ấy sẽ phù hợp với lập trường của các đồng minh Âu Châu”, Zelenskiy cho biết khi được hỏi về khả năng chiến tranh sẽ kết thúc sau lễ nhậm chức của Tổng thống đắc cử Donald Trump.
Bất chấp khả năng đàm phán hòa bình sắp tới, Zelenskiy nhấn mạnh rằng ưu tiên của Ukraine vẫn là gia nhập liên minh quân sự NATO.
Zelenskiy nói thêm rằng sự hiện diện của quân đội Âu Châu dọc theo tiền tuyến của Ukraine sẽ không phủ nhận tham vọng gia nhập NATO của nước này.
Kyiv đã nộp đơn xin gia nhập NATO vào tháng 9 năm 2022 và vào tháng 7 năm 2024, liên minh này đã khẳng định “con đường không thể đảo ngược của Ukraine hướng tới sự hội nhập hoàn toàn vào Euro-Đại Tây Dương, bao gồm cả tư cách thành viên NATO” - mặc dù Ukraine chưa nhận được bất kỳ tin tức chắc chắn nào về việc gia nhập trong tương lai.
Bất chấp cam kết gia nhập liên minh của Ukraine, trong những tháng gần đây, Ukraine đã thay đổi lập trường khi cho rằng việc Ukraine gia nhập NATO vẫn nằm trong chương trình nghị sự nhưng các nỗ lực ngoại giao hiện tập trung vào việc đạt được các bảo đảm an ninh mạnh mẽ.
“Tóm lại, một nền hòa bình công bằng đối với chúng ta là sự hiểu biết rằng chúng ta đang ở trong Liên Hiệp Âu Châu và khi nào. Sự hiểu biết rằng chúng ta bảo đảm an ninh mạnh mẽ, với NATO là lựa chọn tốt nhất”, Zelenskiy kết luận.
[Kyiv Independent: 'Trump can be decisive in ending war' —Zelensky on Ukraine's outlook for 2025]
5. Vụ nổ pháo bông ở Hawaii khiến 2 người chết, 22 người bị thương
Theo một bản tin địa phương, một vụ tai nạn liên quan đến pháo bông ở Hawaii đã khiến hai người thiệt mạng và 22 người bị thương.
Vụ việc xảy ra tại Salt Lake-Aliamanu, một khu phố gần Honolulu, và Dịch vụ Y tế Cấp cứu Honolulu đã đến hiện trường, theo Hawaii News Now.
Trong một bài đăng trên X, Sở Cảnh sát Honolulu đã viết: “Sự việc lớn ở khu vực Salt Lake HPD, HFD và EMS đang ứng phó với một sự việc lớn ở khu vực Keaka Drive. Vui lòng tránh xa khu vực này vì những người ứng cứu đầu tiên sẽ cung cấp hỗ trợ y tế và các hỗ trợ khác.”
Sự việc xảy ra sau khi Dịch vụ Y tế Cấp cứu Honolulu phản hồi một cuộc gọi khác ở khu vực Kalihi vào đêm giao thừa.
Các nhân viên y tế tại hiện trường nghi ngờ một cậu bé 14 tuổi bị thương sau khi pháo bông phát nổ trên tay cậu. Cậu bé đã được điều trị tại hiện trường và sau đó đã được đưa đến trung tâm chấn thương để điều trị nâng cao.
Newsweek đã liên hệ với Sở Cảnh sát Honolulu để xin bình luận thông qua biểu mẫu trên trang web của họ ngoài giờ làm việc.
Vụ việc khiến hai người chết và 22 người bị thương này có ý nghĩa quan trọng vì Hoa Kỳ có luật nghiêm ngặt về việc sở hữu và sử dụng pháo bông, và không có nhiều vụ việc xảy ra ngoài ngày 4 tháng 7 dẫn đến tử vong hoặc thương tích do pháo bông.
Sở Cảnh sát Honolulu đã phân loại vụ việc này là một sự việc lớn và trong một tuyên bố cho biết họ đang “làm việc chăm chỉ để quản lý tình hình và bảo đảm an toàn cho mọi người trong khu vực”, theo Channel2Now. Một số trong số 22 cá nhân bị thương, với nhiều loại thương tích, đã được đưa đến các bệnh viện gần đó để tiếp tục điều trị.
Chính quyền địa phương đã xác nhận vụ việc có liên quan đến pháo bông và đang điều tra những tình tiết xung quanh vụ nổ.
Trước đêm giao thừa, sở cảnh sát đã công bố thông tin liên quan đến việc sử dụng pháo bông trên đảo. Họ cho biết chỉ những cá nhân có giấy phép mới được đốt pháo bông sau 9 giờ tối đêm giao thừa cho đến 1 giờ sáng ngày đầu năm mới. Sở cảnh sát lưu ý rằng họ sẽ tăng cường nhân sự và thực thi pháp luật vào ngày lễ.
Cảnh sát Honolulu cho biết mức phạt cho hành vi sử dụng pháo bông bất hợp pháp phụ thuộc vào số lượng mà cá nhân sở hữu hoặc sử dụng, và do đó có thể được phân loại là tội nhẹ hoặc trọng tội. Những người bị kết tội vi phạm quy định về pháo bông có thể phải đối mặt với án tù lên đến năm năm và/hoặc khoản tiền phạt từ 200 đến 10.000 đô la.
Vào năm 2023, Ủy ban An toàn Sản phẩm Tiêu dùng Hoa Kỳ đã báo cáo rằng có tám trường hợp tử vong và 9.700 trường hợp bị thương được điều trị tại ER do pháo bông, phần lớn trong số đó, hay 66 phần trăm, xảy ra trong những tuần trước hoặc sau ngày 4 tháng 7. Tương tự như vậy, vào Ngày Độc lập của Hoa Kỳ năm 2024, có ít nhất bốn trường hợp tử vong liên quan đến pháo bông và hàng chục trường hợp bị thương, theo USA Today.
Nikos Leverenz, một cư dân của Honolulu, đã viết: “Khi lái xe trở về từ buổi thiền đêm giao thừa, tôi thấy rất nhiều xe cảnh sát và xe cấp cứu trên Salt Lake & Pakini. Tôi không nghĩ đó là đường ống nước bị vỡ. Thật đau lòng khi nghe tin có nhiều người chết và hơn 20 người bị thương sau một vụ tai nạn pháo bông lớn ở Aliamanu. #Hawaii #HInews.”
Người ta vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây ra vụ nổ và có bao nhiêu thương vong.
[Newsweek: Hawaii Fireworks Incident Leaves 2 Dead, 22 Injured]
6. Kế ly gián: 3 nhà lãnh đạo Âu Châu, và Đức Thánh Cha Phanxicô nhận được điện tín mừng năm mới từ Putin
Điện Cẩm Linh cho biết các nhà lãnh đạo của ba nước Âu Châu cũng như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận được điện tín chúc mừng năm mới từ Putin.
Tổng thống Serbia Aleksandar Vucic, Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban và Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan nằm trong số những người “được chúc mừng nồng nhiệt... vào dịp Giáng Sinh và năm mới 2025 sắp tới”, Mạc Tư Khoa cho biết.
Trong khi hầu hết các nước Âu Châu vẫn giữ quan hệ lạnh nhạt với Nga kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine nổ ra, một số ít vẫn duy trì quan hệ ngoại giao tích cực ở nhiều mức độ khác nhau.
Orban vẫn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với Mạc Tư Khoa bất chấp cuộc xâm lược Ukraine của Nga, thường xuyên chỉ trích các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Âu Châu đối với Nga và chặn viện trợ quân sự cho Kyiv.
Serbia vẫn duy trì mối quan hệ hữu nghị với Mạc Tư Khoa và phụ thuộc rất nhiều vào khí đốt của Nga, tiêu thụ khoảng 2,5 tỷ mét khối khí đốt mỗi năm, trong đó tập đoàn năng lượng khổng lồ Gazprom của Nga cung cấp khoảng 2 tỷ.
Erdogan muốn duy trì mối quan hệ tích cực với cả Nga và Ukraine.
Thổ Nhĩ Kỳ đã tạo điều kiện cho dầu của Nga chảy vào Liên minh Âu Châu kể từ khi Nga xâm lược toàn diện Ukraine, giúp Điện Cẩm Linh lách được các lệnh trừng phạt của khối này.
Cùng lúc đó, Erdogan đã công khai ủng hộ chủ quyền của Ukraine và chính quyền của ông đã cung cấp viện trợ đáng kể cho Ukraine kể từ khi Nga bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện.
Mặc dù không có tên trong danh sách chính thức, phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov nói với truyền thông nhà nước Nga rằng Thủ tướng Slovakia Robert Fico cũng đã nhận được tin nhắn từ Putin.
Dưới sự lãnh đạo của Fico, Slovakia đã có bước ngoặt lớn trong chính sách đối ngoại, dừng cung cấp quân sự cho Ukraine từ kho dự trữ của Quân đội Slovakia và áp dụng chính sách thân thiện hơn với Nga.
Fico gần đây cũng tuyên bố ông đã chấp nhận lời mời của Điện Cẩm Linh tham dự lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng tại Mạc Tư Khoa vào tháng 5 năm sau.
Đức Giáo Hoàng đã gây ra những trannh cãi ở Ukraine với những phát biểu khuyến khích người dân Ukraine có “lòng can đảm” để đàm phán vì hòa bình.
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 15 tháng 12, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gọi Nga và Ukraine là “anh em”, đồng thời nhắc lại lời kêu gọi hòa bình trong cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine.
“Họ là anh em, anh em với nhau. Hãy để họ đi đến sự hiểu biết. Chiến tranh luôn là một thất bại. Hòa bình cho toàn thế giới,” Đức Giáo Hoàng nói trong chuyến viếng thăm đảo Corsica của Pháp.
Là kẻ chủ động trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga, Điện Cẩm Linh liên tục coi cuộc xâm lược này là nỗ lực tái hợp hai quốc gia thành “một dân tộc”, dựa trên nhiều tuyên bố lịch sử sai trái.
Trước cuộc xâm lược, Putin đã viện dẫn hình ảnh trong Kinh thánh, mô tả hai nước là “anh em” và so sánh mối quan hệ của họ với mối quan hệ của Cain và Abel.
[Kyiv Independent: 3 European leaders, Pope Francis receive New Year telegrams from Putin]
7. Hung Gia Lợi mất khoảng 1 tỷ đô la viện trợ của Liên Hiệp Âu Châu
Hãng thông tấn Đức DPA đưa tin vào ngày 31 tháng 12, trích lời phát ngôn nhân của Ủy ban Âu Châu, rằng Hung Gia Lợi sẽ không nhận được 1,04 tỷ euro, hay 1,08 tỷ đô la, tiền viện trợ từ Liên minh Âu Châu do vi phạm pháp luật.
Gói viện trợ có điều kiện là Hung Gia Lợi phải thực hiện các cải cách để tuân thủ các tiêu chuẩn của Liên Hiệp Âu Châu vào cuối năm 2024. Các cải cách này bao gồm những thay đổi đối với luật về ngăn ngừa xung đột lợi ích và chống tham nhũng.
Theo Ủy ban Âu Châu, Budapest đã không đáp ứng được các yêu cầu và do đó đã mất nguồn tài trợ. Đây là hành động đầu tiên của Liên Hiệp Âu Châu đối với một thành viên khối.
Năm 2022, Liên Hiệp Âu Châu đã khởi xướng thủ tục “có điều kiện” đối với Hung Gia Lợi, nhằm chặn các khoản thanh toán do cáo buộc vi phạm các quy tắc mua sắm công. Liên Hiệp Âu Châu cáo buộc chính phủ Hung Gia Lợi “thiếu kiểm soát và minh bạch”.
Theo đánh giá của Liên Hiệp Âu Châu, Budapest bị phát hiện đã bỏ bê các tiêu chuẩn và giá trị cơ bản của khối. Hung Gia Lợi đã đồng ý thực hiện cải cách để giải tỏa một số khoản tiền, nhưng 19 tỷ euro, hay 20 tỷ đô la, vẫn bị đóng băng.
Vào tháng 7, Ủy ban Âu Châu cho biết Hung Gia Lợi không đáp ứng các tiêu chuẩn dân chủ của Liên Hiệp Âu Châu, đặc biệt là các tiêu chuẩn liên quan đến tài chính chính trị, xung đột lợi ích và tính độc lập của truyền thông.
Theo quy định của Liên Hiệp Âu Châu về điều kiện viện trợ, “đợt nghĩa vụ đầu tiên bị đình chỉ” trị giá 1,04 tỷ euro, hay 1,08 tỷ đô la, sẽ hết hạn vào cuối năm 2024 nếu không dỡ bỏ lệnh đình chỉ.
Hung Gia Lợi, được coi là thành viên Liên Hiệp Âu Châu gần gũi nhất với Điện Cẩm Linh, đã nhiều lần cản trở viện trợ cho Ukraine với lý do nước này “kéo dài” và “leo thang” cuộc chiến đang diễn ra.
Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban cũng nói với các nhà lãnh đạo Liên Hiệp Âu Châu rằng ông dự định đợi cho đến khi Tổng thống đắc cử của Hoa Kỳ Ông Donald Trump nhậm chức trước khi quyết định gia hạn lệnh trừng phạt của khối đối với Nga, Bloomberg đưa tin vào ngày 19 tháng 12, trích dẫn nguồn tin giấu tên.
[Kyiv Independent: Hungary loses out on about $1 billion in EU aid]
8. Bắc Hàn âm thầm vinh danh những tử sĩ trong chiến tranh khi thương vong ở Nga tăng cao
Chính quyền Bắc Hàn được cho là đang trao “giấy chứng nhận tử sĩ” cho gia đình của những người lính tử trận trên tuyến đầu trong cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine.
Gia đình đau buồn của những người tử trận đang nhận được các tài liệu, cũng như các nguồn cung cấp và phúc lợi do chính phủ cấp, để đổi lấy lời cam kết bí mật không chia sẻ bất kỳ chi tiết nào mà họ được cung cấp. Bình Nhưỡng tiếp tục thắt chặt quan hệ quân sự với Mạc Tư Khoa trong bối cảnh ngày càng có nhiều báo cáo về việc binh lính Bắc Hàn chiến đấu—và tử trận—trên tuyến đầu của cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine.
Đài Á Châu Tự Do trích dẫn một nguồn tin ở tỉnh Nam Pyongan, phía bắc thủ đô Bình Nhưỡng. Họ cho biết vào ngày 18 tháng 12, họ đã nhận được thông báo triệu tập họ đến một sự kiện của ủy ban Đảng Lao động Bắc Hàn để phân phát giấy chứng nhận.
Sự kiện này được cho là có sự tham dự của khoảng một chục thành viên gia đình của những người lính “đã hy sinh trong khi tham gia huấn luyện chiến đấu thiêng liêng để vinh danh quê hương”, nguồn tin cho biết, nói với điều kiện giấu tên vì sự an toàn của họ. Họ nói thêm rằng hầu hết những người đã hy sinh được vinh danh đều đã phục vụ trong Quân đoàn Bão táp tinh nhuệ.
Các gia đình được cho là đã bị buộc phải ký thỏa thuận không tiết lộ. Mặc dù vậy, “các gia đình đau buồn cho rằng con cái họ đã đến Nga và chết”, nguồn tin cho biết.
Một nguồn tin khác từ tỉnh Nam Pyongan nói với hãng thông tấn: “Một đồng nghiệp tham gia sự kiện cho tôi biết rằng khoảng 20 gia đình có người thân qua đời đã nhận được giấy chứng tử”. Chính quyền đã giữ kín thông tin chi tiết về địa điểm và cách những người lính tử nạn, chỉ tuyên bố rằng họ đã “hy sinh một cách danh dự vì Đảng và đất nước”.
Nguồn tin cho biết thêm rằng việc không nêu rõ địa điểm và nguyên nhân tử vong là điều bất thường, đồng thời lưu ý rằng những thông tin này thường được tiết lộ đối với những người lính tử trận trong quá trình huấn luyện chiến đấu ở Bắc Hàn.
Nguồn tin cho biết: “Chính quyền đang theo dõi hoạt động di chuyển của các gia đình tang quyến đã được trao 'giấy chứng nhận chiến tranh' và cố gắng ngăn chặn dư luận”.
Nguồn tin cho biết thêm: “Người dân ngày càng phẫn nộ trước việc những người lính trẻ ở độ tuổi 20 bị buộc phải chịu đạn để kiếm ngoại tệ”.
Nam Hàn ước tính hơn 11.000 quân Bắc Hàn đã được điều động tới khu vực Kursk của Nga, nơi quân đội Ukraine đã tiến hành phản công kể từ tháng 8.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy gần đây cho biết có hơn 3.000 thương vong của Bắc Hàn tại Kursk. Nam Hàn báo cáo hơn 1.000 thương vong vào tuần trước. Newsweek chưa xác minh cả hai con số.
Cả Bình Nhưỡng và Mạc Tư Khoa đều không thừa nhận sự hiện diện của quân đội Bắc Hàn ở Nga.
Andriy Yermak, chánh văn phòng của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy, đã viết vào Chúa Nhật trong một bài đăng trên nền tảng mạng xã hội Telegram về viễn cảnh quân đội Bắc Hàn xuất hiện dọc biên giới của các thành viên NATO, liên minh an ninh gồm 32 thành viên mà Ukraine đã nộp đơn xin gia nhập.
“Khi chúng ta nói về những gì các nước Âu Châu và các quốc gia NATO nên nghĩ đến, thì điều đáng cân nhắc là những rủi ro của các mối đe dọa lai ghép tại biên giới,” Yermak viết. “Sự xuất hiện của quân đội CHDCND Bắc Hàn (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Bắc Hàn) mặc quân phục Nga, hoặc lực lượng ủy nhiệm của Iran, trên biên giới của các quốc gia NATO là hoàn toàn có thật, nếu bạn không ngăn chặn Nga ngay bây giờ.”
“Quân đội CHDCND Bắc Hàn đã chiến đấu ở Âu Châu. Ai có thể nghĩ đến điều này trước đây?
“Sự trừng phạt tạo ra sự dễ dãi. Ngay bây giờ là thời điểm đòi hỏi những quyết định mạnh mẽ và hành động mạnh mẽ”, Yermak nói thêm.
Washington và các đồng minh đã cảnh báo Nga có thể cung cấp vũ khí tiên tiến và chuyên môn kỹ thuật để thúc đẩy các chương trình hỏa tiễn và hạt nhân được Liên Hiệp Quốc chấp thuận của chế độ Kim Chính Ân.
Đô đốc Samuel Paparo, nhà lãnh đạo Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, gần đây cho biết Bắc Hàn sắp nhận được các chiến đấu cơ MiG-29 và Su-27 cũ của Nga.
Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Nam Hàn đã cảnh báo rằng Bình Nhưỡng sẽ tiếp tục gửi quân đến bổ sung vào hàng ngũ quân đội Nga.
[Newsweek: North Korea Quietly Honors War Dead As Casualties in Russia Climb]
9. Zelenskiy nhận định rằng việc ngăn chặn việc vận chuyển khí đốt của Nga qua Ukraine là ‘Một trong những thất bại lớn nhất của Mạc Tư Khoa’
Tổng thống Volodymyr Zelenskiy phát biểu vào ngày 1 Tháng Giêng rằng việc dừng vận chuyển khí đốt của Nga qua Ukraine là “một trong những thất bại lớn nhất của Mạc Tư Khoa”.
Ukraine đã chấm dứt việc vận chuyển khí đốt tự nhiên của Nga qua lãnh thổ của mình vào ngày 1 tháng Giêng. Kyiv đã nhiều lần cảnh báo rằng họ sẽ không gia hạn thỏa thuận khi nó hết hạn vào cuối năm 2024 vì không muốn tài trợ cho chiến tranh của Nga.
“Khi Putin được trao quyền lực ở Nga cách đây hơn 25 năm, lượng khí đốt hàng năm được bơm qua Ukraine đến Âu Châu đã đạt hơn 130 tỷ mét khối. Ngày nay, lượng khí đốt quá cảnh của Nga là 0. Đây là một trong những thất bại lớn nhất của Mạc Tư Khoa”, Zelenskiy nói.
“Biến năng lượng thành vũ khí và tống tiền năng lượng một cách vô đạo đức đối với các đối tác là điều khiến Nga mất đi thị trường hấp dẫn và dễ tiếp cận nhất về mặt địa lý.”
Theo Zelenskiy, hầu hết các nước Âu Châu “đã thích nghi” với việc chấm dứt quá cảnh khí đốt của Nga. Zelenskiy nói thêm rằng nhiệm vụ chung của các đồng minh hiện nay là hỗ trợ Moldova, quốc gia phụ thuộc vào nguồn cung cấp của Nga, trong quá trình chuyển đổi năng lượng.
Zelenskiy cho biết ông tin rằng nguồn cung cấp khí đốt của Hoa Kỳ và các đối tác khác sẽ giúp giá thị trường năng lượng có lợi hơn.
Zelenskiy cho biết: “Càng có nhiều khí đốt từ các đối tác thực sự của Âu Châu trên thị trường thì hậu quả tiêu cực cuối cùng của sự phụ thuộc năng lượng của Âu Châu vào Nga sẽ càng sớm được khắc phục”.
Ông nói thêm rằng điều này cũng cần thiết “để chống lại sự cuồng loạn của một số chính trị gia Âu Châu thích các âm mưu mafia với Mạc Tư Khoa hơn là chính sách năng lượng minh bạch”.
Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orban và người đồng cấp Slovakia Robert Fico là một trong những người phản đối mạnh mẽ nhất quyết định của Ukraine về việc dừng vận chuyển khí đốt của Nga. Bất chấp cuộc xâm lược Ukraine của Nga, Orban và Fico vẫn tiếp tục duy trì mối quan hệ hữu nghị với Putin, gặp gỡ ông và thúc đẩy các câu chuyện ủng hộ Nga ở Âu Châu.
Trong bài phát biểu năm mới, Fico cho biết việc dừng vận chuyển khí đốt của Nga qua Ukraine sẽ gây ra “hậu quả nghiêm trọng” cho mọi người trong Liên minh Âu Châu, nhưng không phải cho Nga. Fico tuyên bố rằng giá khí đốt và điện ở Âu Châu sẽ tăng.
Trước đó, Fico đã đe dọa sẽ cắt nguồn cung cấp điện cho Ukraine trong bối cảnh tình trạng mất điện ngày càng gia tăng do các cuộc tấn công của Nga vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine.
Trong khi Liên Hiệp Âu Châu đã nỗ lực giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch của Nga sau cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine, nhiều quốc gia, bao gồm Slovakia và Hung Gia Lợi, vẫn phụ thuộc vào khí đốt của Nga.
Slovakia có hợp đồng dài hạn với tập đoàn năng lượng nhà nước Gazprom của Nga và ước tính các thỏa thuận thay thế có thể tốn thêm 220 triệu euro, hay 228,73 triệu đô la, phí vận chuyển.
[Kyiv Independent: 'One of Moscow's biggest defeats' — Zelensky on stopping Russian gas transit via Ukraine]
13 Nhà truyền giáo hy sinh trong năm 2024. Năm Thánh 2033. Hai biểu tượng vĩ đại cho Năm Thánh.
VietCatholic Media
17:15 03/01/2025
1. 13 Nhà truyền giáo Công Giáo và Nhân viên mục vụ được báo cáo đã bị giết trên toàn thế giới vào năm 2024
Theo một báo cáo mới được công bố, có mười ba nhà truyền giáo và mục sư đã thiệt mạng khi phục vụ Giáo Hội Công Giáo vào năm 2024.
Theo tài liệu được Agenzia Fides, hãng thông tấn truyền giáo của Vatican, công bố ngày 30 tháng 12, tám linh mục và năm giáo dân đã thiệt mạng trên ba châu lục.
Phi Châu và Mỹ Châu mỗi nơi ghi nhận năm ca tử vong, trong khi hai linh mục bị giết ở các nước Âu Châu.
Tại Burkina Faso, nơi mối nguy hiểm dai dẳng từ các nhóm thánh chiến tiếp tục đe dọa các cộng đồng Kitô giáo, hai nhân viên mục vụ đã bị sát hại. François Kabore, một tình nguyện viên 55 tuổi, đã bị giết trong một cuộc tấn công vào tháng 2 khi đang dẫn đầu buổi cầu nguyện và giáo lý viên Edouard Zoetyenga Yougbare đã bị phát hiện bị tra tấn đến chết vào tháng 4.
Nam Phi chứng kiến hai linh mục bị sát hại bằng súng trong vòng vài tuần. Cha William Banda, 37 tuổi, bị bắn chết vào ngày 13 tháng 3 khi đang chuẩn bị cử hành Thánh lễ tại Nhà thờ Tzaneen, tiếp theo là vụ giết hại Cha Paul Tatu, 45 tuổi, tại Pretoria vào ngày 27 tháng 4.
Một số trường hợp tử vong xảy ra trong các vụ cướp hoặc tấn công vào tài sản của Nhà thờ. Tại Ba Lan, Cha Lech Lachowicz, 72 tuổi, đã tử vong sau khi bị một kẻ đột nhập cầm rìu tấn công tại nhà xứ của mình. Tại Tây Ban Nha, Cha Juan Antonio Llorente, 76 tuổi, thuộc dòng Phanxicô đã tử vong sau một vụ tấn công tại tu viện của mình ở Gilet.
Cộng hòa Dân chủ Congo đã chứng kiến cái chết của Edmond Bahati Monja, điều phối viên của Radio Maria/Goma, người đã bị bắn chết gần nhà mình trong bối cảnh bạo lực gia tăng từ các nhóm vũ trang. Ít nhất một chục nhà báo đã bị sát hại trong và xung quanh Goma trong hai năm, Fides đưa tin.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã công khai thương tiếc Juan Antonio López, một điều phối viên mục vụ xã hội 46 tuổi đã thiệt mạng tại Honduras sau khi tố cáo mối liên hệ giữa các quan chức thành phố và tội phạm có tổ chức.
“Tôi cùng chia sẻ nỗi đau buồn của Giáo hội địa phương này và lên án mọi hình thức bạo lực,” Đức Giáo Hoàng đã nói trong bài diễn văn đọc tại Kinh Truyền tin ngày 22 tháng 9. “Tôi gần gũi với tất cả những người chứng kiến các quyền cơ bản của mình bị chà đạp, cũng như với những người làm việc vì lợi ích chung.”
Theo dữ liệu của Fides, từ năm 2000 đến năm 2024, tổng cộng có 608 nhà truyền giáo và nhân viên mục vụ đã bị giết trên toàn thế giới, lưu ý rằng những con số này chỉ đại diện cho các trường hợp đã được xác minh.
Phát biểu trong ngày lễ Thánh Stêphanô tử đạo vào thứ năm tuần trước, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã nhắc lại lời chứng của các Kitô hữu bị bách hại trên khắp thế giới.
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật ngày 26 tháng 12, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã suy ngẫm về những lời cuối cùng của Thánh Stêphanô khi bị ném đá đến chết như được ghi lại trong Sách Công vụ Tông đồ: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”.
Source:National Catholic Register
2. Đức Hồng Y Koch Tưởng Nhớ Đức Bênêđíctô XVI và Di Sản của Ngài vào Ngày Giỗ Thứ Hai
Đức Hồng Y Kurt Koch đã cử hành thánh lễ tại mộ của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 ở Đền Thờ Thánh Phêrô vào hôm Chúa Nhật 29 Tháng Mười Hai,, đánh dấu kỷ niệm hai năm ngày mất của Đức Giáo Hoàng danh dự.
Đức Giáo Hoàng xứ Bavaria, qua đời vào ngày 31 tháng 12 năm 2022, được chôn cất cách mộ của Hoàng tử các Tông đồ chỉ vài mét trong hang động Vatican.
Trong bài giảng của mình, diễn ra cùng thời điểm với buổi đọc phụng vụ phần mở đầu của Phúc âm thánh Gioan, Đức Hồng Y Koch đã suy ngẫm về sự tận tụy suốt đời của Đức Bênêđíctô trong việc khám phá ý nghĩa của Logos — Lời Chúa.
Đức Hồng Y Koch phát biểu trong Thánh lễ được truyền hình trực tiếp trên kênh EWTN Đức: “Trong bài thánh ca ngợi khen Ngôi Lời, Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa và chính là Thiên Chúa, cốt lõi sâu xa nhất của đức tin Kitô giáo đã được cô đọng lại”.
“Joseph Ratzinger — Bênêđíctô XVI đã suy ngẫm về điều này trong suốt cuộc đời của mình và tiết lộ điều đó cho chúng ta.”
Đức Hồng Y người Thụy Sĩ, hiện là Tổng trưởng Bộ Thúc đẩy Hiệp nhất Kitô giáo, nhấn mạnh rằng mối quan tâm hàng đầu của Đức Bênêđíctô XVI là làm cho con người hiện đại có thể tiếp cận được Thiên Chúa vào thời điểm mà nhiều người cảm thấy Thiên Chúa xa lạ hoặc thừa thãi.
Đức Hồng Y Koch cho biết: “Đối với nhà thần học trung thành trên Ngai tòa Phêrô, không có ưu tiên nào lớn hơn việc chỉ cho mọi người ngày nay đường lối với Thiên Chúa, chân lý và vẻ đẹp của Người”.
Ông lưu ý rằng Bênêđíctô XVI đã bước vào trọn vẹn mầu nhiệm Phục sinh vào ngày “sinh ra lần thứ hai” của mình trong lễ Giáng Sinh, ngày luôn có ý nghĩa đặc biệt đối với ông. Đức Giáo Hoàng danh dự đã qua đời lúc 9:34 sáng tại tu viện Mater Ecclesiae, nơi ông đã sống kể từ khi từ chức lịch sử vào năm 2013.
Triều đại của Đức Bênêđíctô XVI kéo dài từ năm 2005 đến năm 2013, kết thúc bằng sự từ chức đầu tiên của một giáo hoàng sau gần 600 năm.
Ngay cả trước khi được bầu làm giáo hoàng, ngài đã có ảnh hưởng sâu sắc đến Giáo hội toàn thế giới, đầu tiên là khi còn là một nhà thần học trẻ tại Công đồng Vatican II và sau đó là Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin.
Thánh lễ kết thúc bằng lời cầu nguyện tại lăng mộ của Đức Bênêđíctô XVI, nơi Đức Hồng Y Koch dừng lại một lát để cầu nguyện trong im lặng.
Source:National Catholic Register
3. 2 Biểu tượng vĩ đại cho Đại Năm Thánh: Thánh Gioan Phaolô II và Chân phước Stefan Wyszyński
Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada. Trong bài phân tích nhan đề “2 Great Icons for the Great Jubilee: St. John Paul II and Blessed Stefan Wyszyński”, nghĩa là “2 Biểu tượng vĩ đại cho Đại Năm Thánh: Thánh Gioan Phaolô II và Chân phước Stefan Wyszyński” đăng trên tờ National Catholic Register ngày 31 tháng 12 Năm, 2024, ngài phân tích về khả thể Giáo Hội có Đại Năm Thánh Ngoại Thường 2033, kỷ niệm 2000 năm cuộc thương khó, cái chết và sự Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Năm Thánh 2025 là năm thánh “bình thường”, được tổ chức 25 năm một lần. Tuy nhiên, năm này như thể nằm giữa năm thánh ngàn năm 2000, khi Đức Gioan Phaolô đặt việc kỷ niệm vào trọng tâm của Tân Phúc Âm hóa, và năm 2033, hai thiên niên kỷ kể từ cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô.
Thỉnh thoảng, các năm thánh “ngoại thường” được Đức Giáo Hoàng đương nhiệm triệu tập. Năm gần đây nhất là Năm Thánh Lòng Thương Xót 2015-2016, do Đức Giáo Hoàng Phanxicô ban bố. Trước đó, đã có các năm thánh ngoại thường vào năm 1933 và 1983, được ban bố để đánh dấu kỷ niệm 1.900 năm và 1.950 năm Cứu Chuộc.
Những lễ kỷ niệm ngoại thường đó đã đặt ra tiền lệ cho “Đại lễ kỷ niệm 2033”, như tôi gọi. Cũng như trong lịch sử, mầu nhiệm cứu chuộc theo sau mầu nhiệm nhập thể, thì Đại lễ kỷ niệm 2033 cũng sẽ theo sau Đại lễ kỷ niệm 2000. Mầu nhiệm nhập thể phục vụ cho mục đích của ơn cứu chuộc; Giáng Sinh được hoàn thành vào Lễ Phục sinh.
Trong khi Vatican đang bận rộn với năm thánh hiện tại, họ đã chỉ ra rằng cần phải làm một điều gì đó lớn lao để đánh dấu năm 2033. Có thể tự tin dự đoán rằng đó sẽ là một năm thánh, mặc dù thuật ngữ “Đại Năm thánh” của tôi có được thông qua hay không vẫn còn phải chờ xem.
Thánh Gioan Phaolô đã tuyên bố một năm Thánh Mẫu đặc biệt vào năm 1987-1988 như một sự chuẩn bị cho Đại Năm Thánh 2000, được định thời gian gần đúng với lễ kỷ niệm 2.000 năm ngày Đức Mẹ Maria sinh hạ Chúa Cứu Thế. Tương tự như vậy, sẽ là điều không thể tưởng tượng được nếu năm 2031 không được tuyên bố là năm Thánh Mẫu — nhưng không phải là một đại lễ nghiêm ngặt — để đánh dấu 500 năm kể từ khi Đức Mẹ hiện ra tại Guadalupe. Từ Năm Thánh 2025 đến Năm Thánh Mẫu 2031 đến Đại Năm Thánh 2033, Giáo hội sẽ đánh dấu gần một thập niên dài của các sự kiện kỷ niệm ngoại thường.
Nói rộng hơn, Giáo hội đã sống khoảnh khắc thiên niên kỷ trong 45 năm, khi Đức Gioan Phaolô tập trung sự chú ý vào Năm Thánh mừng kính ngay từ những ngày đầu của triều đại giáo hoàng của ngài. Ngài đã dạy Giáo hội về các lễ mừng kính, dựa trên kinh nghiệm của ngài ở Ba Lan.
Những lời mở đầu trong thông điệp đầu tiên của ngài năm 1979 đã đề cập đến điều này, tuyên bố rằng, “Chúa Giêsu Kitô là trung tâm của vũ trụ và lịch sử” và rằng “thời điểm này… đã rất gần đến năm 2000”.
Khi Đức Gioan Phaolô II viết điều đó, thì còn 21 năm nữa mới đến năm 2000. Nhưng ngài đã biết rằng ngài sẽ dẫn dắt Giáo hội vào thiên niên kỷ thứ ba của Kitô giáo. Làm sao ngài biết điều đó? Bởi vì ngài đã được một nhân vật vô cùng đáng tin cậy nói cho biết điều đó.
Trong mật nghị tháng 10 năm 1978, khi cuộc bỏ phiếu chuyển sang hướng của Hồng Y Karol Wojtyła của Kraków, vị Hồng Y người Ba Lan lớn tuổi và là giáo chủ của Ba Lan, Tổng giám mục Warsaw Stefan Wyszyński, đã nói chuyện với em trai của mình là Hồng Y người Ba Lan. Năm 1994, Đức Gioan Phaolô II tiết lộ, “Đức Hồng Y Wyszyński đã nói với tôi: 'Nếu Chúa đã gọi anh, anh phải đưa Giáo hội vào thiên niên kỷ thứ ba!'“
Để hiểu tại sao những lời đó, lời tiên tri đó, lại vang vọng trong sâu thẳm tâm hồn Công Giáo và Ba Lan của Hồng Y Wojtyła, cần phải biết đến hình ảnh của Hồng Y Wyszyński. Ba Lan đã cho chúng ta hai nhà lãnh đạo Công Giáo vĩ đại nhất của thế kỷ 20: Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ở vị trí thứ nhất và Hồng Y Wyszyński ở vị trí thứ hai.
Cho đến năm 1978, Hồng Y Wojtyła là nhân vật cấp dưới của vị Hồng Y anh hùng. Tại các mật nghị năm 1978, giới truyền thông đã bị cuốn hút bởi vị Hồng Y đến từ Kraków, người đã đi trượt tuyết.
Đức Hồng Y Wojtyła trả lời câu hỏi của họ về việc liệu việc một Hồng Y trượt tuyết có phải là không phù hợp hay không: “Điều đó không phải là bất thường ở Ba Lan. Ở Ba Lan, 40% các Hồng Y trượt tuyết.” Khi các phóng viên chỉ ra rằng chỉ có hai Hồng Y ở Ba Lan, Đức Wojtyła giải thích. “Ở Ba Lan, Đức Hồng Y Wyszyński chiếm 60%.”
Đức Hồng Y Wyszyński, được phong chân phước vào năm 2021, đã đóng góp rất lớn trong cuộc chiến vĩ đại chống lại chủ nghĩa cộng sản vô thần. Thế giới biết về mối quan hệ đối tác tuyệt vời của Karol Wojtyła và Joseph Ratzinger. Cần phải biết nhiều hơn về mối quan hệ đối tác tuyệt vời trước đó, của Wyszyński và Wojtyła.
Đức Hồng Y Wyszyński là tổng giám mục Warsaw và là giáo chủ của Ba Lan từ năm 1948 đến năm 1981 — 33 năm chiến đấu hàng ngày với đế chế độc ác Liên Xô. Năm 1953, chế độ cộng sản Ba Lan đã bắt giữ Đức Hồng Y Wyszyński với những cáo buộc bịa đặt và giam giữ ngài tại gia trong ba năm.
Năm 1956, Đức Hồng Y Wyszyński được trả tự do. Ngài đã tận dụng thời gian bị giam giữ của mình một cách có ích. Khi được thả, ngài đã công bố một chương trình đầy tham vọng kéo dài một thập niên cho lễ kỷ niệm vào năm 1966 để mừng 1.000 năm đức tin Kitô của Ba Lan, từ lễ rửa tội năm 966 của Hoàng tử Mieszko I của triều đại Piast.
Đức Hồng Y Wyszyński đề xuất một “Đại Novena”: chín năm truyền giáo, giáo lý và đào tạo để chuẩn bị cho năm 1966, khi toàn thể Ba Lan sẽ tái cam kết với lời thề rửa tội của mình. Thông điệp rất rõ ràng: Ba Lan là một quốc gia Kitô giáo, bất kể chế độ đương nhiệm là một chế độ vô thần. Đức tin Công Giáo của họ sẽ được đổi mới trong Đại Novena; sự kháng cự về mặt văn hóa sẽ là sự bảo vệ của Giáo hội đối với người dân Ba Lan chống lại chế độ do Liên Xô áp đặt.
Năm 1966, Đức Hồng Y Wyszyński đã kỷ niệm thiên niên kỷ vĩ đại trước một cuộc tụ họp lớn tại Częstochowa, với Tổng giám mục Wojtyła của Kraków bên cạnh. Đức Hồng Y Wyszyński đã mời Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục tham dự lễ kỷ niệm thiên niên kỷ năm 1966; chế độ đã chặn lời mời.
Khi Đức Giáo Hoàng Đức Gioan Phaolô II lần đầu tiên đến Ba Lan vào tháng 6 năm 1979, ngài đã mở đầu bài giảng kết thúc Đế chế Xô Viết bằng cách nhắc đến thiên niên kỷ 1966. Ngài giải thích rằng ngài hiện đang làm những gì mà Thánh Phaolô Đệ Lục đã bị ngăn cản không được làm. Thiên niên kỷ Ba Lan đã hoàn tất.
Vào tháng 3 năm 1979, trong thông điệp đầu tiên của mình, Đức Gioan Phaolô II đã hướng tới thiên niên kỷ thứ hai vào năm 2000. Vào tháng 6 năm 1979, ngài thực hiện chuyến hành hương đầu tiên đến Ba Lan trong bối cảnh thiên niên kỷ 1966.
Lễ kỷ niệm năm 1966 vô cùng quan trọng đến nỗi Đức Hồng Y Wyszyński được biết đến đơn giản với tên gọi “Giáo chủ của Thiên niên kỷ”. Tại mật nghị vào tháng 10 năm 1978, giáo chủ của thiên niên kỷ Ba Lan đã trao ngọn đuốc cho giáo hoàng của thiên niên kỷ thứ ba.
Đức Gioan Phaolô đã viết vào năm 1994 rằng: “Việc chuẩn bị cho năm 2000 đã trở thành chìa khóa giải thích cho Triều đại Giáo hoàng của tôi”.
Vậy thì điều gì sẽ xảy ra nếu Đức Gioan Phaolô II bị sát hại 19 năm trước Đại Năm Thánh năm 2000?
Trong khi Đức Gioan Phaolô II nằm trong bệnh viện để hồi phục vết thương sau vụ ám sát ngày 13 tháng 5 năm 1981, Đức Hồng Y Wyszyński nằm trong bệnh viện Warsaw, hấp hối vì ung thư bụng. Hai vị giám mục Ba Lan vĩ đại đã nói chuyện qua điện thoại từ giường bệnh của mình. Vị giáo chủ, thở hổn hển, đã cầu xin Đức Thánh Cha ban phước lành. Chắc hẳn cả hai đều tự hỏi liệu lời tiên tri về thiên niên kỷ của Đức Hồng Y Wyszyński có được ứng nghiệm hay không. Đức Hồng Y Wyszyński sẽ qua đời vào ngày 28 tháng 5, là ngày mà bây giờ là ngày lễ của ngài.
Đức Gioan Phaolô II đã hồi phục, cho rằng sự sống sót của mình là nhờ sự chuyển cầu của Đức Mẹ Fatima, vào đúng ngày lễ của Đức Mẹ, vụ nổ súng đã diễn ra. Sau đó, giữa Năm Thánh, ngài đã trở lại Fatima. Mục đích bề ngoài của chuyến đi Fatima là để phong chân phước cho hai đứa trẻ chăn chiên, Jacinta và Francisco.
Lý do sâu xa hơn trở nên rõ ràng khi ngài đến đền thờ và quỳ xuống trước bức tượng và tặng một món quà, một chiếc hộp nhỏ, cho bức tượng Đức Mẹ Fatima. Đó là một chiếc nhẫn. Không phải chiếc nhẫn ngài đeo hàng ngày, mà là một chiếc nhẫn đặc biệt mà Đức Hồng Y của Thiên niên kỷ đã tặng ngài khi ngài được bầu làm giáo hoàng. Khi trao chiếc nhẫn một cách tượng trưng cho đền thờ Fatima, Đức Gioan Phaolô II đã tuyên bố rằng sứ mệnh đã hoàn thành. Chân phước Stefan Wyszyński đã trao cho ngài một sứ mệnh, và sứ mệnh đó đã bị đe dọa đến tính mạng vào ngày 13 tháng 5 năm 1981. Sự phục hồi kỳ diệu của ngài đã giúp hoàn thành sứ mệnh. Sự phục hồi đó là do Đức Maria thực hiện, như Đức Gioan Phaolô II đã nói: “Một viên đạn đã được bắn ra; nhưng một bàn tay khác đã điều khiển viên đạn”.
Bàn tay dẫn dắt của Đấng Quan Phòng trong lịch sử là mục đích của những năm đại xá, để nhắc nhở rằng mọi thứ, kể cả món quà thời gian, đều là món quà từ Thiên Chúa — trên hết là từ Con của Người là Chúa Giêsu Kitô.
Vào nửa đêm giao thừa năm 1999, Đức Gioan Phaolô đã xuất hiện tại cửa sổ nhìn ra Quảng trường Thánh Phêrô và nói những lời này vào khoảnh khắc đầu tiên của thiên niên kỷ mới, những lời phù hợp cho mọi lễ kỷ niệm: “Chúng ta hãy bước vào năm 2000 với đôi mắt hướng về mầu nhiệm Nhập thể. Chúa Kitô, hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Thời gian và các thời đại thuộc về Người. Vinh quang và quyền thống trị thuộc về Người đến muôn đời. Amen!”
Những lời này được trích từ lời cầu nguyện khi làm phép nến Phục Sinh trong đêm vọng Phục Sinh và hướng sự chú ý ngay từ bây giờ tới Đại Năm Thánh 2033.
Source:National Catholic Register
Thánh Ca
Tình Yêu Giáng Sinh
Phạm Trung
16:11 03/01/2025