Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tuyên bố của cha Lombardi về lời của Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi các giáo xứ tại Âu Châu đón nhận người tị nạn
Đặng Tự Do
20:47 06/09/2015
Theo những con số thống kê chưa đầy đủ 340,000 người tị nạn đã di dân bất hợp pháp vào Âu Châu trong 6 tháng đầu năm nay. Chỉ riêng trong tháng 7, con số người tị nạn tràn vào Âu Châu đã tăng vọt lên tới 107,500 người. Trong khi đó xác những người vượt biên bằng đường biển trôi bập bềnh vào bờ biển của Libya và Thổ Nhĩ Kỳ. Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ước tính có ít nhất 2800 người đã chết trong vùng biển Địa Trung Hải từ đầu năm đến nay.
Sau khi quân khủng bố Hồi Giáo IS chiếm được tại thành phố Al-Qaryatayn, thiết lập guồng máy hành chính tại đây, đã có những lo âu theo đó các cường quốc phương Tây đang thỏa thuận với các cường quốc dầu hỏa trong vùng mượn tay quân khủng bố Hồi Giáo IS để thực hiện sách lược Hồi Giáo hóa khu vực. Làn sóng người tị nạn tràn vào Âu Châu càng tăng vọt và ở nhiều nơi đã xảy ra tình trạng người tị nạn đánh nhau với công an biên phòng khi họ bị ngăn cản vượt qua biên giới.
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 6 tháng 9 tại quảng trường Thánh Phêrô trước hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương, Đức Thánh Cha đã kêu gọi các giáo xứ và các tổ chức Công Giáo trên toàn Âu Châu đón nhận người tị nạn.
Ngài nói:
“Anh chị em thân mến, người ta nhận ra Lòng Thương Xót của Thiên Chúa qua các việc làm của chúng ta, như cuộc sống của chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta mà chúng ta tưởng niệm ngày qua đời hôm 5 tháng 9 này.
Đứng trước thảm trạng hàng chục ngàn người tị nạn trốn chạy cái chết vì chiến tranh và đói và họ đang hành trình tiến về cuộc sống hy vọng, Tin Mừng kêu gọi chúng ta, yêu cầu chúng ta hãy trở thành ”những người thân cận của những ngừơi bé nhỏ nhất và bị bỏ rơi, mang lại cho họ một niềm hy vọng cụ thể. Nếu chỉ nói ‘Can đảm lên, hãy kiên nhẫn!..’ mà thôi thì chưa đủ. Niềm hy vọng Kitô có sức phấn đấu, với sự kiên trì của người đang tiến về một mục tiêu chắc chắn. Vì thế, nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp đến gần, tôi kêu gọi các giáo xứ, các cộng đoàn dòng tu, các đan viện và Đền thánh ở toàn Âu Châu hãy biểu lộ sự cụ thể của Tin Mừng và đón tiếp một gia đình tị nạn. Đó là một cử chỉ cụ thể để chuẩn bị cho Năm Thánh Lòng Thương Xót. Mỗi giáo xứ, mỗi cộng đoàn dòng tu, mỗi đan viện, mỗi đền thánh ở Âu Châu hãy tiếp nhận một gia đình, bắt đầu từ giáo phận Rôma của tôi.
Tôi ngỏ lời với các anh em Giám Mục Âu Châu của tôi, là những chủ chăn đích thực, để các vị hỗ trợ lời kêu gọi này của tôi trong các giáo phận của các vị, nhớ rằng Lòng Thương Xót là danh xưng thứ hai của Tình Yêu: ‘Tất cả những gì các con làm cho một trong những người anh em bé nhỏ nhất của Thầy đây, là các con làm cho Thầy’ (Mt 25,40).
Cả hai giáo xứ ở Vatican cũng sẽ đón nhận 2 gia đình tị nạn trong những ngày này.
Buổi chiều cùng ngày, Cha Federico Lombardi, giám đốc Phòng Báo Chí Tòa Thánh, đã có cuộc họp báo giải thích về lời kêu gọi của Đức Thánh Cha.
Đức Thánh Cha và các Đức Thượng Phụ trong thế giới Ả rập nhiều lần tuyên bố “Không chấp nhận một Trung Đông không có các tín hữu Kitô”. Một số ký giả nêu câu hỏi có phải với lời kêu gọi này, Tòa Thánh thay đổi thái độ, chấp nhận một thực tế là các tín hữu Kitô không thể trụ lại trong vùng, và do đó chuyển sang phương án đón nhận họ vào Âu Châu.
Cha Federico Lombardi nhấn mạnh rằng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha chỉ nên hiểu là lời mời gọi thể hiện tình đoàn kết và các phản ứng sáng tạo và quảng đại trước cuộc khủng hoảng người tị nạn đang diễn ra khi chúng ta chuẩn bị cho Năm Thánh của Lòng Thương Xót, một sự chuẩn bị phải đi vào cuộc sống thông qua các công việc bác ái cụ thể. Cha Lombardi nhấn mạnh: “Đức Thánh Cha không phải là đang đề cập đến các công việc chuẩn bị về tổ chức hay hậu cần”.
Đức Hồng Y Bechara Boutros al-Rahi, Thượng Phụ Công Giáo Nghi Lễ Maronite từ Li Băng cũng lặp lại quyết tâm “Không chấp nhận một Trung Đông không có các tín hữu Kitô”.
Ngài nói:
“Chúng ta biết rằng một thế giới Ả rập không có tín hữu Kitô sẽ là một tai họa cho cả Ðông lẫn Tây phương, bởi vì Ả rập sẽ không còn là một nền văn hóa đa diện, mà sẽ bị nuốt chửng bởi văn hóa tôn giáo của Hồi giáo. Cả Hồi Giáo lẫn Âu châu đều không thể sống trong một hoàn cảnh như thế”
Cha Lombardi nói thêm rằng khi Đức Thánh Cha nói về các giáo xứ, ngài muốn đưa ra lời kêu gọi đến toàn bộ cộng đồng giáo xứ được thiết lập trên thực tại địa phương, chứ không chỉ nhắm đến các linh mục giáo xứ và nhà xứ của các linh mục.
Cha Lombardi nhận xét rằng cộng đoàn giáo xứ sẽ có thể tìm ra cách tốt nhất để thực hiện lời kêu gọi này.
Và khi Đức Thánh Cha nói đến “các cộng đoàn dòng tu” ngài đang sử dụng các từ ngữ mạnh mẽ đã từng sử dụng khi ngài đến thăm “Centro Astalli” là Trung tâm tị nạn ở Rôma do các linh mục dòng Tên điều hành.
Đây là những lời của Đức Giáo Hoàng trong dịp đó: “Chúa đã kêu gọi chúng ta sống với lòng can đảm và lòng hiếu khách quảng đại hơn trong các cộng đoàn, trong các nhà và trong các tu viện không dùng đến. Anh chị em nam nữ tu sĩ thân mến, các tu viện không dùng đến của anh chị em không có ích gì cho Giáo Hội nếu chúng được biến thành khách sạn để kiếm tiền. Các tu viện không dùng đến không thuộc về anh chị em, nhưng là xác thịt của Chúa Kitô cho những người tị nạn. Chúa mời gọi chúng ta sống với lòng can đảm và rộng lượng lớn hơn, để đón nhận những người tị nạn trong cộng đoàn, nhà ở và các tu viện bỏ hoang. Điều này tất nhiên không phải là một điều gì đó đơn giản; nó đòi hỏi một tiêu chuẩn và trách nhiệm, nhưng cả lòng can đảm nữa. Chúng ta làm rất nhiều, nhưng có lẽ chúng ta được kêu gọi để làm nhiều hơn nữa, chấp nhận và chia sẻ với những người mà Chúa Quan Phòng đã gởi đến cho chúng ta phục vụ cụ thể”. (Ngày 10 tháng 9 2013)
Cuối cùng, Cha Lombardi giải thích rằng “hai giáo xứ” Đức Giáo Hoàng đề cập đến bên trong Vatican là giáo xứ của Santa Anna và Đền Thờ Thánh Phêrô. Cha nói rằng hai giáo xứ này là những thực tại vô cùng khác nhau và mỗi giáo xứ sẽ tìm cách riêng của mình để đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng.
Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô chỉ trích thái độ của Tòa Thượng Phụ Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa
Đặng Tự Do
23:39 06/09/2015
Đức Thượng Phụ Chính Thống Giáo Bácthôlômêô của thành Constantinople, cũng là Giáo Chủ danh dự chung của toàn Chính Thống Giáo đã nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ đại kết với Rôma, và chỉ trích sự chống đối của Giáo Hội Chính Thống Nga, trong một diễn từ hôm 29 tháng Tám khi 140 Giám Mục Chính Thống Giáo trên thế giới nhóm tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ để chuẩn bị cho Công đồng Liên Chính Thống giáo khai mạc vào lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống năm tới, 2016.
Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của công cuộc đại kết, và tái khẳng định vai trò của ngài liên quan đến việc “bảo vệ sự thống nhất của toàn thể Giáo Hội Chính Thống.” Ngài nói những ai chống lại sự hiệp nhất Kitô Giáo tượng trưng cho một “xung động của ma quỷ”.
Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô nhấn mạnh rằng liên lạc tiếp tục của ngài với Tòa Thánh là một thành phần quan trọng của công cuộc đại kết.
Ngài bày tỏ nhiệt tình của mình trước viễn ảnh của Công đồng Chính thống trên toàn thế giới, nhưng thừa nhận rằng ngài chưa được hài lòng hoàn toàn vì Công đồng Chính thống này khó có thể coi là một Công đồng đại kết “vì các Kitô hữu Tây phương không được mời tham gia.”
Công đồng toàn Chính Thống giáo đã được đề nghị từ năm 1961, nhưng cho đến nay chưa tiến hành được. Vì nhiều tranh luận không được giải quyết, nên có nhiều người nghi ngờ không biết Công đồng dự kiến vào năm tới có thể tiến hành được không. Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô rất muốn mời Tòa Thánh đến dự Công đồng này nhưng e sợ các chống đối có thể khiến Công đồng không thể tiến hành được.
Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô đã thường xuyên tranh cãi trong những năm gần đây với các nhà lãnh đạo của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa. Một đoạn trong diễn từ của ngài rõ ràng là nhằm chỉ trích các lãnh đạo Chính thống Nga khi ngài phê phán rằng trong Giáo Hội Chính Thống có các thể chế “duy trì một mối quan hệ mật thiết với nhà nước nhằm tận hưởng những hỗ trợ tài chính dồi dào,” và thúc đẩy các lợi ích chính trị của quốc gia mình.
Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của công cuộc đại kết, và tái khẳng định vai trò của ngài liên quan đến việc “bảo vệ sự thống nhất của toàn thể Giáo Hội Chính Thống.” Ngài nói những ai chống lại sự hiệp nhất Kitô Giáo tượng trưng cho một “xung động của ma quỷ”.
Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô nhấn mạnh rằng liên lạc tiếp tục của ngài với Tòa Thánh là một thành phần quan trọng của công cuộc đại kết.
Ngài bày tỏ nhiệt tình của mình trước viễn ảnh của Công đồng Chính thống trên toàn thế giới, nhưng thừa nhận rằng ngài chưa được hài lòng hoàn toàn vì Công đồng Chính thống này khó có thể coi là một Công đồng đại kết “vì các Kitô hữu Tây phương không được mời tham gia.”
Công đồng toàn Chính Thống giáo đã được đề nghị từ năm 1961, nhưng cho đến nay chưa tiến hành được. Vì nhiều tranh luận không được giải quyết, nên có nhiều người nghi ngờ không biết Công đồng dự kiến vào năm tới có thể tiến hành được không. Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô rất muốn mời Tòa Thánh đến dự Công đồng này nhưng e sợ các chống đối có thể khiến Công đồng không thể tiến hành được.
Đức Thượng Phụ Bácthôlômêô đã thường xuyên tranh cãi trong những năm gần đây với các nhà lãnh đạo của Tòa Thượng Phụ Mạc Tư Khoa. Một đoạn trong diễn từ của ngài rõ ràng là nhằm chỉ trích các lãnh đạo Chính thống Nga khi ngài phê phán rằng trong Giáo Hội Chính Thống có các thể chế “duy trì một mối quan hệ mật thiết với nhà nước nhằm tận hưởng những hỗ trợ tài chính dồi dào,” và thúc đẩy các lợi ích chính trị của quốc gia mình.
Đức Hồng Y Müller: Quan điểm của một số nhà lãnh đạo Công Giáo Đức có nguy cơ gây chia rẽ trong Giáo Hội
Đặng Tự Do
23:49 06/09/2015
Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đã cảnh báo chống lại một sự chia rẽ trầm trọng trong Giáo Hội trước những vấn đề liên quan đến hôn nhân và tính dục của con người.
Phát biểu tại Regensburg, Đức Hồng Y Gerhard Müller cho biết rằng đường lối của các nhà lãnh đạo Giáo Hội tại quê hương Đức của ngài muốn có một vai trò lãnh đạo trong việc xác định chính sách đối với Giáo Hội phổ quát nên được phê phán một cách nghiêm túc, trước thực tại là làn sóng bỏ đạo ồ ạt trong Giáo Hội Công Giáo Đức.
Đức Hồng Y Müller nói rằng Giáo Hội không thể chấp nhận xu hướng tục hóa thể hiện rõ nhất ở Tây Âu, bởi vì dù xu hướng đó có mạnh mẽ đến đâu nó cũng không phải là một “quá trình tự nhiên không thể tránh khỏi.” Theo Đức Hồng Y, nhiệt tình loan báo Tin Mừng có thể chống lại xu hướng đó. Ngài nói: “Với niềm tin bạn có thể di chuyển núi non.”
Phát biểu tại Regensburg, Đức Hồng Y Gerhard Müller cho biết rằng đường lối của các nhà lãnh đạo Giáo Hội tại quê hương Đức của ngài muốn có một vai trò lãnh đạo trong việc xác định chính sách đối với Giáo Hội phổ quát nên được phê phán một cách nghiêm túc, trước thực tại là làn sóng bỏ đạo ồ ạt trong Giáo Hội Công Giáo Đức.
Đức Hồng Y Müller nói rằng Giáo Hội không thể chấp nhận xu hướng tục hóa thể hiện rõ nhất ở Tây Âu, bởi vì dù xu hướng đó có mạnh mẽ đến đâu nó cũng không phải là một “quá trình tự nhiên không thể tránh khỏi.” Theo Đức Hồng Y, nhiệt tình loan báo Tin Mừng có thể chống lại xu hướng đó. Ngài nói: “Với niềm tin bạn có thể di chuyển núi non.”
Tin Giáo Hội Việt Nam
Gp. Thái Bình: Giới Gia trưởng và Hiền mẫu miền Hưng Yên mừng Năm Thánh Giáo phận
BTT GP Thái Bình
09:15 06/09/2015
Gp. Thái Bình: Giới Gia trưởng và Hiền mẫu miền Hưng Yên mừng Năm Thánh Giáo phận
Chúa Nhật ngày 06.9.2015, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám mục Giáo phận Thái Bình - đã sắp xếp cho giới Gia trưởng và Hiền mẫu miền Hưng Yên tổ chức ngày mừng Năm Thánh kỷ niêm 80 năm thành lập Giáo phận Thái Bình tại Nhà thờ Giáo xứ Đan Chàng, thuộc Giáo hạt Đông Hưng Yên.
Xem Hình
Hôm nay, bầu khí tại khuôn viên Thánh đường Giáo xứ Đan Chàng trở nên tưng bừng nhộn nhịp lạ thường. Hồi 6g50, khi phái đoàn của Đức Cha còn cách Nhà thờ Đan Chàng khoảng 800m, chúng tôi đã thấy nào là Hội trống, nào là Ban kèn nữ mới được thành lập cũng như các em Thiếu nhi Thánh Thể và Tình nguyện viên của giáo xứ đã xếp thành hai hàng dài để chào đón vị Chủ chăn Giáo phận.
Bên cạnh đó, trong khoảng thời gian từ 7g00 đến 7g30, các Ban kèn cũng như từng đoàn Gia trưởng và Hiền mẫu từ các giáo xứ trong hai giáo hạt Đông Hưng Yên và Tây Hưng Yên lũ lượt tuôn đổ về Đan Chàng để cùng hiệp thông trong ngày đại lễ.
Hồi 7g30, mở đầu cho chương trình ngày hội, cha Giuse Đinh Xuân Ngọc – Chánh xứ Đan Chàng – vui mừng chào đón các thành phần hiện diện. Niềm vui mừng ấy được thể hiện qua lời nói rất chân thành của cha với Bề trên Giáo phận: “Từ khi con nhận Đan Chàng xứ tới nay đã gần một năm, ngôi nhà thờ này chưa có bao giờ ngồi hết ghế. Vậy mà nay không đủ chỗ ngồi cho Giới Gia trưởng và Hiền Mẫu, anh chị em phải ngồi cả phía ngoài sân. Con cảm thấy rất vui mừng vì sự nhiệt tình của các tham dự viên; đồng thời đây cũng là niềm vinh dự cho cộng đoàn Giáo xứ Đan Chàng chúng con được đăng cai ngày hội này”.
Tiếp đến, Cha Đaminh Đặng Văn Cầu – Đại diện Đức Giám Mục miền Hưng Yên – đã nói lên ý nghĩa của ngày Giới Gia trưởng và Hiền mẫu mừng lễ hôm nay. Liền sau đó là phần thuyết trình đề tài và thảo luận, do Đức Cha chủ sự, với đề tài thứ I “Vai trò và trách nhiệm chính yếu của cha mẹ về tình trạng gia đình hiện nay”, và đề tài thứ II “Những nguyên nhân và lý do khiến có những gia đình bị đổ vỡ”. Thời gian thuyết trình và thảo luận của mỗi đề tài kéo dài một giờ đồng hồ.
Từ sự khéo léo và nhạy bén của mình, Đức Cha Phêrô Nguyễn văn Đệ đã nói về bổn phận làm chồng, làm vợ và làm cha mẹ trong mỗi gia đình như là những người giữ vai trò số một trong mọi tổ chức. Khi đề cập đến những vấn đề mang tính thiết thực và rất chi tiết liên quan đến đời sống gia đình, Đức Cha làm cho các tham dự viên phải ngỡ ngàng và cảm phục về sự hiểu biết uyên thâm của vị Chủ chăn. Đồng thời, ngài cũng nêu lên nhiều nguyên nhân và lý do dẫn đến việc bất hòa hợp cũng như sự đổ vỡ nơi các gia đình. Từ đó, ngài đưa ra những phương hướng giải quyết những khó khăn nhằm giúp các đôi vợ chồng có thể giữ được sự chung thủy và hạnh phúc trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Sau khi thuyết trình đề tài, Đức Cha đã dành thời gian để các tham dự viên đóng góp ý kiến cũng như nêu lên những thắc mắc của mình liên quan đến vấn đề đời sống hôn nhân và gia đình. Lẽ ra kết thúc đề tài thứ I sẽ là thời gian giải lao khoảng 15 phút rồi mới tiếp tục đề tài thứ II; nhưng vì giờ thuyết trình và thảo luận được diễn ra khá hấp dẫn và sôi nổi, các tham dự viên muốn chanh thủ tận dụng nhiều thời gian cho phần này, nên đã ý kiến xin không giải lao nữa.
Bên cạnh đó, trong suốt buổi sáng nay, xung quanh sân Nhà thờ có các cha ngồi tòa giải tội, hầu giúp mọi người đến với Bí tích Hòa giải để có thể lãnh nhận Ơn Toàn Xá trong dịp trọng đại này.
Đỉnh cao của ngày Hội là thánh lễ được cử hành vào lúc 10g30, do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ tế. Đồng tế với ngài, có quý cha thuộc hai giáo hạt tại miền Hưng Yên.
Ngỏ lời đầu lễ, Đức Cha nói: “Kính thưa anh chị em, hôm nay là ngày dành riêng cho những người làm chủ trong gia đình. Chúng ta dâng các gia đình, cách riêng là những bậc cha mẹ cho Chúa và gia đình Thánh Gia của Người. Đồng thời, chúng ta cầu nguyện cho một số gia đình nào không may đang gặp phải cảnh bất hòa, đang đứng bên bờ vực thẳm của sự tan vỡ được trở nên hòa thuận và gắn kết bởi sự tha thứ và yêu thương trong tình yêu của Chúa”.
Chia sẻ trong thánh lễ, Đức Cha đã nói lên ý nghĩa chung của mọi gia đình và cách riêng là các gia đình Công Giáo. Ngài cho thấy, gia đình là một đơn vị mang tính xã hội đầu tiên và là nền tảng nòng cốt cho tất cả mọi tổ chức khác. Hơn nữa, gia đình là quà tặng tình yêu và hạnh phúc, là thiên đàng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại ngay trên trần gian.
Bên cạnh đó, Đức Cha còn ví gia đình được Thiên Chúa tặng ban cho con người như trao cho con người một chiếc chìa khóa. Nếu con người biết sử dụng thì sẽ mở được kho báu hạnh phúc, trong yêu thương, cảm thông, quảng đại và tha thứ; ngược lại nếu ta không biết sử dụng thì chìa khóa ấy dẫn ta đến nơi đầy sự đau khổ của bất hòa và chia rẽ.
Sau lời nguyện hiệp lễ, cha Đaminh Đặng Văn Cầu – Trưởng Ban tổ chức – bày tỏ tâm tình cám ơn Đức Cha, quý cha và mọi người. Thánh lễ được khép lại với phép lành trọng thể: Đức Cha nhân danh Đức Thánh Cha Phanxicô ban phép lành với Ơn Toàn Xá cho cộng đoàn nhân dịp trọng đại này.
Sau tháh lễ, các em thiếu nhi tiến lên nhận những phần quà từ tay Đức Cha. Các bậc Gia trưởng và Hiền mẫu cũng nhận những phần ăn trưa của Ban tổ chức trước khi chia tay nhau ra về.
Chúa Nhật ngày 06.9.2015, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ - Giám mục Giáo phận Thái Bình - đã sắp xếp cho giới Gia trưởng và Hiền mẫu miền Hưng Yên tổ chức ngày mừng Năm Thánh kỷ niêm 80 năm thành lập Giáo phận Thái Bình tại Nhà thờ Giáo xứ Đan Chàng, thuộc Giáo hạt Đông Hưng Yên.
Xem Hình
Hôm nay, bầu khí tại khuôn viên Thánh đường Giáo xứ Đan Chàng trở nên tưng bừng nhộn nhịp lạ thường. Hồi 6g50, khi phái đoàn của Đức Cha còn cách Nhà thờ Đan Chàng khoảng 800m, chúng tôi đã thấy nào là Hội trống, nào là Ban kèn nữ mới được thành lập cũng như các em Thiếu nhi Thánh Thể và Tình nguyện viên của giáo xứ đã xếp thành hai hàng dài để chào đón vị Chủ chăn Giáo phận.
Bên cạnh đó, trong khoảng thời gian từ 7g00 đến 7g30, các Ban kèn cũng như từng đoàn Gia trưởng và Hiền mẫu từ các giáo xứ trong hai giáo hạt Đông Hưng Yên và Tây Hưng Yên lũ lượt tuôn đổ về Đan Chàng để cùng hiệp thông trong ngày đại lễ.
Hồi 7g30, mở đầu cho chương trình ngày hội, cha Giuse Đinh Xuân Ngọc – Chánh xứ Đan Chàng – vui mừng chào đón các thành phần hiện diện. Niềm vui mừng ấy được thể hiện qua lời nói rất chân thành của cha với Bề trên Giáo phận: “Từ khi con nhận Đan Chàng xứ tới nay đã gần một năm, ngôi nhà thờ này chưa có bao giờ ngồi hết ghế. Vậy mà nay không đủ chỗ ngồi cho Giới Gia trưởng và Hiền Mẫu, anh chị em phải ngồi cả phía ngoài sân. Con cảm thấy rất vui mừng vì sự nhiệt tình của các tham dự viên; đồng thời đây cũng là niềm vinh dự cho cộng đoàn Giáo xứ Đan Chàng chúng con được đăng cai ngày hội này”.
Tiếp đến, Cha Đaminh Đặng Văn Cầu – Đại diện Đức Giám Mục miền Hưng Yên – đã nói lên ý nghĩa của ngày Giới Gia trưởng và Hiền mẫu mừng lễ hôm nay. Liền sau đó là phần thuyết trình đề tài và thảo luận, do Đức Cha chủ sự, với đề tài thứ I “Vai trò và trách nhiệm chính yếu của cha mẹ về tình trạng gia đình hiện nay”, và đề tài thứ II “Những nguyên nhân và lý do khiến có những gia đình bị đổ vỡ”. Thời gian thuyết trình và thảo luận của mỗi đề tài kéo dài một giờ đồng hồ.
Từ sự khéo léo và nhạy bén của mình, Đức Cha Phêrô Nguyễn văn Đệ đã nói về bổn phận làm chồng, làm vợ và làm cha mẹ trong mỗi gia đình như là những người giữ vai trò số một trong mọi tổ chức. Khi đề cập đến những vấn đề mang tính thiết thực và rất chi tiết liên quan đến đời sống gia đình, Đức Cha làm cho các tham dự viên phải ngỡ ngàng và cảm phục về sự hiểu biết uyên thâm của vị Chủ chăn. Đồng thời, ngài cũng nêu lên nhiều nguyên nhân và lý do dẫn đến việc bất hòa hợp cũng như sự đổ vỡ nơi các gia đình. Từ đó, ngài đưa ra những phương hướng giải quyết những khó khăn nhằm giúp các đôi vợ chồng có thể giữ được sự chung thủy và hạnh phúc trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Sau khi thuyết trình đề tài, Đức Cha đã dành thời gian để các tham dự viên đóng góp ý kiến cũng như nêu lên những thắc mắc của mình liên quan đến vấn đề đời sống hôn nhân và gia đình. Lẽ ra kết thúc đề tài thứ I sẽ là thời gian giải lao khoảng 15 phút rồi mới tiếp tục đề tài thứ II; nhưng vì giờ thuyết trình và thảo luận được diễn ra khá hấp dẫn và sôi nổi, các tham dự viên muốn chanh thủ tận dụng nhiều thời gian cho phần này, nên đã ý kiến xin không giải lao nữa.
Bên cạnh đó, trong suốt buổi sáng nay, xung quanh sân Nhà thờ có các cha ngồi tòa giải tội, hầu giúp mọi người đến với Bí tích Hòa giải để có thể lãnh nhận Ơn Toàn Xá trong dịp trọng đại này.
Đỉnh cao của ngày Hội là thánh lễ được cử hành vào lúc 10g30, do Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ chủ tế. Đồng tế với ngài, có quý cha thuộc hai giáo hạt tại miền Hưng Yên.
Ngỏ lời đầu lễ, Đức Cha nói: “Kính thưa anh chị em, hôm nay là ngày dành riêng cho những người làm chủ trong gia đình. Chúng ta dâng các gia đình, cách riêng là những bậc cha mẹ cho Chúa và gia đình Thánh Gia của Người. Đồng thời, chúng ta cầu nguyện cho một số gia đình nào không may đang gặp phải cảnh bất hòa, đang đứng bên bờ vực thẳm của sự tan vỡ được trở nên hòa thuận và gắn kết bởi sự tha thứ và yêu thương trong tình yêu của Chúa”.
Chia sẻ trong thánh lễ, Đức Cha đã nói lên ý nghĩa chung của mọi gia đình và cách riêng là các gia đình Công Giáo. Ngài cho thấy, gia đình là một đơn vị mang tính xã hội đầu tiên và là nền tảng nòng cốt cho tất cả mọi tổ chức khác. Hơn nữa, gia đình là quà tặng tình yêu và hạnh phúc, là thiên đàng mà Thiên Chúa đã tặng ban cho nhân loại ngay trên trần gian.
Bên cạnh đó, Đức Cha còn ví gia đình được Thiên Chúa tặng ban cho con người như trao cho con người một chiếc chìa khóa. Nếu con người biết sử dụng thì sẽ mở được kho báu hạnh phúc, trong yêu thương, cảm thông, quảng đại và tha thứ; ngược lại nếu ta không biết sử dụng thì chìa khóa ấy dẫn ta đến nơi đầy sự đau khổ của bất hòa và chia rẽ.
Sau lời nguyện hiệp lễ, cha Đaminh Đặng Văn Cầu – Trưởng Ban tổ chức – bày tỏ tâm tình cám ơn Đức Cha, quý cha và mọi người. Thánh lễ được khép lại với phép lành trọng thể: Đức Cha nhân danh Đức Thánh Cha Phanxicô ban phép lành với Ơn Toàn Xá cho cộng đoàn nhân dịp trọng đại này.
Sau tháh lễ, các em thiếu nhi tiến lên nhận những phần quà từ tay Đức Cha. Các bậc Gia trưởng và Hiền mẫu cũng nhận những phần ăn trưa của Ban tổ chức trước khi chia tay nhau ra về.
Giáo xứ Phú Bình, Sàigòn khai giảng năm học giáo lý
Martino Lê Hoàng Vũ
09:28 06/09/2015
Thiếu nhi Giáo xứ Phú Bình: Học theo Chúa Giêsu
Sáng nay,Chúa nhật ngày 6.9.2015,Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo xứ Phú Bình, sau 3 tháng nghỉ hè đã chính thức khai giảng năm học Giáo lý 2015-2016, với chủ đề: Học theo Chúa Giêsu- Rao giảng Tin Mừng.
Xem Hình
Vào lúc 6 giờ 30 sáng,các em thiếu nhi đã tập trung ở cuối nhà thờ. Trước tiên là Nghi thức chào cờ của đoàn thiếu nhi Thánh Thể.Hiện diện trong buổi chào cờ đầu năm học mới có cha chánh xứ Phú Bình Giuse Nguyễn Văn Niệm,quý ông trong HĐMV Giáo xứ, quý Soeur Trợ úy và các anh chị Huynh Trưởng.Trong câu chuyện dưới cờ,cha chánh xứ chia sẻ về niềm phấn khởi hồ hởi của các em, khi năm học mới được bắt đầu.Ngày khai giảng chan chứa niềm vui,đọng lại trong tâm hồn tuổi thơ các em biết bao tâm tình lưu luyến nhớ thương.Các em tiếp tục được học với Chúa Giêsu trong thời tuổi trẻ, khỏe mạnh,năng động.Vì sức trẻ,các em muốn tự do bay nhảy,nhưng cần phải nhờ vào Chúa Giêsu hướng dẫn, chúng ta mới sống cho những điều tốt đẹp.Cha đã dùng hình ảnh con voi và sơi dây buộc voi để minh họa tuổi trẻ: tuổi trẻ của các em khỏe mạnh như voi, nhưng cần phải có sợi dây giữ voi, giữ chặt các em,đó là chính Chúa Giêsu.Ngài sẽ giúp chúng ta tránh xa những điều xấu, để chúng ta sống tự do thục sự của con cái Chúa, ngoan ngoãn và vâng lời cha mẹ.
Sau đó,cha chánh xứ đánh hồi trống khai giảng năm học và mở tấm bảng công bố chủ đề năm học.Trong lúc đó,những trái bong bóng theo màu sắc của các ngành được thả bay lên bầu trời.Sau nghi thức chào cờ khai giảng năm học mới,đoàn thiếu nhi tiến vào trong nhà thờ hiệp dâng thánh lễ tạ ơn nhân dịp năm học Giáo lý mới.
Trước thánh lễ, cha chánh xứ và cũng là cha Tuyên úy Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Thánh Têrêsa HĐ Giêsu Phú Bình chủ sự nghi thức thăng cấp cho các ngành Ấu – Thiếu – Nghĩa và Hiệp Sĩ.Cha Tuyên Úy làm phép khăn và trao khăn cho các anh chị Nghành Trưởng,các anh chị trao khăn lại cho các em.Các em mang khăn quàng theo màu của ngành mình,với hình thập giá Chúa Kitô và khẩu hiệu của ngành.
Ý nghĩa của các màu khăn như sau:
- Khăn quàng của ngành Ấu Nhi màu xanh lá non, màu của mầm non chớm nở.Các em cần được giáo dục, hướng dẫn để sống tinh thần Ấu Nhi của Chúa Giêsu: vâng lời bề trên, ngoan ngoãn, dễ dạy và đơn sơ.
- Khăn quàng của ngành Thiếu Nhi màu xanh nước biển, màu của hy sinh, chịu đựng,khuất phục gian khó một cách anh hùng bất khuất, nhắc nhở các em bất chấp những khó khăn trong cuộc sống để tiến theo Chúa Kitô.
- Khăn quàng của ngành Nghĩa Sĩ màu vàng, tượng trưng cho sự khuất phục trong niềm tin yêu chói ngời.Với sự tự tin đó, các em hăng say dấn thân chinh phục.Chinh phục những tính xấu của chính mình để rèn mình thành chiến sĩ của Chúa Kitô.Chinh phục được niềm tin, yêu, tín nhiệm của những người chung quanh và chinh phục cho Chúa các linh hồn.
-Khăn quàng ngành Hiệp Sĩ màu nâu đất tượng trưng cho màu đất nơi mà dòng máu đức tin của các Thánh Tử Đạo đã đổ ra và chảy vào lòng đất mẹ,để nói lên lòng trung thành với đất nước và tình yêu đối với Thiên Chúa.Xứng đáng với tuổi hiệp sĩ hào hùng.
Kết thúc nghi thức trao khăn,thánh lễ diễn ra theo Phụng vụ Chúa Nhật 23 Thường Niên.Đặc biệt trong thánh lễ hôm nay,còn có Nghi thức lập lại lời tuyên hứa cho các anh chị Huynh Trưởng.
Martinô Lê Hoàng Vũ
Sáng nay,Chúa nhật ngày 6.9.2015,Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Giáo xứ Phú Bình, sau 3 tháng nghỉ hè đã chính thức khai giảng năm học Giáo lý 2015-2016, với chủ đề: Học theo Chúa Giêsu- Rao giảng Tin Mừng.
Xem Hình
Vào lúc 6 giờ 30 sáng,các em thiếu nhi đã tập trung ở cuối nhà thờ. Trước tiên là Nghi thức chào cờ của đoàn thiếu nhi Thánh Thể.Hiện diện trong buổi chào cờ đầu năm học mới có cha chánh xứ Phú Bình Giuse Nguyễn Văn Niệm,quý ông trong HĐMV Giáo xứ, quý Soeur Trợ úy và các anh chị Huynh Trưởng.Trong câu chuyện dưới cờ,cha chánh xứ chia sẻ về niềm phấn khởi hồ hởi của các em, khi năm học mới được bắt đầu.Ngày khai giảng chan chứa niềm vui,đọng lại trong tâm hồn tuổi thơ các em biết bao tâm tình lưu luyến nhớ thương.Các em tiếp tục được học với Chúa Giêsu trong thời tuổi trẻ, khỏe mạnh,năng động.Vì sức trẻ,các em muốn tự do bay nhảy,nhưng cần phải nhờ vào Chúa Giêsu hướng dẫn, chúng ta mới sống cho những điều tốt đẹp.Cha đã dùng hình ảnh con voi và sơi dây buộc voi để minh họa tuổi trẻ: tuổi trẻ của các em khỏe mạnh như voi, nhưng cần phải có sợi dây giữ voi, giữ chặt các em,đó là chính Chúa Giêsu.Ngài sẽ giúp chúng ta tránh xa những điều xấu, để chúng ta sống tự do thục sự của con cái Chúa, ngoan ngoãn và vâng lời cha mẹ.
Sau đó,cha chánh xứ đánh hồi trống khai giảng năm học và mở tấm bảng công bố chủ đề năm học.Trong lúc đó,những trái bong bóng theo màu sắc của các ngành được thả bay lên bầu trời.Sau nghi thức chào cờ khai giảng năm học mới,đoàn thiếu nhi tiến vào trong nhà thờ hiệp dâng thánh lễ tạ ơn nhân dịp năm học Giáo lý mới.
Trước thánh lễ, cha chánh xứ và cũng là cha Tuyên úy Xứ đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Thánh Têrêsa HĐ Giêsu Phú Bình chủ sự nghi thức thăng cấp cho các ngành Ấu – Thiếu – Nghĩa và Hiệp Sĩ.Cha Tuyên Úy làm phép khăn và trao khăn cho các anh chị Nghành Trưởng,các anh chị trao khăn lại cho các em.Các em mang khăn quàng theo màu của ngành mình,với hình thập giá Chúa Kitô và khẩu hiệu của ngành.
Ý nghĩa của các màu khăn như sau:
- Khăn quàng của ngành Ấu Nhi màu xanh lá non, màu của mầm non chớm nở.Các em cần được giáo dục, hướng dẫn để sống tinh thần Ấu Nhi của Chúa Giêsu: vâng lời bề trên, ngoan ngoãn, dễ dạy và đơn sơ.
- Khăn quàng của ngành Thiếu Nhi màu xanh nước biển, màu của hy sinh, chịu đựng,khuất phục gian khó một cách anh hùng bất khuất, nhắc nhở các em bất chấp những khó khăn trong cuộc sống để tiến theo Chúa Kitô.
- Khăn quàng của ngành Nghĩa Sĩ màu vàng, tượng trưng cho sự khuất phục trong niềm tin yêu chói ngời.Với sự tự tin đó, các em hăng say dấn thân chinh phục.Chinh phục những tính xấu của chính mình để rèn mình thành chiến sĩ của Chúa Kitô.Chinh phục được niềm tin, yêu, tín nhiệm của những người chung quanh và chinh phục cho Chúa các linh hồn.
-Khăn quàng ngành Hiệp Sĩ màu nâu đất tượng trưng cho màu đất nơi mà dòng máu đức tin của các Thánh Tử Đạo đã đổ ra và chảy vào lòng đất mẹ,để nói lên lòng trung thành với đất nước và tình yêu đối với Thiên Chúa.Xứng đáng với tuổi hiệp sĩ hào hùng.
Kết thúc nghi thức trao khăn,thánh lễ diễn ra theo Phụng vụ Chúa Nhật 23 Thường Niên.Đặc biệt trong thánh lễ hôm nay,còn có Nghi thức lập lại lời tuyên hứa cho các anh chị Huynh Trưởng.
Martinô Lê Hoàng Vũ
Thánh lễ tạ ơn kỷ niệm 60 năm Legio Mariae hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng
An Duy
18:34 06/09/2015
Thánh lễ tạ ơn kỷ niệm 60 năm Legio Mariae hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng
Vào lúc 10g00 sáng ngày thứ Bảy đầu tháng ngày 5 tháng 9 năm 2015, Hội đồng Comitium Đà Nẵng, đơn vị trong Hệ thống Legio Mariæ Việt Nam đã long trọng tổ chức thánh lễ tạ ơn mừng “Ngày Truyền Thống” kỷ niệm 67 năm Legio Mariæ hiện diện tại Việt Nam (1948-2015) và 60 năm Legio Mariæ hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng (1955 – 2/5 – 2015) tại Trung tâm Mục vụ giáo phận Đà Nẵng.
Xem Hình
Thánh lễ tạ ơn mừng “Ngày Truyền Thống” do Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục giáo phận Đà Nẵng chủ sự. Đồng tế với ngài có quý cha Linh giám và quý cha trong Tòa Giám Mục.
Trong thánh lễ còn có sự hiện diện của Anh Trưởng Hội đồng Senatus Việt Nam, quý Ban Quản trị Hội đồng Regia Huế, Đà Nẵng cùng hơn 700 ủy viên và hội viên Legio Mariæ từ 11 Hội đồng Curiæ Senior: Chính Tòa, Thanh Ngọc, An Ngãi, Trà Kiệu, Cồn Dầu, An Hải, Tam Kỳ, Thuận Yên, Tam Chính, Hội An, Hoằng Phước, 2 Curiæ Junior Chính Tòa và An Phú Hòa và 10 Præsidia trực thuộc và quý khách về tham dự.
60 năm Hồng ân hình thành và phát triển Legio Mariæ giáo phận Đà Nẵng
Mở đầu cho chương trình mừng Ngày Truyền Thống 60 năm Legio Mariæ hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng là bài huấn từ của cha Phaolô M. Trần Quốc Việt - Tổng Đại diện kiêm Linh giám Hội đồng Comitium Đà Nẵng. Cha nói: “… Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho Legio Mariæ giáo phận Đà Nẵng được 60 năm. Chúng ta tạ ơn Người ban cho chúng ta có đức tin vì chính đức tin làm cho chúng ta vui mừng. Trong sinh hoạt Legio Mariæ, chúng ta phải cảm nhận được niềm vui đó để chúng ta nghiệm thấy rằng chúng ta sống có ý nghĩa, và trong tinh thần Legio Mariæ, chúng ta dám biến mình trở thành những con người thánh vì đó là chủ đích của Legio Mariæ.
Mừng 60 năm chúng ta xác định lại vị trí của chúng ta trong Giáo Hội và xã hội, chúng ta phải cảm nhận được niềm vui vì chúng ta là hội viên Legio Mariæ. Chúng ta nhận biết Chúa, nhận biết và yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt và mời Đức Mẹ cùng đồng hành với chúng ta trên những bước đường làm chứng cho ơn cứu độ mà Chúa muốn trao gửi cho mọi người trên thế gian nay. Là hội viên Legio Mariæ, chúng ta không được phép để mất linh hồn, chúng ta là những người cộng tác làm những việc tông đồ cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội để cho mọi người được ơn cứu độ như lòng Chúa mong ước, cho Tin mừng được lan tỏa khắp muôn nơi..”
Tiếp theo là bài chia sẻ của cha Linh giám Giuse Phạm An Ninh mang chủ đề: “Dung Nhan Lòng Thương Xót”. Ngài đã khai triển Tông Thư Lòng Thương Xót (số 24 - Misericordiae Vultus) của Đức Giáo Hoàng Phanxicô ấn định Năm Thánh Ngoại thường về lòng thương xót của Chúa sẽ bắt đầu từ ngày 8/12 sắp tới và kết thúc vào ngày 20/11/2016. Hình ảnh Đức Mẹ Maria, “Mẹ Thương Xót”, cuộc sống của Mẹ được uốn nắn nhờ sự hiện diện của lòng thương xót nhập thể. Là hòm bia giao ước giữa Thiên Chúa và loài người, Mẹ Maria chứng thực rằng lòng thương xót của Con Thiên Chúa không có giới hạn và đi tới mỗi người không trừ một ai.
Thủ Bản nhắc nhở rằng ‘Præsidium đầu tiên mang tước hiệu “Đức Bà Từ Bi” chỉ vì công tác đầu tiên của Præsidium này là đi thăm viện dưỡng lão do các nữ tu Dòng Đức Bà Từ Bi điều khiển. Các hội viên Legio Mariæ cứ ngỡ rằng chính họ chọn tước hiệu “Đức Bà Từ Bi” cho riêng mình, nhưng có ai ngỡ rằng đó là chính tước hiệu mà Đức Mẹ Ma-ri-a dịu hiền tặng ban cho họ; để qua đó Đức Mẹ chỉ cho họ thấy từ bi, hiền lành, dịu dàng phải là đặc tính nổi bật, là linh hồn của Legio Mariæ vậy” (TB 39,466). Do đó, là chiến sĩ của Đức Mẹ các hội viên “Legio Mariæ được ủy thác công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, là trái tim đang đập của Tin Mừng, là điều phải tìm được cách thấm nhập trái tim và tâm trí của mỗi người. Hiền thê của Chúa Ki-tô phải rặp khuôn hành vi của mình như Con Thiên Chúa, Đấng đã vươn ra với mọi người không loại trừ ai… Để Hội Thánh và sứ mạng của Hội Thánh có được tính khả tín thì Hội Thánh phải sống và làm chứng về lòng thương xót. Ngôn ngữ và những cử chỉ của Hội Thánh phải chuyển tải lòng thương xót sao cho đụng chạm đến trái tim mọi người và truyền cảm hứng cho họ hơn nữa trong việc tìm ra con đường dẫn đến Đức Chúa Cha.”
Cuối cùng, ngài mời gọi mỗi người Legio Mariæ là những hoạt động tinh thần của lòng thương xót và cách đặc biệt là sự chọn lựa nền tảng nhất trong Tin Mừng, đó là cứu độ các linh hồn… Chúa Giê-su đến trần gian trước tiên và trên hết để cứu độ người tội lỗi. Một người có thể có mọi điều tốt và cần thiết khác trong cuộc sống, nhưng nếu thiếu mất một điều tối quan trọng nhất là linh hồn thì đó sẽ là thảm kịch muôn đời.
Thánh lễ tạ ơn
Thánh lễ bắt đầu với bài ca nhập lễ ‘Kìa Bà Nào’. Trong tâm tình cảm tạ tri ân, Chị Maria Têrêsa Nguyễn Thị Phát, Trưởng Hội đồng Comitium Đà Nẵng đã có lời chào mừng đến Đức cha, quý cha Linh giám, quý ủy viên các cấp Hội đồng, quý khách cùng với tất cả quý anh chị hội viên Legio Mariæ hiện diện trong thánh lễ.
Phần mở đầu, Chị Maria Têrêsa giới thiệu đôi nét về lịch sử và buổi đầu hình thành và phát triển của Legio Mariæ trên thế giới và tại Việt Nam, cách đặc biệt tại giáo phận Đà Nẵng.
Năm 1955, Præsidium tiên khởi mang thánh hiệu “Nữ Vương Hòa Bình” (trực thuộc Curia Huế) gồm 12 hội viên thuộc giáo xứ Đà Nẵng được thành lập do Cha Sở Albert Raymond và Vị Linh giám đầu tiên là cha phụ tá Bênađô Phan Văn Hoàng. Các ngài đã đem hạt giống Legio Mariæ gieo vãi trên cánh đồng truyền giáo của giáo phận và đã thu gặt được nhiều kết quả tốt đẹp.
Ngày 28/2/1999 Hội đồng Curia Đà Nẵng được nâng lên hàng Hội đồng Comitium Đà Nẵng - Hội đồng cấp giáo phận trong Hệ thống Legio Mariæ.
Trải qua 60 năm Legio Mariæ đã hiện diện trên vùng đất cát trắng, biển xanh này với biết bao thăng trầm, có những thời kỳ thử thách âm thầm lui vào bóng tối, có nhiều nơi, nhiều giáo xứ trong một thời gian dài Legio Mariæ đã không còn sinh hoạt nữa hoặc chuyển thành những tên gọi khác như nhóm cầu nguyện, hội Con Đức Mẹ… Tuy nhiên, nhờ vào ơn Chúa và sự che chở của Đức Mẹ Maria, Legio Mariæ miền Đà Nẵng mỗi ngày một phát triển và lớn mạnh về phẩm cũng như về lượng (45/50 giáo xứ). Tính đến năm 2013, địa giới giáo phận Đà Nẵng rộng 11.664 km², gồm thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, có khoảng 67.577 giáo dân (chiếm khoảng 2,8% dân số vùng), 74 linh mục và 50 giáo xứ.
Hiện nay, Hội đồng Comitium Đà Nẵng có 11 Curiæ Senior, 2 Curiæ Junior, 106 Præsidia Senior, 24 Præsidia Junior, 1.274 hội viên hoạt động, trong đó có 198 Nghĩa sĩ, 1.246 hội viên tán trợ, 48 Bảo trợ Tu sĩ, 581 Bảo trợ Giáo dân, 230 hội viên Junior (Theo báo cáo phúc trình định kỳ tháng 10/2014).
Ngày 16 tháng 8 năm 2002, Ban Quản trị Hội đồng Senatus Việt Nam đã quyết định nâng cấp Hội đồng Comitium Huế để thành lập Tân Hội đồng Regia Huế và các Hội đồng Comitium Đà Nẵng là đơn vị trực thuộc.
Trong bài giảng thánh lễ Đức cha Giu-se chia sẻ: Anh chị em rất thân mến, chúng ta yêu mến Đức Mẹ Ma-ri-a, chúng ta gắn bó với Mẹ, và chúng ta là những thành viên của Đạo Binh Đức Mẹ. Chúng ta chẳng những học hỏi những gương lành của Đức Mẹ, mà còn với tư cách là người chiến sĩ của Mẹ, chúng ta phải chấp hành mệnh lệnh của Đức Mẹ. Người là Trinh Nữ cầu nguyện, là Trinh Nữ lắng nghe Lời Chúa, là Trinh Nữ luôn luôn đem Chúa đến cho mọi người. Noi gương bắt chước Đức Mẹ là Nữ Vương Legio Mariæ trong mọi hoạt động, ước gì mỗi hội viên Legio Mariæ hãy làm cho Đức Mẹ Ma-ri-a chẳng những lớn lên trong lòng mình mà còn làm cho Đức Mẹ Ma-ri-a ngày càng lớn lên trong lòng Hội Thánh, trong gia đình và trong lòng xã hội thân yêu của chúng ta nữa..
Cuối thánh lễ, Chị Trưởng Chị Maria Têrêsa đã ngỏ lời cảm ơn đến Đức Giám mục giáo phận, quý cha Linh giám, quý tu sĩ nam nữ, quý khách và toàn thể quý anh chị Legio Mariæ xa gần đã về hiệp dâng thánh lễ tạ ơn. “Mọi người đã dành cho Legio Mariæ những yêu thương này thì xin cho mọi sự đã khởi đầu trong yêu thương thì cũng được kết thúc trong yêu thương”. Sau đó, Đức Cha chủ tế đã long trọng ban phép lành cho các hội viên.
Sau Thánh lễ, niềm vui đánh dấu mừng kỷ niệm 67 năm Legio Mariæ hiện diện tại Việt Nam (1948-2015) và 60 năm Legio Mariæ hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng (1955 – 2/5 – 2015) được tiếp diễn trong bữa cơm thanh đạm thân mật tại Hội trường Trung tâm Mục vụ giáo phận.
Trong chương trình 60 năm Hồng ân hình thành và phát triển Legio Mariæ giáo phận Đà Nẵng, vào ban chiều lúc 14g00 sau bản kinh Catena là đề tài: “Đặc tính công tác của Legio Mariæ” được tiếp nối do anh anh Đaminh M. Đỗ Ngọc Phác - Trưởng Hội đồng Senatus Việt Nam trình bày, đã giúp mọi người phấn khởi và nắm bắt thêm nhiều kiến thức về công tác của Legio Mariæ. Anh nói: “hội viên Legio Mariæ được mời gọi nên thánh bằng con được cầu nguyện và hoạt động tông đồ. Muốn cầu nguyện được sốt sắng, muốn công tác tông đồ có hiệu quả cao phải có lòng tôn sùng Đức Mẹ cách đặc biệt (x. TB 33, 332). Làm bất cứ công tác gì đều thực hiện hết khả năng với lòng yêu mến”. Anh cũng nêu bật việc đi công tác hai người và không viện trợ vật chất.. (x. TB 39, 486).
Đề tài được kết thúc với giờ Chầu Thánh Thể do cha Linh giám Phaolô Maria chủ sự.
Trong bối cảnh bức thiết của việc truyền giáo hiện nay, Legio Mariæ có một vị trí và vai trò khá quan trọng bởi đây là một Hội đoàn Công Giáo Tiến hành năng động và đầy tinh thần đoàn kết yêu thương. Sự hăng say cầu nguyện cùng với những công tác tông đồ, thăm viếng đã trở nên những khí cụ để Legio Mariæ có thể đem Chúa đến cho mọi người. Nhờ Mẹ Maria và cùng với Mẹ, các hội viên của Legio Mariæ sẽ trở nên những chứng nhân tình yêu cho Tin Mừng được loan báo tới muôn dân./.
An Duy
Vào lúc 10g00 sáng ngày thứ Bảy đầu tháng ngày 5 tháng 9 năm 2015, Hội đồng Comitium Đà Nẵng, đơn vị trong Hệ thống Legio Mariæ Việt Nam đã long trọng tổ chức thánh lễ tạ ơn mừng “Ngày Truyền Thống” kỷ niệm 67 năm Legio Mariæ hiện diện tại Việt Nam (1948-2015) và 60 năm Legio Mariæ hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng (1955 – 2/5 – 2015) tại Trung tâm Mục vụ giáo phận Đà Nẵng.
Xem Hình
Thánh lễ tạ ơn mừng “Ngày Truyền Thống” do Đức Cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục giáo phận Đà Nẵng chủ sự. Đồng tế với ngài có quý cha Linh giám và quý cha trong Tòa Giám Mục.
Trong thánh lễ còn có sự hiện diện của Anh Trưởng Hội đồng Senatus Việt Nam, quý Ban Quản trị Hội đồng Regia Huế, Đà Nẵng cùng hơn 700 ủy viên và hội viên Legio Mariæ từ 11 Hội đồng Curiæ Senior: Chính Tòa, Thanh Ngọc, An Ngãi, Trà Kiệu, Cồn Dầu, An Hải, Tam Kỳ, Thuận Yên, Tam Chính, Hội An, Hoằng Phước, 2 Curiæ Junior Chính Tòa và An Phú Hòa và 10 Præsidia trực thuộc và quý khách về tham dự.
60 năm Hồng ân hình thành và phát triển Legio Mariæ giáo phận Đà Nẵng
Mở đầu cho chương trình mừng Ngày Truyền Thống 60 năm Legio Mariæ hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng là bài huấn từ của cha Phaolô M. Trần Quốc Việt - Tổng Đại diện kiêm Linh giám Hội đồng Comitium Đà Nẵng. Cha nói: “… Chúng ta hãy tạ ơn Chúa đã ban cho Legio Mariæ giáo phận Đà Nẵng được 60 năm. Chúng ta tạ ơn Người ban cho chúng ta có đức tin vì chính đức tin làm cho chúng ta vui mừng. Trong sinh hoạt Legio Mariæ, chúng ta phải cảm nhận được niềm vui đó để chúng ta nghiệm thấy rằng chúng ta sống có ý nghĩa, và trong tinh thần Legio Mariæ, chúng ta dám biến mình trở thành những con người thánh vì đó là chủ đích của Legio Mariæ.
Mừng 60 năm chúng ta xác định lại vị trí của chúng ta trong Giáo Hội và xã hội, chúng ta phải cảm nhận được niềm vui vì chúng ta là hội viên Legio Mariæ. Chúng ta nhận biết Chúa, nhận biết và yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt và mời Đức Mẹ cùng đồng hành với chúng ta trên những bước đường làm chứng cho ơn cứu độ mà Chúa muốn trao gửi cho mọi người trên thế gian nay. Là hội viên Legio Mariæ, chúng ta không được phép để mất linh hồn, chúng ta là những người cộng tác làm những việc tông đồ cho Thiên Chúa, cho Giáo Hội để cho mọi người được ơn cứu độ như lòng Chúa mong ước, cho Tin mừng được lan tỏa khắp muôn nơi..”
Tiếp theo là bài chia sẻ của cha Linh giám Giuse Phạm An Ninh mang chủ đề: “Dung Nhan Lòng Thương Xót”. Ngài đã khai triển Tông Thư Lòng Thương Xót (số 24 - Misericordiae Vultus) của Đức Giáo Hoàng Phanxicô ấn định Năm Thánh Ngoại thường về lòng thương xót của Chúa sẽ bắt đầu từ ngày 8/12 sắp tới và kết thúc vào ngày 20/11/2016. Hình ảnh Đức Mẹ Maria, “Mẹ Thương Xót”, cuộc sống của Mẹ được uốn nắn nhờ sự hiện diện của lòng thương xót nhập thể. Là hòm bia giao ước giữa Thiên Chúa và loài người, Mẹ Maria chứng thực rằng lòng thương xót của Con Thiên Chúa không có giới hạn và đi tới mỗi người không trừ một ai.
Thủ Bản nhắc nhở rằng ‘Præsidium đầu tiên mang tước hiệu “Đức Bà Từ Bi” chỉ vì công tác đầu tiên của Præsidium này là đi thăm viện dưỡng lão do các nữ tu Dòng Đức Bà Từ Bi điều khiển. Các hội viên Legio Mariæ cứ ngỡ rằng chính họ chọn tước hiệu “Đức Bà Từ Bi” cho riêng mình, nhưng có ai ngỡ rằng đó là chính tước hiệu mà Đức Mẹ Ma-ri-a dịu hiền tặng ban cho họ; để qua đó Đức Mẹ chỉ cho họ thấy từ bi, hiền lành, dịu dàng phải là đặc tính nổi bật, là linh hồn của Legio Mariæ vậy” (TB 39,466). Do đó, là chiến sĩ của Đức Mẹ các hội viên “Legio Mariæ được ủy thác công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, là trái tim đang đập của Tin Mừng, là điều phải tìm được cách thấm nhập trái tim và tâm trí của mỗi người. Hiền thê của Chúa Ki-tô phải rặp khuôn hành vi của mình như Con Thiên Chúa, Đấng đã vươn ra với mọi người không loại trừ ai… Để Hội Thánh và sứ mạng của Hội Thánh có được tính khả tín thì Hội Thánh phải sống và làm chứng về lòng thương xót. Ngôn ngữ và những cử chỉ của Hội Thánh phải chuyển tải lòng thương xót sao cho đụng chạm đến trái tim mọi người và truyền cảm hứng cho họ hơn nữa trong việc tìm ra con đường dẫn đến Đức Chúa Cha.”
Cuối cùng, ngài mời gọi mỗi người Legio Mariæ là những hoạt động tinh thần của lòng thương xót và cách đặc biệt là sự chọn lựa nền tảng nhất trong Tin Mừng, đó là cứu độ các linh hồn… Chúa Giê-su đến trần gian trước tiên và trên hết để cứu độ người tội lỗi. Một người có thể có mọi điều tốt và cần thiết khác trong cuộc sống, nhưng nếu thiếu mất một điều tối quan trọng nhất là linh hồn thì đó sẽ là thảm kịch muôn đời.
Thánh lễ tạ ơn
Thánh lễ bắt đầu với bài ca nhập lễ ‘Kìa Bà Nào’. Trong tâm tình cảm tạ tri ân, Chị Maria Têrêsa Nguyễn Thị Phát, Trưởng Hội đồng Comitium Đà Nẵng đã có lời chào mừng đến Đức cha, quý cha Linh giám, quý ủy viên các cấp Hội đồng, quý khách cùng với tất cả quý anh chị hội viên Legio Mariæ hiện diện trong thánh lễ.
Phần mở đầu, Chị Maria Têrêsa giới thiệu đôi nét về lịch sử và buổi đầu hình thành và phát triển của Legio Mariæ trên thế giới và tại Việt Nam, cách đặc biệt tại giáo phận Đà Nẵng.
Năm 1955, Præsidium tiên khởi mang thánh hiệu “Nữ Vương Hòa Bình” (trực thuộc Curia Huế) gồm 12 hội viên thuộc giáo xứ Đà Nẵng được thành lập do Cha Sở Albert Raymond và Vị Linh giám đầu tiên là cha phụ tá Bênađô Phan Văn Hoàng. Các ngài đã đem hạt giống Legio Mariæ gieo vãi trên cánh đồng truyền giáo của giáo phận và đã thu gặt được nhiều kết quả tốt đẹp.
Ngày 28/2/1999 Hội đồng Curia Đà Nẵng được nâng lên hàng Hội đồng Comitium Đà Nẵng - Hội đồng cấp giáo phận trong Hệ thống Legio Mariæ.
Trải qua 60 năm Legio Mariæ đã hiện diện trên vùng đất cát trắng, biển xanh này với biết bao thăng trầm, có những thời kỳ thử thách âm thầm lui vào bóng tối, có nhiều nơi, nhiều giáo xứ trong một thời gian dài Legio Mariæ đã không còn sinh hoạt nữa hoặc chuyển thành những tên gọi khác như nhóm cầu nguyện, hội Con Đức Mẹ… Tuy nhiên, nhờ vào ơn Chúa và sự che chở của Đức Mẹ Maria, Legio Mariæ miền Đà Nẵng mỗi ngày một phát triển và lớn mạnh về phẩm cũng như về lượng (45/50 giáo xứ). Tính đến năm 2013, địa giới giáo phận Đà Nẵng rộng 11.664 km², gồm thành phố Đà Nẵng, tỉnh Quảng Nam, có khoảng 67.577 giáo dân (chiếm khoảng 2,8% dân số vùng), 74 linh mục và 50 giáo xứ.
Hiện nay, Hội đồng Comitium Đà Nẵng có 11 Curiæ Senior, 2 Curiæ Junior, 106 Præsidia Senior, 24 Præsidia Junior, 1.274 hội viên hoạt động, trong đó có 198 Nghĩa sĩ, 1.246 hội viên tán trợ, 48 Bảo trợ Tu sĩ, 581 Bảo trợ Giáo dân, 230 hội viên Junior (Theo báo cáo phúc trình định kỳ tháng 10/2014).
Ngày 16 tháng 8 năm 2002, Ban Quản trị Hội đồng Senatus Việt Nam đã quyết định nâng cấp Hội đồng Comitium Huế để thành lập Tân Hội đồng Regia Huế và các Hội đồng Comitium Đà Nẵng là đơn vị trực thuộc.
Trong bài giảng thánh lễ Đức cha Giu-se chia sẻ: Anh chị em rất thân mến, chúng ta yêu mến Đức Mẹ Ma-ri-a, chúng ta gắn bó với Mẹ, và chúng ta là những thành viên của Đạo Binh Đức Mẹ. Chúng ta chẳng những học hỏi những gương lành của Đức Mẹ, mà còn với tư cách là người chiến sĩ của Mẹ, chúng ta phải chấp hành mệnh lệnh của Đức Mẹ. Người là Trinh Nữ cầu nguyện, là Trinh Nữ lắng nghe Lời Chúa, là Trinh Nữ luôn luôn đem Chúa đến cho mọi người. Noi gương bắt chước Đức Mẹ là Nữ Vương Legio Mariæ trong mọi hoạt động, ước gì mỗi hội viên Legio Mariæ hãy làm cho Đức Mẹ Ma-ri-a chẳng những lớn lên trong lòng mình mà còn làm cho Đức Mẹ Ma-ri-a ngày càng lớn lên trong lòng Hội Thánh, trong gia đình và trong lòng xã hội thân yêu của chúng ta nữa..
Cuối thánh lễ, Chị Trưởng Chị Maria Têrêsa đã ngỏ lời cảm ơn đến Đức Giám mục giáo phận, quý cha Linh giám, quý tu sĩ nam nữ, quý khách và toàn thể quý anh chị Legio Mariæ xa gần đã về hiệp dâng thánh lễ tạ ơn. “Mọi người đã dành cho Legio Mariæ những yêu thương này thì xin cho mọi sự đã khởi đầu trong yêu thương thì cũng được kết thúc trong yêu thương”. Sau đó, Đức Cha chủ tế đã long trọng ban phép lành cho các hội viên.
Sau Thánh lễ, niềm vui đánh dấu mừng kỷ niệm 67 năm Legio Mariæ hiện diện tại Việt Nam (1948-2015) và 60 năm Legio Mariæ hiện diện tại giáo phận Đà Nẵng (1955 – 2/5 – 2015) được tiếp diễn trong bữa cơm thanh đạm thân mật tại Hội trường Trung tâm Mục vụ giáo phận.
Trong chương trình 60 năm Hồng ân hình thành và phát triển Legio Mariæ giáo phận Đà Nẵng, vào ban chiều lúc 14g00 sau bản kinh Catena là đề tài: “Đặc tính công tác của Legio Mariæ” được tiếp nối do anh anh Đaminh M. Đỗ Ngọc Phác - Trưởng Hội đồng Senatus Việt Nam trình bày, đã giúp mọi người phấn khởi và nắm bắt thêm nhiều kiến thức về công tác của Legio Mariæ. Anh nói: “hội viên Legio Mariæ được mời gọi nên thánh bằng con được cầu nguyện và hoạt động tông đồ. Muốn cầu nguyện được sốt sắng, muốn công tác tông đồ có hiệu quả cao phải có lòng tôn sùng Đức Mẹ cách đặc biệt (x. TB 33, 332). Làm bất cứ công tác gì đều thực hiện hết khả năng với lòng yêu mến”. Anh cũng nêu bật việc đi công tác hai người và không viện trợ vật chất.. (x. TB 39, 486).
Đề tài được kết thúc với giờ Chầu Thánh Thể do cha Linh giám Phaolô Maria chủ sự.
Trong bối cảnh bức thiết của việc truyền giáo hiện nay, Legio Mariæ có một vị trí và vai trò khá quan trọng bởi đây là một Hội đoàn Công Giáo Tiến hành năng động và đầy tinh thần đoàn kết yêu thương. Sự hăng say cầu nguyện cùng với những công tác tông đồ, thăm viếng đã trở nên những khí cụ để Legio Mariæ có thể đem Chúa đến cho mọi người. Nhờ Mẹ Maria và cùng với Mẹ, các hội viên của Legio Mariæ sẽ trở nên những chứng nhân tình yêu cho Tin Mừng được loan báo tới muôn dân./.
An Duy
Tài Liệu - Sưu Khảo
Bài thuyết trình : Canh tân hoạt động loan báo tin mừng tại Việt Nam ngày nay
+GM. Anphong Nguyễn Hữu Long
08:50 06/09/2015
CANH TÂN HOẠT ĐỘNG LOAN BÁO TIN MỪNG TẠI VIỆT NAM NGÀY NAY
Bài thuyết trình tại Đại hội Loan báo Tin Mừng lần III (Huế, 01-04.9.2015)
Đại hội Loan báo Tin Mừng lần thứ III này được tổ chức trong bối cảnh của nhiều kỷ niệm đáng nhớ :
- Năm nay, GH toàn cầu mừng 50 năm ban hành sắc lệnh Ad Gentes của công đồng Vatican II, kim chỉ nam cho công cuộc loan báo Tin Mừng cho muôn dân thời nay ;
- Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng đang thổi một luồng gió mới cho công cuộc Tân Phúc Âm hóa.
- GH Việt Nam đang thực hiện kế hoạch ba năm Tân Phúc Âm hóa đời sống gia đình, giáo xứ và xã hội.
- Kỷ niệm 400 năm (18.01.1615) hạt giống Tin Mừng chính thức được các cha Dòng Tên gieo vãi tại Việt Nam, đặt nền móng xây dựng GHVN.
Đại hội lần này mang chủ đề : “CANH TÂN HOẠT ĐỘNG LOAN BÁO TIN MỪNG TẠI VIỆT NAM NGÀY NAY”. Khi chọn chủ đề như thế, Ủy ban LBTM/HĐGMVN muốn gì ?
Trước hết, để đáp lại lời mời gọi của ĐTC Phanxicô, như ngài đã viết trong tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng : “Trong Tông Huấn này, tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới” (EV.1)
Trong mọi lãnh vực phải luôn canh tân để đạt hiệu quả hơn. Việc canh tân công cuộc loan báo Tin Mừng là điều hợp lý, vì mỗi thời mỗi khác, và công cuộc này không bao giờ ở thế yên vị, hoàn hảo, mà vẫn cần phải đổi mới cho hợp thời (update). Công Đồng Vaticanô II đã mạnh mẽ lấy lại chủ đề Hội Thánh được rao giảng bằng việc liên tục hoán cải và canh tân để loan báo Tin Mừng cho thế giới với sự khả tín (AG số 5.11.12).
Công cuộc canh tân sứ vụ này được gọi bằng một từ ngữ mới : TÂN PHÚC ÂM HÓA, thay cho từ ngữ xưa là Truyền giáo, Loan báo Tin Mừng, Phúc Âm hóa ; hay nói đúng hơn, bổ túc và làm rõ nghĩa các từ ngữ trên.
Năm 1979, tại Cracovie, ĐTC Gioan-Phaolô II lần đầu tiên đã sử dụng từ ngữ “Tân Phúc Âm hóa” để gọi tên cho cuộc canh tân này : “Trong thời điểm mới này, trong những điều kiện sống mới ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, một cuộc Tân Phúc Âm hóa đã bắt đầu”.
Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư Chung 2013 đã giải nghĩa như sau : “Tân Phúc Âm hóa không phải là rao giảng một Phúc Âm mới, vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (xem Dt 13,8), nhưng là mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp và trong cách diễn tả. Mới về lòng nhiệt thành là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô để mối tương quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương pháp thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt: văn hóa, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội sứ điệp Phúc Âm” (số 4).
Trong bài này, xin trình bày hai phần :
1. Xem quá khứ và xét hiện tại để điểm lại những gì đã làm được hay chưa làm được trong sứ vụ LBTM tại Việt Nam 50 năm qua, kể từ Ad Gentes.
2. Phải làm gì trong tương lai để công cuộc LBTM có kết quả, dựa trên Evangelii Gaudium.
1.1 Trong 50 năm qua, từ khi có sắc lệnh Ad Gentes, GHVN đã làm được gì? Việc lượng định này không dễ. Chúng ta có thể thấy gì qua các phúc trình thường niên của HĐGMVN ? (Vẫn biết các con số không phản ảnh hết, nhưng người ta vẫn nhận rằng có “những con số biết nói”!). Đồng thời, những kết quả thấy được chỉ là phần nổi nhỏ bé của một băng sơn to lớn, nghĩa là có những điều chưa làm được, hoặc đáng lẽ công cuộc LBTM tại Việt Nam phải đạt nhiều kết quả hơn.
Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập hàng Giáo phẩm tại Việt Nam (1960-2010), đã viết bài “Nhìn lại sứ mạng truyền giáo trong 50 năm qua”, trong đó ngài cho rằng hiệu quả truyền giáo tại Việt Nam chưa cao. Nếu căn cứ vào các thống kê thường niên của HĐGMVN, con số tín hữu Công Giáo tại Việt Nam không gia tăng mà lại có chiều hướng thụt lùi :
- Năm 1960, số giáo hữu tại Việt Nam là 2.000.000 / 30.000.000 người, tỷ lệ 6,93%.
- Năm 2000, số giáo dân là 5.200.000 / 77.000.000 người, tỷ lệ 6,70% .
- Năm 2008, con số này là 6.100.000 / 86.100.000 người, tỷ lệ 7,18%.
- Năm 2014, tổng số giáo dân là 6.606.495 / 95.247.775 người, tỷ lệ 6,93%
Kết quả là sau 55 năm (1960-2015), tỷ lệ dân số Công Giáo tại Việt Nam bằng nhau : 6,93% !
Số tín hữu gia nhập đạo, tức chịu phép Rửa tội, cho thấy thường do hai cách : hoặc sinh ra từ gia đình Công Giáo; hoặc do kết hôn với người có đạo (chiếm 80-90% trong số người lớn theo đạo). Như thế thì phải nói rằng việc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam sau 50 năm không có kết quả là bao, nếu dựa vào các con số thống kê.
1.2 Số người theo đạo không tương xứng với số nhân sự lo việc truyền giáo. Năm 2014, số linh mục cả nước là 4.635 (3.546 linh mục giáo phận và 1.089 linh mục dòng) ; số chủng sinh là 2.357, số tiền chủng sinh là 2.389; số tu sĩ là 19.717 (2.834 nam tu, 16.883 nữ tu) ; số giáo lý viên cả nước là 59.448 người. Tổng số các nhân sự gắn liền với việc truyền giáo là 88.546 người. Số người tân tòng gia nhập đạo năm 2014 là 41.395 người. So sánh hai con số 88.546 và 41.395, ta thấy cứ hai tín hữu ưu tuyển chưa đem được một người vào đạo. Đó là chưa nói đến con số rất lớn các hội viên hội đoàn Công Giáo tiến hành trong cả nước.
1.3 Trước 1975, miền Nam được thuận lợi để truyền giáo trong mọi lãnh vực như tôn giáo, giáo dục, y tế, bác ái xã hội, huấn nghệ, truyền thông đại chúng... GH được tự do truyền giáo, mở trường học các cấp, điều hành nhà thương, cô nhi viện, dưỡng đường, trường huấn nghệ. Về truyền thông, GH có nhà xuất bản, báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh. Về truyền giáo, có Hội Thừa Sai Việt Nam. Các dòng ngoại quốc và dòng bản quốc được tự do phát triển. Trong khi đó, Giáo Hội tại miền Bắc bị bó tay hoàn toàn do những khó khăn xã hội. Nguyên việc lo cho người có đạo đã khó, nói gì đến việc truyền giáo. Nhiều giáo phận bị kiệt quệ về nhân sự do cuộc di cư năm 1954, và tiếp đó là khó khăn về vật lực.
1.4 Biến cố tháng 4.1975 làm cho toàn Giáo Hội Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn về tôn giáo. Giáo Hội mất hết mọi phương tiện để truyền giáo. Từ thập niên 1990 trở đi thì bắt đầu dễ dàng hơn nhờ sự cởi mở về tôn giáo. Các chủng viện, tu viện được chiêu sinh, việc phong chức linh mục và bổ nhiệm dần dần thuận lợi, việc xây dựng hay sửa chữa các cơ sở tôn giáo cũng dễ dàng hơn, các buổi lễ tôn giáo được tổ chức ở mọi cấp từ giáo xứ, giáo phận và toàn quốc. Các cuộc hành hương lên đến cả trăm ngàn người tại La Vang, Tà Pao, Sở Kiện, các cuộc lễ cấp giáo phận, giáo xứ được tổ chức hoành tráng, rầm rộ… Bước vào thiên niên kỷ thứ III, nhờ tiến bộ về khoa học kỹ thuật, những phương tiện truyền thông như internet, điện thoại di động, truyền hình cáp… lan rộng đến mọi nơi mọi người. Các giáo phận, hội dòng, hội đoàn và cá nhân đã vận dụng những tiến bộ này để đưa Tin Mừng đến với mọi người. Hiện nay, tuy tại một số địa phương vẫn còn những hạn chế và khó khăn về tôn giáo, nhưng phải nhìn nhận rằng GH có trong tay mọi phương thế để thực hiện công cuộc loan báo Tin Mừng, thế nhưng số người tin theo đạo vẫn không gia tăng! Nguyên nhân tại đâu ?
1.5 Trước hết do GHVN chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về công cuộc loan báo Tin Mừng. Muốn nhận thức đúng thì cần phải biết quan điểm, đường lối và hoạt động của GH về vấn đề truyền giáo. Năm mươi năm qua, GH đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng liên quan đến sứ vụ truyền giáo, mà ta có thể liệt kê những văn kiện quan trọng nhất : Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy Vọng), Sắc lệnh Ad Gentes (Đến với muôn dân), Apostolicam Actuositatem (Tông đồ Giáo dân), Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng, 1975), Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế, 1990), Tông huấn Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại Á Châu, 1999), và gần đây nhất, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin Mừng, 2013)... Nhưng đa số tín hữu Việt Nam, kể cả các linh mục, tu sĩ, không được học hỏi thấu đáo, thì không thể có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về việc loan báo Tin Mừng.
1.6 Nguyên nhân thứ hai, giáo dân Việt Nam giữ đạo rất tốt cho mình, nhưng lại thiếu nhiệt huyết thông truyền niềm tin ấy cho người khác, họ nghĩ việc truyền giáo là của ai khác, phần mình chỉ lo cho mình được rỗi. Chính sự thiếu nhiệt huyết này làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam bị trì trệ, không có kết quả. Nhìn vào anh em Tin Lành tại Việt Nam, chúng ta thấy họ rất nhiệt tình truyền bá đạo. Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, họ vẫn mạnh dạn và hăng say đem Tin Mừng giới thiệu cho mọi người, nhất là cho anh em dân tộc. Số tín đồ Tin Lành ngày càng cao. Tin Lành được truyền vào nước ta năm 1911, tức sau đạo Công Giáo 300 năm. Đến nay, chỉ sau 100 năm, Hội Thánh Tin Lành tại Việt Nam đã có khoảng 2.200.000 tín đồ, bằng 1/3 số giáo dân Công Giáo. Chúng ta cũng có thể nhìn vào Giáo Hội Hàn Quốc. Giáo Hội này có nhiều điểm tương đồng với GHVN : cùng ở châu Á, cùng chịu ảnh hưởng Khổng Lão Phật, cùng chịu bách hại, cùng có nhiều chứng nhân đức tin... Vào khoảng thập niên 1960, tỷ lệ giáo dân tại Hàn quốc kém Việt Nam, nhưng sau đó đã gia tăng gấp đôi, và hiện nay đã đạt trên 11%. Giáo Hội Hàn quốc còn đề ra chiến dịch truyền giáo 20-20, nghĩa là họ kỳ vọng vào năm 2020, tỷ lệ giáo dân sẽ đạt 20%.
1.7 Nguyên nhân thứ ba, đó là vì thiếu nền tảng Kitô học vững chắc. Ðể có thể rao giảng Chúa Kitô cho dân tộc Việt Nam vốn nặng về Tam giáo, cần vững vàng về học thuyết Kitô giáo. Học thuyết này sẽ giúp người tín hữu thống nhất về mặt tư tưởng cũng như hành động với Ðức Giêsu và giới thiệu Ngài cho người khác, giải đáp thỏa đáng các vấn đề về Ðức Kitô trong tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn. Trong nỗ lực đó, một vài giáo phận như Xuân Lộc, Long Xuyên... đã tổ chức hội thảo “Kể chuyện Chúa Giêsu”. Không thể rao giảng Chúa Kitô nếu không biết Ngài. Ta biết Ngài qua Kinh Thánh, như lời thánh Hiêrônimô : “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”, biết Ngài qua giáo lý của Hội Thánh. Nhưng phải nhìn nhận rằng kiến thức về Kinh Thánh, về giáo lý nơi đa số giáo dân Việt Nam ngày nay vẫn ở mức rất thấp, rất hạn hẹp.
1.8 Đời sống đạo của người tín hữu chưa đi đôi với niềm tin. Thiếu căn bản về giáo lý, kiến thức sơ sài về đạo làm cho đạo và đời không ăn nhập với nhau trong cuộc sống. Ðời sống đạo thể hiện nơi các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài, hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong. Ngày xưa Chúa đã dùng ngôn sứ Ysaia để khiển trách dân Israel thờ kính Chúa ngoài môi miệng còn lòng trí thì xa Chúa (cf Ys 29,13). Phải chăng chúng ta quá chú trọng đến hình thức bên ngoài, tổ chức các đại hội, lễ lạc, hành hương một cách hoành tráng, tốn phí, phô trương…, mà kết quả xét về mặt truyền giáo thì không có gì!
1.9 Những thách đố của thời đại như chủ nghĩa duy vật, hưởng thụ, tương đối gây ảnh hưởng khiến cho nhiều kitô hữu chỉ sống đạo vật vờ, như mặc cái áo. Ở ngoài Bắc, do nhiều năm thiếu vắng bí tích, nhà thờ, linh mục, nhiều giáo dân đã phai nhạt đức tin hoặc mất đức tin. Bây giờ, khi mọi sự có vẻ dễ dàng hơn, đời sống vật chất đỡ hơn, thì lại bị ảnh hưởng của não trạng hưởng thụ, ngại khó, dẫn đến thái độ hờ hững, giữ đạo chiếu lệ. Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm trong một bài viết đăng trên báo Hiệp Thông, số 87, nêu lên ba điểm trong cách sống đạo của phái Ngũ Tuần, qua đó kêu gọi cũng phải nỗ lực như vậy nơi người Công Giáo : Believing (xác tín về niềm tin của mình) ; Belonging (cảm nhận sự gắn bó trong cộng đoàn) ; Beheaving (thể hiện niềm tin của mình, không mặc cảm, sợ hãi).
1.10 Gần đây, một vấn nạn thường được đặt ra, đó là có nên truyền giáo không ? Nhiều người chủ trương không nên, vì cho rằng việc chiêu mộ tín đồ cải đạo là xâm phạm tự do của con người. Tài liệu làm việc (Lineamenta) chuẩn bị cho THĐGM khóa XIII năm 2012, số 35-36 giải đáp vấn nạn này như sau :
“Ngày nay có một sự lầm lẫn ngày càng tăng khiến nhiều người không nghe hoặc không thi hành mệnh lệnh truyền giáo của Chúa (xem Mt 28,19). Người ta thường chủ trương rằng tìm cách thuyết phục người khác theo đạo là giới hạn tự do của họ. Theo quan điểm này, chỉ được phép trình bày ý tưởng của mình và mời gọi người ta hành động theo lương tâm họ mà không nhắm tới việc làm cho họ trở lại với Đức Kitô và đức tin Công Giáo. Có thể nói là chỉ cần giúp người ta trở nên nhân bản hơn hay trung thành hơn với đạo của họ; chỉ cần xây dựng những cộng đồng tìm kiếm công lý, tự do, hoà bình và tình liên đới. Hơn nữa, một số người còn chủ trương rằng không cần phải loan báo Đức Kitô cho những ai không biết Ngài, hoặc không cần phải khuyến khích họ vào Hội Thánh, vì họ vẫn có thể được cứu rỗi mà không cần phải minh nhiên biết Đức Kitô và không cần phải gia nhập Hội Thánh một cách chính thức” (số 35).
Thực ra, loan báo Tin Mừng để mời gọi người khác vào đạo vẫn là điều cần thiết :
“Mặc dù những người không phải là Kitô hữu vẫn có thể được cứu rỗi nhờ ân sủng Thiên Chúa ban cho, bằng những cách chỉ một mình Người biết, song Hội Thánh không thể không biết rằng mỗi con người đều muốn biết khuôn mặt thật của Thiên Chúa và vui hưởng hôm nay tình bạn của Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Việc gắn bó với Đức Kitô, Đấng là Sự Thật, và trở nên thành viên của Hội Thánh Người không làm giảm tự do con người, nhưng đúng hơn nó gia tăng tự do và dẫn đưa tự do tới chỗ hoàn thiện nhờ một tình yêu xả kỷ và sự chăm lo cho hạnh phúc của mọi người. Quả là một món quà vô giá khi được sống trong vòng tay yêu thương của tất cả các bạn hữu của Thiên Chúa, nhờ được hiệp thông với thịt và máu ban sự sống của Con Thiên Chúa; và quả là vô giá khi đón nhận từ Người sự chắc chắn rằng tội lỗi của chúng ta được tha, và được sống trong tình yêu phát sinh từ đức tin! Hội Thánh muốn mọi người được dự phần vào sự giàu có ấy, để họ có thể đạt được chân lý sung mãn và các phương thế cứu độ, để “được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Khi loan báo và thông truyền đức tin, Hội Thánh bắt chước chính Thiên Chúa, Đấng tự thông ban chính mình cho nhân loại bằng việc ban Con của Người là Đấng đổ tràn Thánh Thần để mọi người có thể được tái sinh làm con cái Thiên Chúa” (số 36)
Sắc lệnh Ad Gentes số 7 cũng quả quyết : “Dù Thiên Chúa có thể dùng những đường lối Ngài biết để đưa những kẻ không vì lỗi mình mà chưa biết Phúc Âm đến với đức tin, vì không có đức tin thì không thể làm vui lòng Ngài, nhưng Giáo Hội có bổn phận và đồng thời có thánh quyền rao giảng Phúc Âm ; do đó, ngày nay và luôn mãi, hoạt động truyền giáo vẫn còn giữ trọn vẹn hiệu lực và cần thiết”.
ĐTC Phaolô VI khẳng định vị trí ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng và nhắc nhở các tín hữu: “Sẽ rất ích lợi nếu mỗi Kitô hữu và mỗi người rao giảng Tin Mừng cầu nguyện theo ý tưởng này: người ta cũng có thể được cứu rỗi bằng những cách thức khác, cho dù chúng ta không rao giảng Tin Mừng cho họ; nhưng đối với chúng ta, liệu chúng ta có thể được cứu rỗi hay không nếu vì sự trễ nải, sợ hãi hay hổ thẹn - điều mà Thánh Phaolô gọi là ‘xấu hổ vì Tin Mừng’ - hay vì những tư tưởng sai lạc mà chúng ta không rao giảng Tin Mừng?” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi)
2. Còn nhiều điều cần phân tích thêm, nhưng ta hãy tạm bằng lòng với bấy nhiêu cái được và chưa được. Tâm tình của chúng ta khi nhìn về những điều đã làm được trong quá khứ là tạ ơn Chúa; về những điều chưa làm được là xin ơn hoán cải mục vụ để đẩy mạnh hơn sự canh tân sứ vụ loan báo Tin Mừng như ĐTC Phanxicô kêu gọi trong tông huấn EG số 25-33. Hướng về tương lai, ta thử rảo qua những điều cần phải làm, những lãnh vực phải lưu tâm, để canh tân công cuộc loan báo Tin Mừng cho hợp với thời đại hiện nay tại Việt Nam.
2.1 Trước hết, về phương diện cá nhân, sứ vụ loan báo Tin Mừng chỉ có hiệu quả nếu mỗi người kitô hữu có được mối tương quan cá nhân với Chúa Kitô, nói như thánh Phaolô : “Tôi biết tôi đã tin vào Đấng nào” (2Tm 1,12). Chính sự xác tín vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ sẽ thúc đẩy người ấy mạnh dạn sống và loan báo Ngài cho người khác, như hai tông đồ Phêrô và Gioan đã mạnh dạn nói trước Thượng hội đồng khi bị cấm rao giảng về Đức Giêsu: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng : “Tôi kêu mời mọi kitô hữu ở khắp nơi, ngay từ lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Giêsu Kitô” (EG số 3). Tài liệu làm việc của THĐGM khóa XIII cũng viết: “…việc tái khám phá tâm điểm của việc tân phúc âm hoá, đó là, sự trải nghiệm đức tin Kitô giáo : gặp gỡ với Đức Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa Cha cho nhân loại, là Tin Mừng biến đổi chúng ta, tập hợp chúng ta lại và dẫn đưa chúng ta, nhờ hồng ân Chúa Thánh Thần, tới một sự sống mới mà chúng ta bây giờ đã trải nghiệm rồi, ngay trong việc chúng ta cảm nhận mình được qui tụ thành Hội Thánh. Đồng thời, sự sống này là nguyên nhân của niềm vui thúc đẩy chúng ta làm những chứng nhân và người hân hoan loan tin về hồng ân đã nhận, đi khắp các nẻo đường trên thế giới, trong khi ngóng đợi sự hoàn thành Nước Thiên Chúa” (số 17).
2.2 Để có mối liên hệ mật thiết với Đức Giêsu Kitô, thì sự học hỏi Tin Mừng, giáo lý và huấn quyền của Giáo Hội, là những điều cần thiết cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Đã đến lúc GHVN phải quan tâm đào sâu sự hiểu biết này, chứ không thể để tình trạng dốt nát hiểu biết về Chúa tồn tại. Với những phương tiện và khả năng hiện có trong tầm tay, chúng ta không còn có thể đổ lỗi cho bất cứ ai hay bất cứ hoàn cảnh nào ngăn cản sự học hỏi, đào sâu kiến thức đạo. Giáo lý là nền tảng, là cái móng của cả tòa nhà, nếu không vững chắc thì cả tòa nhà sẽ sụp đổ. Phần lớn những người bỏ đạo hay hờ hững là vì họ không hiểu biết Tin Mừng và giáo lý đó thôi. Trong đại hội LBTM năm nay, chúng ta vui mừng sẽ được nghe Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, chủ tịch UBGLĐT/HĐGMVN thuyết trình về đề tài “Dạy giáo lý theo định hướng truyền giáo” rất thích hợp.
2.3 Khích lệ và tạo điều kiện để giáo dân tham gia vào sứ vụ truyền giáo. Công đồng Vatican II đề cao vai trò đi đầu của người tín hữu trong mọi phương diện, nhất là truyền giáo. Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân của công đồng Vatican II cho ta một số nhận định về vai trò truyền giáo của giáo dân như sau :
- Người giáo dân góp phần loan báo Tin Mừng bằng chứng tá đời sống và bằng lời rao giảng của họ: “Chính chứng tá của đời sống Kitô hữu và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Sự sáng của các con phải chiếu giãi trước mắt mọi người, để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời" (Mt 5,16). Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn "vì tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta" (2 Cor 5,14) và trong lòng mọi người phải âm vang lời Thánh Tông Ðồ: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm" (1Cor 9,16) (TĐGD số 6) ;
- “Trong những miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành chức vụ, thì Giáo Hội khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác” (TĐGD số 1) ; “Việc tông đồ cá nhân có môi trường hoạt động đặc biệt trong những miền người Công Giáo ít oi và tản mát”. (TĐGD số 17). “Việc tông đồ cá nhân này rất cần thiết và cấp bách trong những miền mà tự do của Giáo Hội bị cản trở trầm trọng. Trong những hoàn cảnh khó khăn đó, giáo dân tùy khả năng thay thế linh mục, họ liều mất tự do của mình và đôi khi ngay cả mạng sống mình để dạy giáo lý Công Giáo cho những người chung quanh, huấn luyện cho những người ấy biết sống đạo và khuyến khích họ năng lãnh nhận các bí tích và đặc biệt tôn sùng phép Thánh Thể. Thánh Công Ðồng hết lòng tạ ơn Thiên Chúa đã không ngừng cho xuất hiện ngay cả trong thời đại chúng ta những người giáo dân can đảm phi thường giữa những cơn bách hại. Thánh Công Ðồng lấy tình người cha yêu thương và tri ân họ” (TĐGD số 16). (Tại giáo phận Hưng Hóa, có những cộng đoàn người H’Mông suốt mấy chục năm không có bóng dáng linh mục, không nhà thờ, không bí tích, nhưng họ vẫn giữ được đức tin nhờ chính những người giáo dân dạy giáo lý cho nhau, rửa tội cho nhau, và đùm bọc nhau giữ đạo, bất chấp mọi ngăn cản, cấm đoán. Thật đáng ngưỡng phục những con người đơn sơ nghèo hèn bé mọn này !).
- Muốn thế, điều cần thiết là phải huấn luyện người tín hữu sâu sắc về đức tin, trang bị cho họ vốn kiến thức giáo lý. “Việc tông đồ chỉ đạt tới kết quả mỹ mãn nhờ việc huấn luyện đầy đủ và chuyên biệt” (TĐGD số 28), điều mà chúng ta thấy còn rất thiếu nơi tín hữu Việt Nam, chính vì thế mà họ ngại ngùng không dám nói về niềm tin của mình.
Trong đại hội LBTM này, chúng ta sẽ được nghe cha Trưởng ban LBTM giáo phận Xuân Lộc trình bày về việc đào tạo tác viên Tin Mừng là những giáo dân, cũng như hoạt động của họ, được biết là mang lại nhiều kết quả. Đây cũng là tân Phúc-Âm hóa bằng phương pháp mới. Ước mong kế hoạch đào tạo tác viên Tin Mừng được nhân rộng tại các giáo phận Việt Nam.
2.4 GHVN phải đáp ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô : “Ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình, để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng” (EG số 20). Đây là âm vang lệnh lên đường của Chúa Giêsu trước khi về trời : “Anh em hãy ra đi khắp tứ phương thiên hạ, giảng dạy cho muôn dân và làm phép rửa cho họ”. Thật đáng ngưỡng mộ khi một số hội dòng trong nước đã gửi tu sĩ của mình ra đi đến năm châu bốn bể để loan báo Tin Mừng, mặc dù trong nước vẫn còn nhiều nơi anh em đồng bào của ta chưa được biết Chúa là ai. Công cuộc truyền giáo và tái truyền giáo vẫn còn ngổn ngang và bức thiết. Đạo Công Giáo đã hiện diện tại Việt Nam trong 4 thế kỷ, thế mà còn rất nhiều người Việt nam chưa biết Chúa là Đấng nào, nhiều đồng bào dân tộc chưa hề được nghe nói về Chúa ! (Tại Hưng Hóa, sau 70 năm (từ 1945) sống dưới chế độ, rất nhiều anh chị em giáo hữu từ các giáo phận miền đồng bằng đến lập nghiệp tại các tỉnh vùng Tây Bắc đã lơ là nguội lạnh, thậm chí mất đức tin. Con số lên đến trăm ngàn người chứ không ít !). Chúng ta phải cảm nghiệm bài học thấm thía của dụ ngôn tìm chiên lạc : Người mục tử tốt lành ấy dám để 99 con trong hoang địa để đi tìm con chiên lạc cho bằng được. Thấy rồi, anh vác chiên lên vai, đem về nhà, mời bạn bè chung vui. Chúng ta nhìn nhận rằng GHVN vẫn còn thờ ơ với sứ vụ loan báo Tin Mừng. Các linh mục chỉ mới lo cho các con chiên ngoan đạo, còn chiên lạc đàn thì chưa quan tâm đến. Các dòng tu còn lẩn quẩn với việc mưu sinh hoặc lo phát triển cơ sở vật chất, chưa dám mạnh dạn dấn thân ra đi đến vùng sâu vùng xa, vùng “ngoại vi”. ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc, trong bài nói chuyện với hội nghị Bề trên Thượng cấp các dòng tại K’Long ngày 5.11.2013 đã nói : “Giáo Hội tại Việt Nam trong thời hiện đại, chưa chu toàn đầy đủ sứ vụ loan báo Tin mừng. Có những cố gắng còn rời rạc, chưa được nối kết và hướng dẫn. Cần phải có một sự “chuyển mình thật mạnh dạn”, thật can đảm từ “mục vụ bảo trì” (pastorale de maintien), gìn giữ và bảo vệ cơ chế, cơ sở, sang “mục vụ truyền giáo” đích thực (pastorale missionnaire)”. Chúng ta mong GHVN mạnh dạn đứng dậy, mở cửa, ra đi mọi miền, để đem Tin Mừng Chúa đến với anh chị em đồng bào. Ước gì các giáo phận dồi dào về nhân lực và vật lực sẵn sàng chia sẻ với các giáo phận thiếu thốn. (Lấy giáo phận Hưng Hóa làm thí dụ : đây là giáo phận rộng mênh mông bao la, diện tích 54.500 km2, có nhiều dân tộc thiểu số (27/54 dân tộc), địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, dân cư tản mát. Giáo phận chịu nhiều thương đau trong suốt 70 năm qua, từ 1945. Vì phải trải qua một thời gian dài không có giám mục, linh mục, bí tích, cộng đoàn, nên con số tín hữu lơ là nguội lạnh rất nhiều. Công cuộc truyền giáo và tái truyền giáo tại đây thật bức thiết. Hiện tại, giáo phận vẫn còn ít linh mục, tu sĩ, về vật chất cũng thiếu thốn vì giáo dân nghèo. Giáo phận Hưng Hóa mong được các giáo phận có nhiều linh mục tu sĩ san sẻ nhân sự giúp cho theo mô hình Fidei Donum, trong khi chờ đợi giáo phận có thêm các linh mục, nhưng xem ra khó được hưởng ứng).
2.5 Các lãnh vực cần Tân Phúc-Âm hóa ngày nay, cách riêng tại Việt Nam, theo Lineamenta của THĐGM khóa XIII.
- Lãnh vực văn hóa : Trào lưu tục hóa đang lan tràn nhanh tại Việt Nam. Do ảnh hưởng thuyết vô thần thực tiễn, não trạng hưởng thụ vật chất ngày càng tăng, người Việt Nam xưa vốn dễ hướng chiều về tôn giáo, nay dễ dàng loại trừ hoặc dửng dưng với niềm tin tôn giáo. Hoặc họ bằng lòng với những hình thức tín ngưỡng tâm linh lệch lạc để bù trừ và để trấn an tâm hồn vốn khát vọng Đấng Chân Thiện Mỹ đích thật. Ngay nơi những tín hữu Công Giáo, ta cũng dễ nhận thấy tâm thức tín ngưỡng cầu khẩn, vụ lợi. Một tâm thức như thế sẽ khó đứng vững trước những thử thách của đức tin. Lãnh vực này thật là một thách thức cho công cuộc Tân Phúc-Âm hóa tại Việt Nam, đòi hỏi chúng ta có nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới cho thích hợp với người thời đại thì mới mong thành công.
- Lãnh vực xã hội : Tại Việt Nam, hiện tượng di dân về các thành phố lớn để kiếm sống đã làm xáo trộn những truyền thống tốt đẹp như tình gia đình, nghĩa vợ chồng, tình làng xóm, để nghiêng theo chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ. Hiện tượng di dân cũng tác động nặng nề để dễ đánh mất niềm tin và sự thực hành tôn giáo nơi những tín hữu trẻ tuổi trong môi trường xa lạ, thiếu vắng sự nâng đỡ của xứ đạo, gia đình, hội đoàn. Đây chính là “vùng ngoại vi” mà công cuộc tân Phúc-Âm hóa cần thâm nhập.
- Lãnh vực kinh tế : Tại Việt Nam, sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn, kéo theo nhiều vấn đề : di dân kinh tế, hấp lực của đồng tiền, phân biệt đối xử, làm ăn bất chính, bạo lực, luân lý suy đồi, tham nhũng hối lộ…, trong nhiều trường hợp dẫn đến chỗ dửng dưng với tôn giáo. Sách Châm Ngôn 30,7: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói : "Đức Chúa là ai vậy?" hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con”. Tân Phúc-Âm hóa thực tế là GH phải nêu chứng tá nghèo khó, gần gũi người nghèo, đứng về phía họ theo lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô: “Tôi muốn một GH nghèo”. Đồng thời, GH phải mạnh dạn nói không với một nền kinh tế loại trừ (EG. 53), với ngẫu tượng mới là tiền bạc (EG. 55-56), với một hệ thống tài chánh thống trị thay vì phục vụ (EV. 57-58), với tình trạng bất bình đẳng, nguồn gốc của bạo lực (EV. 59). Chỉ có thể làm những việc này nếu có nhiệt huyết mới của công cuộc Tân Phúc-Âm hóa, nhất là làm gương sáng về một đời sống thanh bần.
- Lãnh vực dân sự : Cho đến nay, xem ra người Công Giáo Việt Nam vừa bị gạt ra bên lề xã hội, vừa thụ động không muốn dấn thân trong lãnh vực này, trong khi GH muốn chúng ta “nhập thế”, bởi công cuộc Tân Phúc-Âm hóa cũng phải quan tâm đến lãnh vực này, như quyết tâm xây dựng và cổ vũ nền hoà bình; phát triển các dân tộc; các qui định luật pháp quốc tế tốt hơn và sự tương tác của các chính phủ mỗi nước; lắng nghe, đối thoại và hợp tác giữa các nền văn hoá và các tôn giáo khác nhau (đối thoại liên tôn); bảo vệ các quyền con người và các dân tộc, đặc biệt các nhóm thiểu số; thăng tiến các thành phần dễ bị tổn thương nhất; và sự toàn vẹn của tạo dựng và một sự dấn thân cho tương lai của hành tinh chúng ta (Thông điệp Laudato si’ về môi trường). Nhiều Giáo Hội địa phương (vd Hàn quốc) đang dấn thân hoạt động cho những vấn đề này, chuyên cần theo đuổi và cổ vũ chúng trong đời sống hằng ngày của các cộng đoàn chúng ta.
- Lãnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ : Thời đại hiện nay có những thành tựu kỳ diệu đáng kinh ngạc trong lãnh vực này. Trong một thế giới số và toàn cầu hoá, khoa học và kỹ thuật có nguy cơ trở thành những thần tượng mới, ‘tôn giáo mới”, hứa hẹn sự thịnh vượng và thoả mãn tức thời.
- Lãnh vực truyền thông, cách riêng internet : Lãnh vực này đang thời thượng, vì cống hiến cho con người nhiều cơ hội để phát triển mọi mặt, nhưng nó cũng lại là một thách đố cho Hội Thánh. Không một nơi nào trên thế giới hôm nay mà truyền thông không thể tới được, và vì thế mọi nơi đều chịu ảnh hưởng của nền văn hoá số và điện toán. Các phương tiện truyền thông này mau chóng trở thành “diễn đàn” của đời sống dân sự và trải nghiệm xã hội, được thấy rõ qua sự phổ biến của internet. Các công nghệ truyền thông phải được chúng ta nhìn một cách tích cực, không thành kiến, như là một nguồn lực đòi chúng ta phải có con mắt phân định và biết sử dụng chúng một cách khôn ngoan và có trách nhiệm. Hội Thánh đã sử dụng các phương tiện này như một công cụ hữu ích để loan báo Tin Mừng. Ngày nay, cùng với các phương tiện truyền thông có tính truyền thống hơn, đặc biệt sách báo và truyền thanh, thì các media mới đang ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng trong tác vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, giúp tạo ra sự tương tác ở nhiều cấp khác nhau: địa phương, quốc gia, châu lục và toàn cầu. Chúng ta thấy rất rõ tiềm năng trong việc sử dụng cả các phương tiện cũ và mới, cần có một tiến trình phân định chăm chú và được chia sẻ, không chỉ để thẩm định tốt hơn các tiềm năng sử dụng chúng trong việc loan báo Tin Mừng, nhưng còn để hiểu đúng những nguy cơ và hiểm họa có thể có (cf. Lineamenta số 61). Biết khôn ngoan sử dụng mặt tích cực của media vào công cuộc LBTM chính là áp dụng phương pháp và cách diễn tả mới của cuộc Tân Phúc-Âm hóa vậy. (Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt đã nhận lời đến thuyết trình cho đại hội, nhưng vào phút chót, ngài lâm bênh không thể đến. Tuy nhiên, ngài đã có sáng kiến thu hình và âm thanh để gửi đến đại hội, đấy cũng là một phương pháp mới để tân Phúc-Âm hóa).
- Lãnh vực tôn giáo : Ngày nay, trong khi khuynh hướng loại trừ, dửng dưng với tôn giáo gia tăng, thì đồng thời lại có khuynh hướng quay về với tôn giáo nhờ các hình thức linh đạo mới, đặc biệt nơi giới trẻ. Người Việt nam nói chung hiện vẫn có niềm tin tín ngưỡng trong cuộc sống, tuy vẫn dễ có những lệch lạc ngộ nhận như mê tín dị đoan. Giới trẻ vẫn còn gắn bó với tôn giáo, người đi tu vẫn còn nhiều. Tuy nhiên, phải giúp họ xác tín hơn nữa vào tôn giáo đích thật, tìm cho cuộc sống có ý nghĩa. Giới trẻ thật sự cần tân Phúc-Âm hóa để có niềm tin vững chãi trước những thách đố khi vật chất lên cao và khuynh hướng hưởng thụ cám dỗ.
2.6 Nhìn vào xã hội và Giáo Hội Việt Nam hôm nay, chúng ta nhận thấy cần phải Tân Phúc-Âm hóa với nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới để sứ vụ loan báo Tin Mừng có thể đơm hoa kết trái. Xin nêu lên một số lãnh vực và hoạt động mục vụ cần quan tâm như sau :
- Phát triển mô hình cộng đoàn cơ bản, các nhóm nhỏ cùng chí hướng, hoạt động, sở thích, để cá nhân dễ hòa nhập và không cảm thấy xa lạ hay bị lãng quên.
- Huấn luyện giáo dân và tạo điều kiện để họ cộng tác vào sứ vụ loan báo Tin Mừng, như đã trình bày ở trên.
- Cổ vũ sự phối hợp giữa các Ủy ban thuộc HĐGMVN, không phải mỗi ủy ban hoạt động riêng rẽ, độc lập. Trong Đại hội này, chúng ta vui mừng có sự tham dự của một số đại diện các Ủy ban thuộc HĐGMVN, để trao đổi thêm về hoạt động chung với nhau trong hướng loan báo Tin Mừng, vì tất cả mọi hoạt động của GH đều liên quan đến sứ vụ loan báo Tin Mừng.
- Công cuộc Tân Phúc-Âm hóa để loan truyền đức tin được nhắm đến ba đối tượng : 1/ các kitô hữu vẫn giữ đạo ; 2/ những người đã được rửa tội nhưng nguội lạnh, để mời họ hoán cải, phục hồi niềm vui của đức tin ; 3/ những người chưa biết Chúa hay chối bỏ Ngài. (cf. EV.14). Cho đến nay, nói chung, chúng ta chỉ mới chú trọng làm mục vụ cho những người đang giữ đạo, những con chiên ngoan hiền, chứ chưa quan tâm đủ đến những người khô khan nguội lạnh, hay những người chưa hề biết Chúa, những người có cái nhìn sai lầm về Thiên Chúa và Giáo Hội Công Giáo. GHVN cần mạnh dạn ra đi, đến với những người anh em này để loan báo Tin Mừng, đúng với ý nghĩa Ad Gentes là đến với muôn dân, với người chưa tin nhận Chúa. Họ cũng có quyền được biết Chúa và làm con của Ngài. Các giám mục phải dành một phần nhân lực và vật lực để LBTM cho những người chưa biết Chúa : “Giám Mục phải lo liệu để hoạt động tông đồ không chỉ giới hạn cho những người đã tòng giáo, nhưng phải dành một phần nhân lực và vật lực tương đương vào việc rao giảng Phúc Âm cho những người ngoài Kitô giáo” (AG.30)
- Hướng đến những anh chị em dân tộc thiểu số. Những người này cho đến nay vẫn chịu nhiều thiệt thòi, cả về vật chất lẫn tinh thần. (Cụ thể tại Hưng Hóa, có đến 27/54 dân tộc thiểu số, nhưng mới chỉ có một vài dân tộc như Mường, H’Mông, Thái, Mán được biết Chúa, còn những dân tộc khác chưa hề được nghe rao giảng Tin Mừng).
- GHVN cần thận trọng kẻo rơi vào khuynh hướng phô trương : xây nhà thờ lộng lẫy, hoang phí; tổ chức các cuộc lễ hoành tráng, tốn kém rất nhiều, mà chưa dám dốc lực vào việc truyền giáo. Nên bớt đi những xa hoa phù phiếm, để dành vật lực vào công cuộc LBTM đúng nghĩa.
- Chia sẻ nhân lực với những giáo phận đang thiếu linh mục, tu sĩ truyền giáo. Đây chính là điều công đồng Vatican II đã nói đến, trước hết đối với các giám mục : “Tùy sức có thể, các giám mục hãy lo gửi một số linh mục của mình đến thi hành thánh vụ tại những xứ truyền giáo và các giáo phận nói trên vĩnh viễn hay ít là trong một thời gian hạn định” (CD. 6; AG. 19) ; đối với các linh mục, cũng vậy, các vị phải sẵn sàng dấn thân cho những nơi cần đến : “Các linh mục phải tỏ ra sẵn sàng, và khi có dịp, các ngài phải hăng say tình nguyện để Ðức Giám Mục sai đi khởi công truyền giáo tại những miền xa xôi và bị bỏ rơi trong giáo phận mình hoặc trong các giáo phận khác” (AG. 20). “Vì ngày càng cần nhiều thợ vườn nho Chúa và vì các linh mục giáo phận cũng ước ao ngày càng được góp phần lớn hơn vào việc rao giảng Phúc Âm cho thế giới, nên Thánh Công Ðồng rất ước mong các Giám Mục, trong khi cân nhắc về việc thiếu linh mục rất trầm trọng đang cản trở việc rao giảng Phúc Âm cho nhiều miền, hãy sai đến những giáo phận thiếu giáo sĩ vài linh mục xuất sắc đã tự hiến để làm việc truyền giáo và đã được chuẩn bị đầy đủ, để họ thi hành thừa tác vụ truyền giáo với tinh thần phục vụ ít là trong một thời gian” (AG. 38) ; các dòng tu hoạt động phải sẵn sàng cộng tác vào sứ vụ LBTM : “Còn các Hội Dòng sống đời hoạt động, hoặc theo đuổi mục đích hoàn toàn truyền giáo hoặc không, đều phải thành thật tự vấn trước mặt Chúa xem mình có thể bành trướng hoạt động vào việc mở rộng Nước Chúa nơi muôn dân không; xem mình có thể trao một số thừa tác vụ cho những người khác để cống hiến sức lực mình cho các xứ truyền giáo không; xem mình có thể khởi công hoạt động trong các xứ truyền giáo bằng cách thích nghi Hiến Pháp của mình nếu cần, mà vẫn theo tinh thần của Vị Sáng Lập không; xem các tu sĩ của mình có thể tùy sức tham gia vào hoạt động truyền giáo không; xem cách sống thường xuyên của họ có phải là một chứng tá của Phúc Âm được thích nghi với đặc tính và hoàn cảnh của dân chúng không” (AG. 40).
- Quảng đại đóng góp vật chất cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo. Từ vài năm nay, GHVN đã đóng góp nhiều hơn so với những năm trước cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, tuy vẫn không tương xứng với việc nhận lại sự trợ giúp từ các Hội này. Điều này đặt cho chúng ta một suy nghĩ, đó là phải chăng đã đến lúc GHVN phải tự túc tự lực, không nên ngửa tay nhận sự trợ giúp từ Tòa Thánh nữa, vì chúng ta đã nhận quá nhiều và quá lâu, đồng thời đóng góp quảng đại hơn nữa để các hội Giáo Hoàng Truyền Giáo có thể giúp các Giáo Hội cần hơn.
Trên đây mới chỉ là một số nhận định, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì thế trong giờ thảo luận tiếp theo, xin các tham dự viên bổ túc về những gì mà GHVN cần làm trong tương lai, để canh tân sứ vụ LBTM tại Việt Nam sao cho có kết quả hơn. UBLBTM trân trọng đón nhận mọi suy tư, góp ý, đề nghị, đến từ mỗi tham dự viên, bất luận là giáo dân, tu sĩ hay linh mục.
Kết luận :
Ai trong chúng ta cũng đều mong ước được thấy một cánh đồng phong nhiêu vào ngày mùa, với những bông lúa nặng trĩu ba mươi, sáu mươi, một trăm hạt, đong đưa dưới ánh nắng rực rỡ, trong làn gió thơm thoảng, và nụ cười tươi nở trên khuôn mặt bác nông dân. Ngày mùa bội thu ấy chỉ đến sau một quá trình gian khổ, khom lưng trên cánh đồng để chăm sóc cây lúa : “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 125,5).
Xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần đến giúp chúng ta tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Trong tâm tình cầu nguyện, chúng ta hãy để cho những lời Chúa về sứ vụ truyền giáo âm vang trong tâm hồn, củng cố niềm tin-cậy-mến của chúng ta, những môn đệ Ngài.
- “Đẹp thay bước chân người rảo khắp núi đồi để loan báo tin vui, tin bình an” (Is 52,7).
- “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
- “Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9,35-38).
- “Đức Giêsu nói với các ông : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
+ Anphong Nguyễn Hữu Long
Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hóa
Chủ tịch UBLBTM/HĐGMVN
Bài thuyết trình tại Đại hội Loan báo Tin Mừng lần III (Huế, 01-04.9.2015)
Thuyết trình viên : ĐGM Anphong Nguyễn Hữu Long |
- Năm nay, GH toàn cầu mừng 50 năm ban hành sắc lệnh Ad Gentes của công đồng Vatican II, kim chỉ nam cho công cuộc loan báo Tin Mừng cho muôn dân thời nay ;
- Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng đang thổi một luồng gió mới cho công cuộc Tân Phúc Âm hóa.
- GH Việt Nam đang thực hiện kế hoạch ba năm Tân Phúc Âm hóa đời sống gia đình, giáo xứ và xã hội.
- Kỷ niệm 400 năm (18.01.1615) hạt giống Tin Mừng chính thức được các cha Dòng Tên gieo vãi tại Việt Nam, đặt nền móng xây dựng GHVN.
Đại hội lần này mang chủ đề : “CANH TÂN HOẠT ĐỘNG LOAN BÁO TIN MỪNG TẠI VIỆT NAM NGÀY NAY”. Khi chọn chủ đề như thế, Ủy ban LBTM/HĐGMVN muốn gì ?
Trước hết, để đáp lại lời mời gọi của ĐTC Phanxicô, như ngài đã viết trong tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng : “Trong Tông Huấn này, tôi muốn khích lệ các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh trong những năm sắp tới” (EV.1)
Trong mọi lãnh vực phải luôn canh tân để đạt hiệu quả hơn. Việc canh tân công cuộc loan báo Tin Mừng là điều hợp lý, vì mỗi thời mỗi khác, và công cuộc này không bao giờ ở thế yên vị, hoàn hảo, mà vẫn cần phải đổi mới cho hợp thời (update). Công Đồng Vaticanô II đã mạnh mẽ lấy lại chủ đề Hội Thánh được rao giảng bằng việc liên tục hoán cải và canh tân để loan báo Tin Mừng cho thế giới với sự khả tín (AG số 5.11.12).
Công cuộc canh tân sứ vụ này được gọi bằng một từ ngữ mới : TÂN PHÚC ÂM HÓA, thay cho từ ngữ xưa là Truyền giáo, Loan báo Tin Mừng, Phúc Âm hóa ; hay nói đúng hơn, bổ túc và làm rõ nghĩa các từ ngữ trên.
Năm 1979, tại Cracovie, ĐTC Gioan-Phaolô II lần đầu tiên đã sử dụng từ ngữ “Tân Phúc Âm hóa” để gọi tên cho cuộc canh tân này : “Trong thời điểm mới này, trong những điều kiện sống mới ở ngưỡng cửa ngàn năm thứ ba, một cuộc Tân Phúc Âm hóa đã bắt đầu”.
Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư Chung 2013 đã giải nghĩa như sau : “Tân Phúc Âm hóa không phải là rao giảng một Phúc Âm mới, vì “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (xem Dt 13,8), nhưng là mới về lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp và trong cách diễn tả. Mới về lòng nhiệt thành là làm mới lại tương quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô để mối tương quan ấy hướng dẫn toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương pháp thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt: văn hóa, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh hội sứ điệp Phúc Âm” (số 4).
Trong bài này, xin trình bày hai phần :
1. Xem quá khứ và xét hiện tại để điểm lại những gì đã làm được hay chưa làm được trong sứ vụ LBTM tại Việt Nam 50 năm qua, kể từ Ad Gentes.
2. Phải làm gì trong tương lai để công cuộc LBTM có kết quả, dựa trên Evangelii Gaudium.
1.1 Trong 50 năm qua, từ khi có sắc lệnh Ad Gentes, GHVN đã làm được gì? Việc lượng định này không dễ. Chúng ta có thể thấy gì qua các phúc trình thường niên của HĐGMVN ? (Vẫn biết các con số không phản ảnh hết, nhưng người ta vẫn nhận rằng có “những con số biết nói”!). Đồng thời, những kết quả thấy được chỉ là phần nổi nhỏ bé của một băng sơn to lớn, nghĩa là có những điều chưa làm được, hoặc đáng lẽ công cuộc LBTM tại Việt Nam phải đạt nhiều kết quả hơn.
Cha Antôn Nguyễn Ngọc Sơn, nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập hàng Giáo phẩm tại Việt Nam (1960-2010), đã viết bài “Nhìn lại sứ mạng truyền giáo trong 50 năm qua”, trong đó ngài cho rằng hiệu quả truyền giáo tại Việt Nam chưa cao. Nếu căn cứ vào các thống kê thường niên của HĐGMVN, con số tín hữu Công Giáo tại Việt Nam không gia tăng mà lại có chiều hướng thụt lùi :
- Năm 1960, số giáo hữu tại Việt Nam là 2.000.000 / 30.000.000 người, tỷ lệ 6,93%.
- Năm 2000, số giáo dân là 5.200.000 / 77.000.000 người, tỷ lệ 6,70% .
- Năm 2008, con số này là 6.100.000 / 86.100.000 người, tỷ lệ 7,18%.
- Năm 2014, tổng số giáo dân là 6.606.495 / 95.247.775 người, tỷ lệ 6,93%
Kết quả là sau 55 năm (1960-2015), tỷ lệ dân số Công Giáo tại Việt Nam bằng nhau : 6,93% !
Số tín hữu gia nhập đạo, tức chịu phép Rửa tội, cho thấy thường do hai cách : hoặc sinh ra từ gia đình Công Giáo; hoặc do kết hôn với người có đạo (chiếm 80-90% trong số người lớn theo đạo). Như thế thì phải nói rằng việc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam sau 50 năm không có kết quả là bao, nếu dựa vào các con số thống kê.
1.2 Số người theo đạo không tương xứng với số nhân sự lo việc truyền giáo. Năm 2014, số linh mục cả nước là 4.635 (3.546 linh mục giáo phận và 1.089 linh mục dòng) ; số chủng sinh là 2.357, số tiền chủng sinh là 2.389; số tu sĩ là 19.717 (2.834 nam tu, 16.883 nữ tu) ; số giáo lý viên cả nước là 59.448 người. Tổng số các nhân sự gắn liền với việc truyền giáo là 88.546 người. Số người tân tòng gia nhập đạo năm 2014 là 41.395 người. So sánh hai con số 88.546 và 41.395, ta thấy cứ hai tín hữu ưu tuyển chưa đem được một người vào đạo. Đó là chưa nói đến con số rất lớn các hội viên hội đoàn Công Giáo tiến hành trong cả nước.
1.3 Trước 1975, miền Nam được thuận lợi để truyền giáo trong mọi lãnh vực như tôn giáo, giáo dục, y tế, bác ái xã hội, huấn nghệ, truyền thông đại chúng... GH được tự do truyền giáo, mở trường học các cấp, điều hành nhà thương, cô nhi viện, dưỡng đường, trường huấn nghệ. Về truyền thông, GH có nhà xuất bản, báo chí, đài truyền hình, đài phát thanh. Về truyền giáo, có Hội Thừa Sai Việt Nam. Các dòng ngoại quốc và dòng bản quốc được tự do phát triển. Trong khi đó, Giáo Hội tại miền Bắc bị bó tay hoàn toàn do những khó khăn xã hội. Nguyên việc lo cho người có đạo đã khó, nói gì đến việc truyền giáo. Nhiều giáo phận bị kiệt quệ về nhân sự do cuộc di cư năm 1954, và tiếp đó là khó khăn về vật lực.
1.4 Biến cố tháng 4.1975 làm cho toàn Giáo Hội Việt Nam lâm vào tình trạng khó khăn về tôn giáo. Giáo Hội mất hết mọi phương tiện để truyền giáo. Từ thập niên 1990 trở đi thì bắt đầu dễ dàng hơn nhờ sự cởi mở về tôn giáo. Các chủng viện, tu viện được chiêu sinh, việc phong chức linh mục và bổ nhiệm dần dần thuận lợi, việc xây dựng hay sửa chữa các cơ sở tôn giáo cũng dễ dàng hơn, các buổi lễ tôn giáo được tổ chức ở mọi cấp từ giáo xứ, giáo phận và toàn quốc. Các cuộc hành hương lên đến cả trăm ngàn người tại La Vang, Tà Pao, Sở Kiện, các cuộc lễ cấp giáo phận, giáo xứ được tổ chức hoành tráng, rầm rộ… Bước vào thiên niên kỷ thứ III, nhờ tiến bộ về khoa học kỹ thuật, những phương tiện truyền thông như internet, điện thoại di động, truyền hình cáp… lan rộng đến mọi nơi mọi người. Các giáo phận, hội dòng, hội đoàn và cá nhân đã vận dụng những tiến bộ này để đưa Tin Mừng đến với mọi người. Hiện nay, tuy tại một số địa phương vẫn còn những hạn chế và khó khăn về tôn giáo, nhưng phải nhìn nhận rằng GH có trong tay mọi phương thế để thực hiện công cuộc loan báo Tin Mừng, thế nhưng số người tin theo đạo vẫn không gia tăng! Nguyên nhân tại đâu ?
1.5 Trước hết do GHVN chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về công cuộc loan báo Tin Mừng. Muốn nhận thức đúng thì cần phải biết quan điểm, đường lối và hoạt động của GH về vấn đề truyền giáo. Năm mươi năm qua, GH đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng liên quan đến sứ vụ truyền giáo, mà ta có thể liệt kê những văn kiện quan trọng nhất : Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy Vọng), Sắc lệnh Ad Gentes (Đến với muôn dân), Apostolicam Actuositatem (Tông đồ Giáo dân), Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng, 1975), Thông điệp Redemptoris Missio (Sứ vụ Đấng Cứu Thế, 1990), Tông huấn Ecclesia in Asia (Giáo Hội tại Á Châu, 1999), và gần đây nhất, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui của Tin Mừng, 2013)... Nhưng đa số tín hữu Việt Nam, kể cả các linh mục, tu sĩ, không được học hỏi thấu đáo, thì không thể có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về việc loan báo Tin Mừng.
1.6 Nguyên nhân thứ hai, giáo dân Việt Nam giữ đạo rất tốt cho mình, nhưng lại thiếu nhiệt huyết thông truyền niềm tin ấy cho người khác, họ nghĩ việc truyền giáo là của ai khác, phần mình chỉ lo cho mình được rỗi. Chính sự thiếu nhiệt huyết này làm cho công cuộc loan báo Tin Mừng tại Việt Nam bị trì trệ, không có kết quả. Nhìn vào anh em Tin Lành tại Việt Nam, chúng ta thấy họ rất nhiệt tình truyền bá đạo. Trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, họ vẫn mạnh dạn và hăng say đem Tin Mừng giới thiệu cho mọi người, nhất là cho anh em dân tộc. Số tín đồ Tin Lành ngày càng cao. Tin Lành được truyền vào nước ta năm 1911, tức sau đạo Công Giáo 300 năm. Đến nay, chỉ sau 100 năm, Hội Thánh Tin Lành tại Việt Nam đã có khoảng 2.200.000 tín đồ, bằng 1/3 số giáo dân Công Giáo. Chúng ta cũng có thể nhìn vào Giáo Hội Hàn Quốc. Giáo Hội này có nhiều điểm tương đồng với GHVN : cùng ở châu Á, cùng chịu ảnh hưởng Khổng Lão Phật, cùng chịu bách hại, cùng có nhiều chứng nhân đức tin... Vào khoảng thập niên 1960, tỷ lệ giáo dân tại Hàn quốc kém Việt Nam, nhưng sau đó đã gia tăng gấp đôi, và hiện nay đã đạt trên 11%. Giáo Hội Hàn quốc còn đề ra chiến dịch truyền giáo 20-20, nghĩa là họ kỳ vọng vào năm 2020, tỷ lệ giáo dân sẽ đạt 20%.
1.7 Nguyên nhân thứ ba, đó là vì thiếu nền tảng Kitô học vững chắc. Ðể có thể rao giảng Chúa Kitô cho dân tộc Việt Nam vốn nặng về Tam giáo, cần vững vàng về học thuyết Kitô giáo. Học thuyết này sẽ giúp người tín hữu thống nhất về mặt tư tưởng cũng như hành động với Ðức Giêsu và giới thiệu Ngài cho người khác, giải đáp thỏa đáng các vấn đề về Ðức Kitô trong tinh thần đại kết và đối thoại liên tôn. Trong nỗ lực đó, một vài giáo phận như Xuân Lộc, Long Xuyên... đã tổ chức hội thảo “Kể chuyện Chúa Giêsu”. Không thể rao giảng Chúa Kitô nếu không biết Ngài. Ta biết Ngài qua Kinh Thánh, như lời thánh Hiêrônimô : “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”, biết Ngài qua giáo lý của Hội Thánh. Nhưng phải nhìn nhận rằng kiến thức về Kinh Thánh, về giáo lý nơi đa số giáo dân Việt Nam ngày nay vẫn ở mức rất thấp, rất hạn hẹp.
1.8 Đời sống đạo của người tín hữu chưa đi đôi với niềm tin. Thiếu căn bản về giáo lý, kiến thức sơ sài về đạo làm cho đạo và đời không ăn nhập với nhau trong cuộc sống. Ðời sống đạo thể hiện nơi các nghi lễ, các hoạt động bên ngoài, hơn là vào niềm xác tín và cảm nghiệm bên trong. Ngày xưa Chúa đã dùng ngôn sứ Ysaia để khiển trách dân Israel thờ kính Chúa ngoài môi miệng còn lòng trí thì xa Chúa (cf Ys 29,13). Phải chăng chúng ta quá chú trọng đến hình thức bên ngoài, tổ chức các đại hội, lễ lạc, hành hương một cách hoành tráng, tốn phí, phô trương…, mà kết quả xét về mặt truyền giáo thì không có gì!
1.9 Những thách đố của thời đại như chủ nghĩa duy vật, hưởng thụ, tương đối gây ảnh hưởng khiến cho nhiều kitô hữu chỉ sống đạo vật vờ, như mặc cái áo. Ở ngoài Bắc, do nhiều năm thiếu vắng bí tích, nhà thờ, linh mục, nhiều giáo dân đã phai nhạt đức tin hoặc mất đức tin. Bây giờ, khi mọi sự có vẻ dễ dàng hơn, đời sống vật chất đỡ hơn, thì lại bị ảnh hưởng của não trạng hưởng thụ, ngại khó, dẫn đến thái độ hờ hững, giữ đạo chiếu lệ. Đức Cha Phêrô Nguyễn Khảm trong một bài viết đăng trên báo Hiệp Thông, số 87, nêu lên ba điểm trong cách sống đạo của phái Ngũ Tuần, qua đó kêu gọi cũng phải nỗ lực như vậy nơi người Công Giáo : Believing (xác tín về niềm tin của mình) ; Belonging (cảm nhận sự gắn bó trong cộng đoàn) ; Beheaving (thể hiện niềm tin của mình, không mặc cảm, sợ hãi).
1.10 Gần đây, một vấn nạn thường được đặt ra, đó là có nên truyền giáo không ? Nhiều người chủ trương không nên, vì cho rằng việc chiêu mộ tín đồ cải đạo là xâm phạm tự do của con người. Tài liệu làm việc (Lineamenta) chuẩn bị cho THĐGM khóa XIII năm 2012, số 35-36 giải đáp vấn nạn này như sau :
“Ngày nay có một sự lầm lẫn ngày càng tăng khiến nhiều người không nghe hoặc không thi hành mệnh lệnh truyền giáo của Chúa (xem Mt 28,19). Người ta thường chủ trương rằng tìm cách thuyết phục người khác theo đạo là giới hạn tự do của họ. Theo quan điểm này, chỉ được phép trình bày ý tưởng của mình và mời gọi người ta hành động theo lương tâm họ mà không nhắm tới việc làm cho họ trở lại với Đức Kitô và đức tin Công Giáo. Có thể nói là chỉ cần giúp người ta trở nên nhân bản hơn hay trung thành hơn với đạo của họ; chỉ cần xây dựng những cộng đồng tìm kiếm công lý, tự do, hoà bình và tình liên đới. Hơn nữa, một số người còn chủ trương rằng không cần phải loan báo Đức Kitô cho những ai không biết Ngài, hoặc không cần phải khuyến khích họ vào Hội Thánh, vì họ vẫn có thể được cứu rỗi mà không cần phải minh nhiên biết Đức Kitô và không cần phải gia nhập Hội Thánh một cách chính thức” (số 35).
Thực ra, loan báo Tin Mừng để mời gọi người khác vào đạo vẫn là điều cần thiết :
“Mặc dù những người không phải là Kitô hữu vẫn có thể được cứu rỗi nhờ ân sủng Thiên Chúa ban cho, bằng những cách chỉ một mình Người biết, song Hội Thánh không thể không biết rằng mỗi con người đều muốn biết khuôn mặt thật của Thiên Chúa và vui hưởng hôm nay tình bạn của Đức Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Việc gắn bó với Đức Kitô, Đấng là Sự Thật, và trở nên thành viên của Hội Thánh Người không làm giảm tự do con người, nhưng đúng hơn nó gia tăng tự do và dẫn đưa tự do tới chỗ hoàn thiện nhờ một tình yêu xả kỷ và sự chăm lo cho hạnh phúc của mọi người. Quả là một món quà vô giá khi được sống trong vòng tay yêu thương của tất cả các bạn hữu của Thiên Chúa, nhờ được hiệp thông với thịt và máu ban sự sống của Con Thiên Chúa; và quả là vô giá khi đón nhận từ Người sự chắc chắn rằng tội lỗi của chúng ta được tha, và được sống trong tình yêu phát sinh từ đức tin! Hội Thánh muốn mọi người được dự phần vào sự giàu có ấy, để họ có thể đạt được chân lý sung mãn và các phương thế cứu độ, để “được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,21). Khi loan báo và thông truyền đức tin, Hội Thánh bắt chước chính Thiên Chúa, Đấng tự thông ban chính mình cho nhân loại bằng việc ban Con của Người là Đấng đổ tràn Thánh Thần để mọi người có thể được tái sinh làm con cái Thiên Chúa” (số 36)
Sắc lệnh Ad Gentes số 7 cũng quả quyết : “Dù Thiên Chúa có thể dùng những đường lối Ngài biết để đưa những kẻ không vì lỗi mình mà chưa biết Phúc Âm đến với đức tin, vì không có đức tin thì không thể làm vui lòng Ngài, nhưng Giáo Hội có bổn phận và đồng thời có thánh quyền rao giảng Phúc Âm ; do đó, ngày nay và luôn mãi, hoạt động truyền giáo vẫn còn giữ trọn vẹn hiệu lực và cần thiết”.
ĐTC Phaolô VI khẳng định vị trí ưu tiên của việc rao giảng Tin Mừng và nhắc nhở các tín hữu: “Sẽ rất ích lợi nếu mỗi Kitô hữu và mỗi người rao giảng Tin Mừng cầu nguyện theo ý tưởng này: người ta cũng có thể được cứu rỗi bằng những cách thức khác, cho dù chúng ta không rao giảng Tin Mừng cho họ; nhưng đối với chúng ta, liệu chúng ta có thể được cứu rỗi hay không nếu vì sự trễ nải, sợ hãi hay hổ thẹn - điều mà Thánh Phaolô gọi là ‘xấu hổ vì Tin Mừng’ - hay vì những tư tưởng sai lạc mà chúng ta không rao giảng Tin Mừng?” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi)
2. Còn nhiều điều cần phân tích thêm, nhưng ta hãy tạm bằng lòng với bấy nhiêu cái được và chưa được. Tâm tình của chúng ta khi nhìn về những điều đã làm được trong quá khứ là tạ ơn Chúa; về những điều chưa làm được là xin ơn hoán cải mục vụ để đẩy mạnh hơn sự canh tân sứ vụ loan báo Tin Mừng như ĐTC Phanxicô kêu gọi trong tông huấn EG số 25-33. Hướng về tương lai, ta thử rảo qua những điều cần phải làm, những lãnh vực phải lưu tâm, để canh tân công cuộc loan báo Tin Mừng cho hợp với thời đại hiện nay tại Việt Nam.
2.1 Trước hết, về phương diện cá nhân, sứ vụ loan báo Tin Mừng chỉ có hiệu quả nếu mỗi người kitô hữu có được mối tương quan cá nhân với Chúa Kitô, nói như thánh Phaolô : “Tôi biết tôi đã tin vào Đấng nào” (2Tm 1,12). Chính sự xác tín vào Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ sẽ thúc đẩy người ấy mạnh dạn sống và loan báo Ngài cho người khác, như hai tông đồ Phêrô và Gioan đã mạnh dạn nói trước Thượng hội đồng khi bị cấm rao giảng về Đức Giêsu: “Những gì tai đã nghe, mắt đã thấy, chúng tôi không thể không nói ra” (Cv 4,20). Đức Thánh Cha Phanxicô viết trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng : “Tôi kêu mời mọi kitô hữu ở khắp nơi, ngay từ lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Giêsu Kitô” (EG số 3). Tài liệu làm việc của THĐGM khóa XIII cũng viết: “…việc tái khám phá tâm điểm của việc tân phúc âm hoá, đó là, sự trải nghiệm đức tin Kitô giáo : gặp gỡ với Đức Kitô, Tin Mừng của Thiên Chúa Cha cho nhân loại, là Tin Mừng biến đổi chúng ta, tập hợp chúng ta lại và dẫn đưa chúng ta, nhờ hồng ân Chúa Thánh Thần, tới một sự sống mới mà chúng ta bây giờ đã trải nghiệm rồi, ngay trong việc chúng ta cảm nhận mình được qui tụ thành Hội Thánh. Đồng thời, sự sống này là nguyên nhân của niềm vui thúc đẩy chúng ta làm những chứng nhân và người hân hoan loan tin về hồng ân đã nhận, đi khắp các nẻo đường trên thế giới, trong khi ngóng đợi sự hoàn thành Nước Thiên Chúa” (số 17).
2.2 Để có mối liên hệ mật thiết với Đức Giêsu Kitô, thì sự học hỏi Tin Mừng, giáo lý và huấn quyền của Giáo Hội, là những điều cần thiết cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Đã đến lúc GHVN phải quan tâm đào sâu sự hiểu biết này, chứ không thể để tình trạng dốt nát hiểu biết về Chúa tồn tại. Với những phương tiện và khả năng hiện có trong tầm tay, chúng ta không còn có thể đổ lỗi cho bất cứ ai hay bất cứ hoàn cảnh nào ngăn cản sự học hỏi, đào sâu kiến thức đạo. Giáo lý là nền tảng, là cái móng của cả tòa nhà, nếu không vững chắc thì cả tòa nhà sẽ sụp đổ. Phần lớn những người bỏ đạo hay hờ hững là vì họ không hiểu biết Tin Mừng và giáo lý đó thôi. Trong đại hội LBTM năm nay, chúng ta vui mừng sẽ được nghe Đức Cha Giuse Nguyễn Năng, chủ tịch UBGLĐT/HĐGMVN thuyết trình về đề tài “Dạy giáo lý theo định hướng truyền giáo” rất thích hợp.
2.3 Khích lệ và tạo điều kiện để giáo dân tham gia vào sứ vụ truyền giáo. Công đồng Vatican II đề cao vai trò đi đầu của người tín hữu trong mọi phương diện, nhất là truyền giáo. Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân của công đồng Vatican II cho ta một số nhận định về vai trò truyền giáo của giáo dân như sau :
- Người giáo dân góp phần loan báo Tin Mừng bằng chứng tá đời sống và bằng lời rao giảng của họ: “Chính chứng tá của đời sống Kitô hữu và những việc lành được làm với tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa, vì Chúa phán: "Sự sáng của các con phải chiếu giãi trước mắt mọi người, để họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời" (Mt 5,16). Tuy nhiên việc tông đồ này không chỉ ở tại việc làm chứng bằng đời sống. Người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói hoặc cho người chưa tin để đưa họ đến đức tin, hoặc cho tín hữu để giáo huấn họ, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn "vì tình yêu Chúa Kitô thôi thúc chúng ta" (2 Cor 5,14) và trong lòng mọi người phải âm vang lời Thánh Tông Ðồ: "Thật khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Phúc Âm" (1Cor 9,16) (TĐGD số 6) ;
- “Trong những miền thiếu linh mục hay khi các ngài không được tự do thi hành chức vụ, thì Giáo Hội khó có thể hiện diện và hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác” (TĐGD số 1) ; “Việc tông đồ cá nhân có môi trường hoạt động đặc biệt trong những miền người Công Giáo ít oi và tản mát”. (TĐGD số 17). “Việc tông đồ cá nhân này rất cần thiết và cấp bách trong những miền mà tự do của Giáo Hội bị cản trở trầm trọng. Trong những hoàn cảnh khó khăn đó, giáo dân tùy khả năng thay thế linh mục, họ liều mất tự do của mình và đôi khi ngay cả mạng sống mình để dạy giáo lý Công Giáo cho những người chung quanh, huấn luyện cho những người ấy biết sống đạo và khuyến khích họ năng lãnh nhận các bí tích và đặc biệt tôn sùng phép Thánh Thể. Thánh Công Ðồng hết lòng tạ ơn Thiên Chúa đã không ngừng cho xuất hiện ngay cả trong thời đại chúng ta những người giáo dân can đảm phi thường giữa những cơn bách hại. Thánh Công Ðồng lấy tình người cha yêu thương và tri ân họ” (TĐGD số 16). (Tại giáo phận Hưng Hóa, có những cộng đoàn người H’Mông suốt mấy chục năm không có bóng dáng linh mục, không nhà thờ, không bí tích, nhưng họ vẫn giữ được đức tin nhờ chính những người giáo dân dạy giáo lý cho nhau, rửa tội cho nhau, và đùm bọc nhau giữ đạo, bất chấp mọi ngăn cản, cấm đoán. Thật đáng ngưỡng phục những con người đơn sơ nghèo hèn bé mọn này !).
- Muốn thế, điều cần thiết là phải huấn luyện người tín hữu sâu sắc về đức tin, trang bị cho họ vốn kiến thức giáo lý. “Việc tông đồ chỉ đạt tới kết quả mỹ mãn nhờ việc huấn luyện đầy đủ và chuyên biệt” (TĐGD số 28), điều mà chúng ta thấy còn rất thiếu nơi tín hữu Việt Nam, chính vì thế mà họ ngại ngùng không dám nói về niềm tin của mình.
Trong đại hội LBTM này, chúng ta sẽ được nghe cha Trưởng ban LBTM giáo phận Xuân Lộc trình bày về việc đào tạo tác viên Tin Mừng là những giáo dân, cũng như hoạt động của họ, được biết là mang lại nhiều kết quả. Đây cũng là tân Phúc-Âm hóa bằng phương pháp mới. Ước mong kế hoạch đào tạo tác viên Tin Mừng được nhân rộng tại các giáo phận Việt Nam.
2.4 GHVN phải đáp ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô : “Ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình, để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng” (EG số 20). Đây là âm vang lệnh lên đường của Chúa Giêsu trước khi về trời : “Anh em hãy ra đi khắp tứ phương thiên hạ, giảng dạy cho muôn dân và làm phép rửa cho họ”. Thật đáng ngưỡng mộ khi một số hội dòng trong nước đã gửi tu sĩ của mình ra đi đến năm châu bốn bể để loan báo Tin Mừng, mặc dù trong nước vẫn còn nhiều nơi anh em đồng bào của ta chưa được biết Chúa là ai. Công cuộc truyền giáo và tái truyền giáo vẫn còn ngổn ngang và bức thiết. Đạo Công Giáo đã hiện diện tại Việt Nam trong 4 thế kỷ, thế mà còn rất nhiều người Việt nam chưa biết Chúa là Đấng nào, nhiều đồng bào dân tộc chưa hề được nghe nói về Chúa ! (Tại Hưng Hóa, sau 70 năm (từ 1945) sống dưới chế độ, rất nhiều anh chị em giáo hữu từ các giáo phận miền đồng bằng đến lập nghiệp tại các tỉnh vùng Tây Bắc đã lơ là nguội lạnh, thậm chí mất đức tin. Con số lên đến trăm ngàn người chứ không ít !). Chúng ta phải cảm nghiệm bài học thấm thía của dụ ngôn tìm chiên lạc : Người mục tử tốt lành ấy dám để 99 con trong hoang địa để đi tìm con chiên lạc cho bằng được. Thấy rồi, anh vác chiên lên vai, đem về nhà, mời bạn bè chung vui. Chúng ta nhìn nhận rằng GHVN vẫn còn thờ ơ với sứ vụ loan báo Tin Mừng. Các linh mục chỉ mới lo cho các con chiên ngoan đạo, còn chiên lạc đàn thì chưa quan tâm đến. Các dòng tu còn lẩn quẩn với việc mưu sinh hoặc lo phát triển cơ sở vật chất, chưa dám mạnh dạn dấn thân ra đi đến vùng sâu vùng xa, vùng “ngoại vi”. ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc, trong bài nói chuyện với hội nghị Bề trên Thượng cấp các dòng tại K’Long ngày 5.11.2013 đã nói : “Giáo Hội tại Việt Nam trong thời hiện đại, chưa chu toàn đầy đủ sứ vụ loan báo Tin mừng. Có những cố gắng còn rời rạc, chưa được nối kết và hướng dẫn. Cần phải có một sự “chuyển mình thật mạnh dạn”, thật can đảm từ “mục vụ bảo trì” (pastorale de maintien), gìn giữ và bảo vệ cơ chế, cơ sở, sang “mục vụ truyền giáo” đích thực (pastorale missionnaire)”. Chúng ta mong GHVN mạnh dạn đứng dậy, mở cửa, ra đi mọi miền, để đem Tin Mừng Chúa đến với anh chị em đồng bào. Ước gì các giáo phận dồi dào về nhân lực và vật lực sẵn sàng chia sẻ với các giáo phận thiếu thốn. (Lấy giáo phận Hưng Hóa làm thí dụ : đây là giáo phận rộng mênh mông bao la, diện tích 54.500 km2, có nhiều dân tộc thiểu số (27/54 dân tộc), địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, dân cư tản mát. Giáo phận chịu nhiều thương đau trong suốt 70 năm qua, từ 1945. Vì phải trải qua một thời gian dài không có giám mục, linh mục, bí tích, cộng đoàn, nên con số tín hữu lơ là nguội lạnh rất nhiều. Công cuộc truyền giáo và tái truyền giáo tại đây thật bức thiết. Hiện tại, giáo phận vẫn còn ít linh mục, tu sĩ, về vật chất cũng thiếu thốn vì giáo dân nghèo. Giáo phận Hưng Hóa mong được các giáo phận có nhiều linh mục tu sĩ san sẻ nhân sự giúp cho theo mô hình Fidei Donum, trong khi chờ đợi giáo phận có thêm các linh mục, nhưng xem ra khó được hưởng ứng).
2.5 Các lãnh vực cần Tân Phúc-Âm hóa ngày nay, cách riêng tại Việt Nam, theo Lineamenta của THĐGM khóa XIII.
- Lãnh vực văn hóa : Trào lưu tục hóa đang lan tràn nhanh tại Việt Nam. Do ảnh hưởng thuyết vô thần thực tiễn, não trạng hưởng thụ vật chất ngày càng tăng, người Việt Nam xưa vốn dễ hướng chiều về tôn giáo, nay dễ dàng loại trừ hoặc dửng dưng với niềm tin tôn giáo. Hoặc họ bằng lòng với những hình thức tín ngưỡng tâm linh lệch lạc để bù trừ và để trấn an tâm hồn vốn khát vọng Đấng Chân Thiện Mỹ đích thật. Ngay nơi những tín hữu Công Giáo, ta cũng dễ nhận thấy tâm thức tín ngưỡng cầu khẩn, vụ lợi. Một tâm thức như thế sẽ khó đứng vững trước những thử thách của đức tin. Lãnh vực này thật là một thách thức cho công cuộc Tân Phúc-Âm hóa tại Việt Nam, đòi hỏi chúng ta có nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới cho thích hợp với người thời đại thì mới mong thành công.
- Lãnh vực xã hội : Tại Việt Nam, hiện tượng di dân về các thành phố lớn để kiếm sống đã làm xáo trộn những truyền thống tốt đẹp như tình gia đình, nghĩa vợ chồng, tình làng xóm, để nghiêng theo chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ. Hiện tượng di dân cũng tác động nặng nề để dễ đánh mất niềm tin và sự thực hành tôn giáo nơi những tín hữu trẻ tuổi trong môi trường xa lạ, thiếu vắng sự nâng đỡ của xứ đạo, gia đình, hội đoàn. Đây chính là “vùng ngoại vi” mà công cuộc tân Phúc-Âm hóa cần thâm nhập.
- Lãnh vực kinh tế : Tại Việt Nam, sự chênh lệch giàu nghèo rất lớn, kéo theo nhiều vấn đề : di dân kinh tế, hấp lực của đồng tiền, phân biệt đối xử, làm ăn bất chính, bạo lực, luân lý suy đồi, tham nhũng hối lộ…, trong nhiều trường hợp dẫn đến chỗ dửng dưng với tôn giáo. Sách Châm Ngôn 30,7: “Xin đừng để con túng nghèo, cũng đừng cho con giàu có; chỉ xin cho con cơm bánh cần dùng, kẻo được quá đầy dư, con sẽ khước từ Ngài mà nói : "Đức Chúa là ai vậy?" hay nếu phải túng nghèo, con sinh ra trộm cắp, làm ô danh Thiên Chúa của con”. Tân Phúc-Âm hóa thực tế là GH phải nêu chứng tá nghèo khó, gần gũi người nghèo, đứng về phía họ theo lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô: “Tôi muốn một GH nghèo”. Đồng thời, GH phải mạnh dạn nói không với một nền kinh tế loại trừ (EG. 53), với ngẫu tượng mới là tiền bạc (EG. 55-56), với một hệ thống tài chánh thống trị thay vì phục vụ (EV. 57-58), với tình trạng bất bình đẳng, nguồn gốc của bạo lực (EV. 59). Chỉ có thể làm những việc này nếu có nhiệt huyết mới của công cuộc Tân Phúc-Âm hóa, nhất là làm gương sáng về một đời sống thanh bần.
- Lãnh vực dân sự : Cho đến nay, xem ra người Công Giáo Việt Nam vừa bị gạt ra bên lề xã hội, vừa thụ động không muốn dấn thân trong lãnh vực này, trong khi GH muốn chúng ta “nhập thế”, bởi công cuộc Tân Phúc-Âm hóa cũng phải quan tâm đến lãnh vực này, như quyết tâm xây dựng và cổ vũ nền hoà bình; phát triển các dân tộc; các qui định luật pháp quốc tế tốt hơn và sự tương tác của các chính phủ mỗi nước; lắng nghe, đối thoại và hợp tác giữa các nền văn hoá và các tôn giáo khác nhau (đối thoại liên tôn); bảo vệ các quyền con người và các dân tộc, đặc biệt các nhóm thiểu số; thăng tiến các thành phần dễ bị tổn thương nhất; và sự toàn vẹn của tạo dựng và một sự dấn thân cho tương lai của hành tinh chúng ta (Thông điệp Laudato si’ về môi trường). Nhiều Giáo Hội địa phương (vd Hàn quốc) đang dấn thân hoạt động cho những vấn đề này, chuyên cần theo đuổi và cổ vũ chúng trong đời sống hằng ngày của các cộng đoàn chúng ta.
- Lãnh vực nghiên cứu khoa học và công nghệ : Thời đại hiện nay có những thành tựu kỳ diệu đáng kinh ngạc trong lãnh vực này. Trong một thế giới số và toàn cầu hoá, khoa học và kỹ thuật có nguy cơ trở thành những thần tượng mới, ‘tôn giáo mới”, hứa hẹn sự thịnh vượng và thoả mãn tức thời.
- Lãnh vực truyền thông, cách riêng internet : Lãnh vực này đang thời thượng, vì cống hiến cho con người nhiều cơ hội để phát triển mọi mặt, nhưng nó cũng lại là một thách đố cho Hội Thánh. Không một nơi nào trên thế giới hôm nay mà truyền thông không thể tới được, và vì thế mọi nơi đều chịu ảnh hưởng của nền văn hoá số và điện toán. Các phương tiện truyền thông này mau chóng trở thành “diễn đàn” của đời sống dân sự và trải nghiệm xã hội, được thấy rõ qua sự phổ biến của internet. Các công nghệ truyền thông phải được chúng ta nhìn một cách tích cực, không thành kiến, như là một nguồn lực đòi chúng ta phải có con mắt phân định và biết sử dụng chúng một cách khôn ngoan và có trách nhiệm. Hội Thánh đã sử dụng các phương tiện này như một công cụ hữu ích để loan báo Tin Mừng. Ngày nay, cùng với các phương tiện truyền thông có tính truyền thống hơn, đặc biệt sách báo và truyền thanh, thì các media mới đang ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng trong tác vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh, giúp tạo ra sự tương tác ở nhiều cấp khác nhau: địa phương, quốc gia, châu lục và toàn cầu. Chúng ta thấy rất rõ tiềm năng trong việc sử dụng cả các phương tiện cũ và mới, cần có một tiến trình phân định chăm chú và được chia sẻ, không chỉ để thẩm định tốt hơn các tiềm năng sử dụng chúng trong việc loan báo Tin Mừng, nhưng còn để hiểu đúng những nguy cơ và hiểm họa có thể có (cf. Lineamenta số 61). Biết khôn ngoan sử dụng mặt tích cực của media vào công cuộc LBTM chính là áp dụng phương pháp và cách diễn tả mới của cuộc Tân Phúc-Âm hóa vậy. (Đức Cha Cosma Hoàng Văn Đạt đã nhận lời đến thuyết trình cho đại hội, nhưng vào phút chót, ngài lâm bênh không thể đến. Tuy nhiên, ngài đã có sáng kiến thu hình và âm thanh để gửi đến đại hội, đấy cũng là một phương pháp mới để tân Phúc-Âm hóa).
- Lãnh vực tôn giáo : Ngày nay, trong khi khuynh hướng loại trừ, dửng dưng với tôn giáo gia tăng, thì đồng thời lại có khuynh hướng quay về với tôn giáo nhờ các hình thức linh đạo mới, đặc biệt nơi giới trẻ. Người Việt nam nói chung hiện vẫn có niềm tin tín ngưỡng trong cuộc sống, tuy vẫn dễ có những lệch lạc ngộ nhận như mê tín dị đoan. Giới trẻ vẫn còn gắn bó với tôn giáo, người đi tu vẫn còn nhiều. Tuy nhiên, phải giúp họ xác tín hơn nữa vào tôn giáo đích thật, tìm cho cuộc sống có ý nghĩa. Giới trẻ thật sự cần tân Phúc-Âm hóa để có niềm tin vững chãi trước những thách đố khi vật chất lên cao và khuynh hướng hưởng thụ cám dỗ.
2.6 Nhìn vào xã hội và Giáo Hội Việt Nam hôm nay, chúng ta nhận thấy cần phải Tân Phúc-Âm hóa với nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới để sứ vụ loan báo Tin Mừng có thể đơm hoa kết trái. Xin nêu lên một số lãnh vực và hoạt động mục vụ cần quan tâm như sau :
- Phát triển mô hình cộng đoàn cơ bản, các nhóm nhỏ cùng chí hướng, hoạt động, sở thích, để cá nhân dễ hòa nhập và không cảm thấy xa lạ hay bị lãng quên.
- Huấn luyện giáo dân và tạo điều kiện để họ cộng tác vào sứ vụ loan báo Tin Mừng, như đã trình bày ở trên.
- Cổ vũ sự phối hợp giữa các Ủy ban thuộc HĐGMVN, không phải mỗi ủy ban hoạt động riêng rẽ, độc lập. Trong Đại hội này, chúng ta vui mừng có sự tham dự của một số đại diện các Ủy ban thuộc HĐGMVN, để trao đổi thêm về hoạt động chung với nhau trong hướng loan báo Tin Mừng, vì tất cả mọi hoạt động của GH đều liên quan đến sứ vụ loan báo Tin Mừng.
- Công cuộc Tân Phúc-Âm hóa để loan truyền đức tin được nhắm đến ba đối tượng : 1/ các kitô hữu vẫn giữ đạo ; 2/ những người đã được rửa tội nhưng nguội lạnh, để mời họ hoán cải, phục hồi niềm vui của đức tin ; 3/ những người chưa biết Chúa hay chối bỏ Ngài. (cf. EV.14). Cho đến nay, nói chung, chúng ta chỉ mới chú trọng làm mục vụ cho những người đang giữ đạo, những con chiên ngoan hiền, chứ chưa quan tâm đủ đến những người khô khan nguội lạnh, hay những người chưa hề biết Chúa, những người có cái nhìn sai lầm về Thiên Chúa và Giáo Hội Công Giáo. GHVN cần mạnh dạn ra đi, đến với những người anh em này để loan báo Tin Mừng, đúng với ý nghĩa Ad Gentes là đến với muôn dân, với người chưa tin nhận Chúa. Họ cũng có quyền được biết Chúa và làm con của Ngài. Các giám mục phải dành một phần nhân lực và vật lực để LBTM cho những người chưa biết Chúa : “Giám Mục phải lo liệu để hoạt động tông đồ không chỉ giới hạn cho những người đã tòng giáo, nhưng phải dành một phần nhân lực và vật lực tương đương vào việc rao giảng Phúc Âm cho những người ngoài Kitô giáo” (AG.30)
- Hướng đến những anh chị em dân tộc thiểu số. Những người này cho đến nay vẫn chịu nhiều thiệt thòi, cả về vật chất lẫn tinh thần. (Cụ thể tại Hưng Hóa, có đến 27/54 dân tộc thiểu số, nhưng mới chỉ có một vài dân tộc như Mường, H’Mông, Thái, Mán được biết Chúa, còn những dân tộc khác chưa hề được nghe rao giảng Tin Mừng).
- GHVN cần thận trọng kẻo rơi vào khuynh hướng phô trương : xây nhà thờ lộng lẫy, hoang phí; tổ chức các cuộc lễ hoành tráng, tốn kém rất nhiều, mà chưa dám dốc lực vào việc truyền giáo. Nên bớt đi những xa hoa phù phiếm, để dành vật lực vào công cuộc LBTM đúng nghĩa.
- Chia sẻ nhân lực với những giáo phận đang thiếu linh mục, tu sĩ truyền giáo. Đây chính là điều công đồng Vatican II đã nói đến, trước hết đối với các giám mục : “Tùy sức có thể, các giám mục hãy lo gửi một số linh mục của mình đến thi hành thánh vụ tại những xứ truyền giáo và các giáo phận nói trên vĩnh viễn hay ít là trong một thời gian hạn định” (CD. 6; AG. 19) ; đối với các linh mục, cũng vậy, các vị phải sẵn sàng dấn thân cho những nơi cần đến : “Các linh mục phải tỏ ra sẵn sàng, và khi có dịp, các ngài phải hăng say tình nguyện để Ðức Giám Mục sai đi khởi công truyền giáo tại những miền xa xôi và bị bỏ rơi trong giáo phận mình hoặc trong các giáo phận khác” (AG. 20). “Vì ngày càng cần nhiều thợ vườn nho Chúa và vì các linh mục giáo phận cũng ước ao ngày càng được góp phần lớn hơn vào việc rao giảng Phúc Âm cho thế giới, nên Thánh Công Ðồng rất ước mong các Giám Mục, trong khi cân nhắc về việc thiếu linh mục rất trầm trọng đang cản trở việc rao giảng Phúc Âm cho nhiều miền, hãy sai đến những giáo phận thiếu giáo sĩ vài linh mục xuất sắc đã tự hiến để làm việc truyền giáo và đã được chuẩn bị đầy đủ, để họ thi hành thừa tác vụ truyền giáo với tinh thần phục vụ ít là trong một thời gian” (AG. 38) ; các dòng tu hoạt động phải sẵn sàng cộng tác vào sứ vụ LBTM : “Còn các Hội Dòng sống đời hoạt động, hoặc theo đuổi mục đích hoàn toàn truyền giáo hoặc không, đều phải thành thật tự vấn trước mặt Chúa xem mình có thể bành trướng hoạt động vào việc mở rộng Nước Chúa nơi muôn dân không; xem mình có thể trao một số thừa tác vụ cho những người khác để cống hiến sức lực mình cho các xứ truyền giáo không; xem mình có thể khởi công hoạt động trong các xứ truyền giáo bằng cách thích nghi Hiến Pháp của mình nếu cần, mà vẫn theo tinh thần của Vị Sáng Lập không; xem các tu sĩ của mình có thể tùy sức tham gia vào hoạt động truyền giáo không; xem cách sống thường xuyên của họ có phải là một chứng tá của Phúc Âm được thích nghi với đặc tính và hoàn cảnh của dân chúng không” (AG. 40).
- Quảng đại đóng góp vật chất cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo. Từ vài năm nay, GHVN đã đóng góp nhiều hơn so với những năm trước cho các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, tuy vẫn không tương xứng với việc nhận lại sự trợ giúp từ các Hội này. Điều này đặt cho chúng ta một suy nghĩ, đó là phải chăng đã đến lúc GHVN phải tự túc tự lực, không nên ngửa tay nhận sự trợ giúp từ Tòa Thánh nữa, vì chúng ta đã nhận quá nhiều và quá lâu, đồng thời đóng góp quảng đại hơn nữa để các hội Giáo Hoàng Truyền Giáo có thể giúp các Giáo Hội cần hơn.
Trên đây mới chỉ là một số nhận định, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Vì thế trong giờ thảo luận tiếp theo, xin các tham dự viên bổ túc về những gì mà GHVN cần làm trong tương lai, để canh tân sứ vụ LBTM tại Việt Nam sao cho có kết quả hơn. UBLBTM trân trọng đón nhận mọi suy tư, góp ý, đề nghị, đến từ mỗi tham dự viên, bất luận là giáo dân, tu sĩ hay linh mục.
Kết luận :
Ai trong chúng ta cũng đều mong ước được thấy một cánh đồng phong nhiêu vào ngày mùa, với những bông lúa nặng trĩu ba mươi, sáu mươi, một trăm hạt, đong đưa dưới ánh nắng rực rỡ, trong làn gió thơm thoảng, và nụ cười tươi nở trên khuôn mặt bác nông dân. Ngày mùa bội thu ấy chỉ đến sau một quá trình gian khổ, khom lưng trên cánh đồng để chăm sóc cây lúa : “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa gặt mai sau khấp khởi mừng” (Tv 125,5).
Xin Chúa Cha ban Chúa Thánh Thần đến giúp chúng ta tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Trong tâm tình cầu nguyện, chúng ta hãy để cho những lời Chúa về sứ vụ truyền giáo âm vang trong tâm hồn, củng cố niềm tin-cậy-mến của chúng ta, những môn đệ Ngài.
- “Đẹp thay bước chân người rảo khắp núi đồi để loan báo tin vui, tin bình an” (Is 52,7).
- “Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,18-19).
- “Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ, Người nói với môn đệ rằng : "Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về" (Mt 9,35-38).
- “Đức Giêsu nói với các ông : “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20).
+ Anphong Nguyễn Hữu Long
Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hóa
Chủ tịch UBLBTM/HĐGMVN
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Trời Xuân Ngày Hạ
Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)
20:59 06/09/2015
Ảnh của Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)
Chàng ơi! chàng ơi, sự lạ đêm qua!
Mùa xuân tới mà không ai biết cả...
(Trích thơ của Hàn Mặc Tử)
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 1 – 06/09/2015: Chuyến tông du 3 nước Phi Châu của Đức Thánh Cha Phanxicô
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
17:52 06/09/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến thăm Kenya, Uganda, và Cộng hòa Trung Phi trong tháng Mười Một. Đức Tổng Giám Mục Charles Daniel Balvo, sứ thần tại Kenya, nói với Đài phát thanh Vatican rằng chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng sẽ bắt đầu tại Nairobi, thủ đô của Kenya.
Từ Nairobi, ngài sẽ sang Kampala, thủ đô của Uganda; và kết thúc chuyến đi tại Bangui, thủ đô của Cộng hòa Trung Phi.
Một lịch trình đầy đủ về chuyến tông du này sẽ được công bố vào tháng Mười
82.5% trong tổng số 45 triệu dân Kenya theo Kitô Giáo trong đó người Công Giáo chiếm 24% dân số. Người Hồi Giáo chỉ chiếm 11% tại quốc gia. Tuy nhiên, trong thời gian qua, nhiều nhóm cực đoan Hồi Giáo đã muốn biến Kenya thành một quốc gia Hồi Giáo. Lúc 5:30 sáng ngày thứ Năm 2 tháng 4, tức là thứ Năm Tuần Thánh vừa qua, bọn khủng bố Al-Shabaab với chủ trương nhằm thiết lập một nhà nước Hồi Giáo theo luật Sharia tại Kenya đã gây ra cuộc thảm sát tại Đại Học Garissa, cách thủ đô Nairobi của Kenya 350km về hướng Đông Bắc và cách biên giới với Somali 150km. 148 sinh viên bị giết chết và 79 sinh viên khác bị thương nặng.
Mohamed Mohamud, một thầy giáo người Kenya đã dạy học nhiều năm tại nước này cùng với Abdirahim Abdullahi, đã từng tốt nghiệp Luật Khoa tại đại học Nairobi vào năm 2013 và là con trai của tỉnh trưởng tỉnh Mandera, ở phía Bắc Kenya, giáp biên giới với Kenya đã dẫn đường cho bọn khủng bố Al-Shabaab từ Somali đột nhập vào Kenya gây ra cuộc thảm sát này. Abdirahim Abdullahi bị bắn chết cùng với 3 tên khủng bố khác trong khi Mohamed Mohamud nhanh chân tẩu thoát. Chính phủ trao giải thưởng lên đến 215,000 Mỹ Kim cho ai chỉ điểm dẫn đến việc bắt sống hay giết chết y nhưng đến nay vẫn chưa biết tông tích tên khủng bố này.
Kenya có 4 tổng giáo phận, 21 giáo phận và một miền Giám Quản Tông Tòa.
2. Vài nét về Giáo Hội tại Uganda
Chặng thứ hai trong chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô là nước Uganda.
Uganda có 31,100,000 dân trong đó 42% là người Công Giáo thuộc 4 tổng giáo phận và 16 giáo phận.
Người dân Uganda thuộc 50 nhóm chủng tộc khác nhau, trong đó đông nhất là bộ tộc Baganda, Bakiga và Banyankore. Cùng vì nhiều sắc tộc như thế, nên ngôn ngữ chính thức tại Uganda là tiếng Anh, ngôn ngữ bán chính thức là Kishwahili, trong khi tiếng Lugana chỉ được dùng trong việc giao dịch buôn bán.
Uganda có đa số dân theo Kitô giáo, trong số này đông nhất 42% theo Công Giáo, tức là gần 12 triệu 700 ngàn tín hữu, tiếp đến là 40% theo Anh giáo, phần còn lại là các giáo phái khác, đặc biệt là các nhóm Pentecostal, 5% theo đạo cổ truyền của Phi châu và sau cùng là 12% theo Hồi giáo.
Ơn gọi linh mục tại Uganda rất đông nhưng thiếu các chủng viện và những phương tiện cần thiết để đào tạo linh mục nên Giáo Hội tại đây vẫn trong tình trạng thiếu linh mục trầm trọng. Theo tổ chức Trợ Giúp Các Giáo Hội Đau Khổ, mỗi một linh mục ở Uganda phải phục vụ số giáo dân nhiều gấp 10 hay 20 lần tại Âu Châu.
Do nhiều nơi không có linh mục coi sóc, năm 2010, một nhóm khoảng 20 người tự xưng là linh mục Công Giáo đã thành lập ra cái gọi là Giáo Hội Công Giáo Tông Truyền Uganda với chủ trương chống lại luật độc thân linh mục, lôi kéo được trên 10,000 người. Leonard Lubega, người lãnh đạo giáo phái này, tự gọi mình là linh mục dù ông ta chưa từng được truyền chức linh mục. Một nhân vật lãnh đạo khác của giáo phái này từng là một linh mục Chính thống giáo, chứ không phải linh mục Công Giáo.
3. Vài nét về Giáo Hội tại Cộng hòa Trung Phi
Cộng hòa Trung Phi có 5,390,000 dân trong đó 25% là người Công Giáo sinh hoạt trong một tổng giáo phận là tổng giáo phận thủ đô Bangui và 8 giáo phận. Tình hình an ninh tại Cộng hòa Trung Phi là rất đáng lo ngại. Thật vậy, các diễn biến gần đây cho thấy quân Hồi Giáo Seleka đã được tăng viện bởi các nhóm khủng bố quốc tế đặc biệt là từ Cộng Hòa Chad, nơi dung thân của quân Seleka.
Cuộc xung đột tại Cộng Hòa Trung Phi đã bùng lên từ ngày 10 tháng 12 năm 2012 giữa quân đội nước này và phiến quân Hồi Giáo Séléka. Do các yếu tố bất ngờ, đến cuối tháng 12 năm 2012, quân Hồi Giáo đã chiếm được nhiều thành phố và ngày 24 tháng Ba năm 2013 chiếm được thủ đô Bangui. Lãnh đạo phiến quân là Michel Djotodia được đưa lên làm tổng thống.
Quân Hồi Giáo Séléka bắt tay ngay vào việc cướp bóc, hãm hiếp, và thủ tiêu các tín hữu Kitô. Nhóm Hồi Giáo cực đoan này thực hiện âm mưu Hồi Giáo hóa đất nước bằng một cuộc diệt chủng người Kitô Giáo trên một quy mô lớn đến mức chính Michel Djotodia đã bất ngờ tuyên bố từ chức và đào vong ở nước ngoài hôm 10 tháng Giêng năm 2014 để tránh bị bắt đưa ra trước tòa án quốc tế về tội ác chống nhân loại.
Từ tháng Hai năm 2014, quân Séléka như rắn mất đầu đã mất quyền kiểm soát trên hầu hết các thành phố lớn tại Cộng Hòa Trung Phi và phải rút chạy sang Chad. Tuy nhiên, nhóm Hồi Giáo cực đoan này nhận được tăng viện cả về khí tài chiến tranh lẫn nhân sự và đã có khả năng trở lại gây chiến ngay tại thủ đô Cộng Hòa Trung Phi.
4. Tờ Quan Sát Viên Rôma đả kích một giáo xứ cử hành tang lễ cho một tên trùm Mafia huy hoàng như lễ phong thánh
Đám tang của một tên trùm mafia tại một giáo xứ ở Rôma đã gây ra sự tức giận tại Italia và khiến các chính trị gia thay nhau đưa ra những lời đả kích dữ dội.
Trưóc mặt tiền nhà thờ San Giovanni Bosco ở ngoại ô thành phố Rôma treo một bức chân dung rất lớn của tên trùm Vittorio Casamonica, 65 tuổi, như người ta vẫn từng thấy Tòa Thánh treo hình các vị Thánh hay Chân Phước trong các buổi lễ phong thánh tại tiền đình Đền Thờ Thánh Phêrô. Bức hình còn có cả một dòng chữ rất ngạo mạn “Re di Roma” – nghĩa là “Vua Thành Rôma”.
Một biểu ngữ khác còn ngạo mạn hơn được chăng ngang cửa chính của nhà thờ:
“Bạn đã chinh phục được Rôma, bây giờ bạn sẽ chinh phục thiên đường”.
Sau một nghi lễ long trọng trong nhà thờ, quan tài được khiêng ra một đoàn xe đưa tang cực kỳ xa hoa như cảnh an táng một vua chúa thời trung cổ, nhưng còn huy hoàng hơn đám tang vua chúa vì có thêm một tiết mục mới không vua chúa thời xưa nào có được là cảnh những cánh hoa tulip rơi từ đoàn trực thăng xuống trong khi ban nhạc chơi các giai điệu chủ đề trong bài “The Godfather” mà người Việt thường dịch là Bố Già.
Tên trùm Vittorio Casamonica là một trong những nhà lãnh đạo của gia tộc Casamonica, đã bị buộc tội bắt cóc, tống tiền và buôn bán ma túy.
Trước tai tiếng trầm trọng mà nhiều người xem như một cử chỉ công khai thách thức những giáo huấn gần đây của Đức Giáo Hoàng Phanxicô về bọn tội phạm Mafia, vị linh mục chính xứ San Giovanni Bosco nói rằng ngài không kiểm soát được những gì xảy ra bên ngoài nhà thờ.
Trong khi đó Giám mục phụ tá Rôma là Đức Cha Giuseppe Marciante giải thích với tờ Avvenire của Hội Đồng Giám Mục Italia rằng “không ai báo cho chúng tôi biết, thậm chí cả cảnh sát cũng chẳng nói gì”.
Ngài nói thêm: “Tất nhiên, nếu chúng tôi đã có những nghi ngờ về kiểu trình diễn loại này, chúng tôi đã có biện pháp phòng ngừa. Chúng tôi hoàn toàn không chấp nhận tiến hành tang lễ như thế.”
Đức Tổng Giám mục Vincenzo Bertolone của tổng giáo phận Catanzaro-Squillace, cáo thỉnh viên án phong thánh cho cha Pino Puglisi, người đã bị Mafia giết, nói với tờ Quan Sát Viên Rôma rằng “đám tang Kitô Giáo không phải là lễ tuyên dương cuộc đời của người quá cố”.
Ngài nói thêm rằng “các chỉ thị hướng dẫn việc cử hành thánh lễ an táng yêu cầu buổi lễ phải được thực hiện một cách đơn sơ, không phô trương, không hoa, không nhạc, không hát hò, càng không phải là một buổi lễ tôn phong”.
5. Đừng bắt Đức Mẹ phải kính chào bọn côn đồ.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Để cho thấy Mafia đã ăn sâu vào xã hội Italia như thế nào, chúng tôi xin thuật hầu quý vị và anh chị em một câu chuyện khác.
Năm ngoái, một giám mục trong khu vực Calabria của Ý đã ra lệnh cấm tất cả các cuộc rước kiệu trên đường phố vô thời hạn. Ngài đã phải đưa ra biện pháp đau lòng này sau khi một đoàn rước đã khiêng kiệu Đức Mẹ đến nhà một tên trùm Mafia hôm 6 tháng 7 năm 2014.
Hôm 21 tháng 6 năm ngoái, Đức Thánh Cha đã đến thăm vùng này và trong bài giảng, Đức Thánh Cha đã mạnh mẽ lên án nhóm bất lương mafia Ndrangheta đang hoành hành trong vùng. Đức Thánh Cha nói: “Mafia Ndrangheta nghĩa là: tôn thờ cái ác và khinh bỉ công ích. Cái ác này phải bị đánh bại, phải bị trục xuất… Những kẻ này bị tuyệt thông”.
Hai tuần sau đó, trong một đám rước của giáo xứ Công Giáo Oppido Mamertina, đoàn rước đã bất ngờ rẽ sang một lộ trình không được trù liệu lúc ban đầu để khiêng kiệu Đức Mẹ đến nhà một tên trùm Mafia Ndrangheta là Peppe Mazzagatti, đang bị quản thúc tại gia sau khi bị khởi tố về tội giết người. Cử chỉ này được nhiều người xem như một hành vi khiêu khích Đức Giáo Hoàng của những kẻ chủ mưu đưa đoàn kiệu đến nhà tên tội phạm.
Uất hận trước cử chỉ này Đức Cha Nunzio Galantino của giáo phận Cassano allo Ionio của giáo phận lân cận nhận xét: “Đừng bắt Đức Mẹ phải kính chào bọn côn đồ.”
Ba nhân viên cảnh sát đi kèm với đoàn rước đã bỏ đi để phản đối sự kính trọng dành cho một tên tội phạm. Bộ trưởng Nội vụ Italia là ông Angelino Alfano hoan nghênh hành động của họ, nói rằng cử chỉ tôn vinh tên trùm tội phạm này thật là “tồi tệ và kinh tởm.”
Trước những diễn biến này, Đức Giám Mục Francesco Milito của Oppido-Palmi đã ban hành lệnh cấm tất cả các cuộc rước kiệu trên đường phố vô thời hạn cho đến khi có lệnh mới.
6. Tuyên ngôn của các nhà lãnh đạo Hồi Giáo tại Li Băng
Các nhà lãnh đạo Hồi giáo Sunni ở Li Băng sau phiên họp khoáng đại ở thủ đô Beirut đã đưa ra Tuyên bố Beirut về Tự do Tôn giáo.
Tuyên bố có đoạn viết:
“Từ chối sự hiện diện của các cộng đồng Kitô hữu, quyền tự do tôn giáo của họ và phá hủy các nhà thờ, tu viện và các cơ sở giáo dục và xã hội của họ là trái ngược với giáo lý của Hồi giáo, và vì những lạm dụng được thực hiện dưới danh nghĩa Hồi Giáo, chúng tôi khẳng định đây là một sự vi phạm trắng trợn các nguyên tắc của Hồi Giáo”.
Li Băng hiện có 6,185,000 dân trong đó người Hồi Giáo chiếm 54%, các tín hữu Kitô thuộc mọi hệ phái chiếm 40.5%.
Vào năm 1943, nước này gần như toàn tòng Kitô Giáo nên Hiệp Ước quốc gia năm 1943 quy định rằng tổng thống Li Băng phải là một Kitô hữu Maronite.
7. Monaco xin lỗi vì đã trục xuất người Do Thái
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm thế chiến thứ hai khởi sự từ 1 tháng 9 năm 1939 và kết thúc ngày 2 tháng 9 năm 1945, Đức Tổng Giám mục Bernard Barsi, nhà lãnh đạo Công Giáo cao cấp nhất của vương quốc Monaco, đã chủ sự một buổi lễ trong đó Thái tử Albert Đệ Nhị đã xin lỗi về việc dân tộc mình đã trục xuất những người tị nạn Do Thái trong Thế chiến thứ hai.
Thái tử Albert Đệ Nhị nói:
“Chúng tôi đã phạm vào một lỗi lầm không thể khắc phục được khi giao cho nước láng giềng những phụ nữ, đàn ông và một đứa trẻ đã xin tị nạn với chúng tôi để thoát khỏi các cuộc bách hại họ đã phải chịu đựng ở Pháp,”
Thái tử Albert nói thêm: “Trong cơn hoạn nạn, họ đã tìm đến với chúng tôi, nghĩ rằng họ sẽ tìm thấy sự trung lập.”
Monaco nằm ven biển Địa Trung Hải về phía Nam nước Pháp gần biên giới với Ý. Đất nước này chỉ rộng có 6 cây số vuông với một đường biên giới dài 6km với nước Pháp. Monaco có 30,600 dân trong đó 90% dân số là người Công Giáo.
8. Hội Đồng Giám Mục Đức cử hai Giám Mục sang thăm Hội Đường người Do Thái tại Rôma
Củng nhân dịp kỷ niệm 70 năm thế chiến thứ hai kết thúc vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 và 50 năm thông điệp Nostra Aetate, Hội Đồng Giám Mục Đức đã cử hai giám mục Đức, được hai giáo sĩ Do Thái của Đức tháp tùng đến thăm hội đường Do Thái tại Rome vào ngày 9 tháng 9.
Thông báo từ Hội đồng Giám mục Đức cho biết cử chỉ hòa giải này hy vọng sẽ “vinh danh những nơi và những người như Đức Hồng Y Augustine Bea và Rabbi Do Thái Elio Toaff của thành Rôma là những người đã có công trong việc hình thành tuyên ngôn Nostra Aetate, của Công Đồng Chung Vatican II về quan hệ của Giáo Hội với các tôn giáo không phải là Kitô Giáo.”
Thông điệp Nostra Aetate đã được Đức Thánh Cha Phaolô Đệ Lục công bố ngày 28 tháng 10 năm 1965.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến thăm hội đường Do Thái tại Rome vào ngày 13 tháng Tư năm 1986.
Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 cũng đến thăm hội đường Do Thái này vào ngày 17 tháng Giêng năm 2010.
9. Đức Thánh Cha tiếp kiến cha Samir Yousif người coi sóc 5000 người tị nạn Iraq
Tại buổi tiếp kiến chung ngày 26 tháng 8, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp Cha Samir Yousif, một linh mục Công Giáo nghi lễ Chanđê đang chăm sóc 5,000 người tị nạn trong năm ngôi làng thuộc khu vực Amadiya của Iraq Kurdistan.
Cha Yousif, đã được mời ngồi chỗ danh dự với các giám mục trong buổi triều yết chung. Theo tờ Quan Sát Viên Rôma, ngài đã trình lên Đức Giáo Hoàng những hình ảnh “đau đớn không thể tưởng tượng và tuyệt vọng” mà những người tị nạn chạy trốn quân khủng bố Hồi Giáo IS phải chịu đựng.
Cha Yousif đã bày tỏ lòng biết ơn với Đức Thánh Cha về những tố giác trước thế giới thay mặt cộng đoàn Kitô hữu Iraq và về sự trợ giúp của Thánh Bộ Truyền giáo, các giám mục Ý, và Caritas.
“Chúng tôi không đánh mất niềm hy vọng một ngày nào đó, Đức Giáo Hoàng có thể đích thân đến thăm chúng tôi,” cha Yousif nói thêm.
10. Phi Châu sẽ giúp thế giới bảo tồn ý nghĩa đích thực của hôn nhân Kitô Giáo
Đức Hồng Y Robert Sarah nói với một tuần báo Công Giáo tại Benin rằng Phi Châu chắc chắn sẽ giúp thế giới bảo tồn được ý nghĩa đích thực của hôn nhân Kitô Giáo.
“Tôi có niềm tin tuyệt đối vào văn hóa Phi châu,” Đức Hồng Y Sarah, tổng trưởng Thánh Bộ Phụng Tự và kỷ luật bí tích nói. “Tôi chắc chắn rằng Phi châu sẽ cứu các gia đình.”
Phát biểu với tờ La Croix du Benin trong chuyến thăm Benin, nơi ngài tham dự cuộc hành hương kính Đức Mẹ toàn quốc, Đức Hồng Y nhận xét rằng ngày xưa Thánh Gia Nagiarét đã tìm thấy nơi trú ngụ an toàn ở Ai Cập, tức là ở châu Phi thì ngày nay “trong thời hiện đại này châu Phi một lần nữa sẽ cứu các gia đình. “
Là người gốc Guinea, Đức Hồng Y Sarah, đã nói tại Benin về việc xuất bản cuốn sách mới của mình có tựa đề God or Nothing “Chọn Thiên Chúa hay mất hết không còn gì cả”. Trong cuốn sách này, Đức Hồng Y trình bày những suy tư của ngài về tình trạng của những người Công Giáo ly dị và tái hôn. Ngài nói rằng họ đang “trong một tình huống về khách quan là mâu thuẫn với lề luật pháp của Thiên Chúa.”
Đức Hồng Y cũng tấn công những trào lưu cực đoan về hôn nhân và tính dục của con người, và cáo buộc là các tổ chức giàu có và những chính phủ ở phương Tây “đang cố gắng áp đặt triết lý này bằng mọi cách có thể, đôi khi đến mức bắt buộc một cách sỗ sàng.”
11. Người Công Giáo Trung quốc yêu cầu trả tự do cho một Giám Mục bị nhà cầm quyền bỏ tù từ năm 1996.
Người Công Giáo tỉnh Hà Bắc, Trung quốc, đã gởi kiến nghị lên nhà nước yêu cầu phóng thích Đức Cha Giacôbê Tô Chí Dân (Su Zhimin 蘇志民), là Giám Mục giáo phận Bảo Định, đã bị nhà cầm quyền bỏ tù từ năm 1996.
Diễn biến này xảy ra sau khi Chủ tịch Trung quốc là Tập Cận Bình công bố lệnh ân xá cho các tù nhân cao tuổi. Đức Cha Giacôbê năm nay đã 82 tuổi.
Đấng bản quyền của giáo phận Bảo Định thuộc tỉnh Hà Bắc hiện nay là Đức Cha Phanxicô An Thụ Tân (An Shuxin 安樹新). Ngài được cả Tòa Thánh và nhà cầm quyền Bắc Kinh công nhận. Tuy nhiên, một số lớn linh mục và anh chị em giáo dân không công nhận quyền bính của ngài và tha thiết yêu cầu nhà cầm quyền trả tự do cho Đức Cha Giacôbê về coi sóc giáo phận.
Đức Cha Phanxicô An Thụ Tân là Giám Mục Thầm Lặng được Tòa Thánh tấn phong Giám Mục Phó giáo phận Bảo Định với quyền kế vị. Ngài bị bắt vào tháng 5 năm 1996 cùng với Đức Cha Giacôbê Tô Chí Dân. Trong vòng 10 năm người ta không biết chính xác các ngài bị giam giữ tại đâu.
Ngày 24/08/2006, Đức Cha Phanxicô An Thụ Tân được trả tự do nhưng bị quản thúc tại gia. Đức Cha Giacôbê Tô Chí Dân tiếp tục bị giam giữ. Tháng 11 năm 2003, có người thấy Đức Cha Giacôbê đang nằm điều trị trong bệnh viện của Công An Bảo Định. Từ đó cho đến nay người ta không biết ngài bị giam giữ nơi nào.
Trong một quyết định gây kinh ngạc và sững sờ cho các linh mục và anh chị em giáo dân tại Bảo Định, cuối tháng Mười năm 2009, Đức Cha Phanxicô An Thụ Tân và 10 linh mục thầm lặng quyết định gia nhập Hội Công Giáo Yêu Nước. Hệ quả của hành động này là Trung quốc nhanh chóng công nhận ngài là Giám Mục giáo phận Bảo Định.
12. Kim Davis một biểu tượng bất khuất cho niềm tin Kitô
Trong một diễn biến tệ hại có một ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Hoa Kỳ, hôm thứ Sáu ngày 26 tháng 6, Tối cao Pháp viện Mỹ đã ra phán quyết buộc tất cả các tiểu bang trên toàn lãnh thổ phải công nhận hôn nhân đồng tính.
Tuy nhiên cuộc chiến tư pháp tại Mỹ vẫn chưa kết thúc. Hôn nhân truyền thống vẫn chưa thua cuộc.
Viện dẫn niềm tin Kitô cũa mình và tu chính án thứ nhất của Hoa Kỳ bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, Kim Davis một nữ thư ký tại Rowan County thuộc Kentucky nhất định không cấp giấy chứng nhận kết hôn cho bất cứ cặp đồng tính nào.
Kim Davis chỉ mới nhận công việc này hồi tháng Giêng năm nay. Cô thay thế cho mẹ mình là người đã làm cùng công việc ấy trong 37 năm.
Các cặp đồng tính kiện cô ra tòa. Hàng trăm Kitô hữu kéo cờ xí biểu ngữ ũng hộ cô trước tòa. Vụ kiện giằng dai đến tối thứ Hai 31 tháng 8, tòa xử cô thua kiện và phải cấp giấy chứng nhận kết hôn cho các cặp đồng tính.
Tuy nhiên, sáng thứ Ba 01 tháng Chín Kim Davis vẫn cương quyết không cấp bất chấp bị đe dọa đuổi việc, bị phạt tiền hay tù tội.
Thánh Ca
Thánh Ca: Mừng Sinh Nhật Đức Mẹ 8/9 - Trình Bày: Ca Sĩ Như Ý
VietCatholic Network
02:29 06/09/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây