Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:08 10/06/2014
HOA BÌM BÌM KHIÊM TỐN
Hoa bìm bìm kể lể với Đấng tạo hóa:
- “Cây bông gạo cao to anh tuấn, dung mạo xuất chúng; hoa dành dành học vấn uyên thâm, tài cao bá cháy; cây phượng hoàng nhiệt tình không chấp vặt, duyên dáng cực đẹp.v.v...những cái ưu điểm ấy con không thể bì nổi”.
Hoa bìm bìm rủ mặt xuống, nén giọng thấp, nói: “Sở trường duy nhất của tôi là: tôi rất khiêm tốn”.
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Có người luôn ao ước cái này cái nọ nhưng không được; có người suốt đời cứ phân bì mình với anh em chị em mà không bắt tay vào làm cái gì cả.
Thấy cái hay cái tốt của người ta mà thèm.
Nhìn sự giàu có người khác mà ước mơ.
Nhưng cuối cùng ước mơ không thành thì lại tự mình an ủi mình: thôi như thế này cũng được rồi.
Nếu ngay từ đầu mà nói được như thế thì làm được bao nhiêu là việc, bởi vì khi ta chấp nhận cuộc sống hiện tại, là ta đã nỗ lực canh tân tâm hồn ta được một nửa, phần còn lại là bắt tay vào thực hành.
Các thánh nam nữ trên thiên đàng đều làm như thế khi các ngài còn ở dưới thế gian này, đó là các ngài nổ lực chu toàn bổn phận và phó thác trong tay Chúa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Hoa bìm bìm kể lể với Đấng tạo hóa:
- “Cây bông gạo cao to anh tuấn, dung mạo xuất chúng; hoa dành dành học vấn uyên thâm, tài cao bá cháy; cây phượng hoàng nhiệt tình không chấp vặt, duyên dáng cực đẹp.v.v...những cái ưu điểm ấy con không thể bì nổi”.
Hoa bìm bìm rủ mặt xuống, nén giọng thấp, nói: “Sở trường duy nhất của tôi là: tôi rất khiêm tốn”.
(Hạnh Lâm Tử)
Suy tư:
Có người luôn ao ước cái này cái nọ nhưng không được; có người suốt đời cứ phân bì mình với anh em chị em mà không bắt tay vào làm cái gì cả.
Thấy cái hay cái tốt của người ta mà thèm.
Nhìn sự giàu có người khác mà ước mơ.
Nhưng cuối cùng ước mơ không thành thì lại tự mình an ủi mình: thôi như thế này cũng được rồi.
Nếu ngay từ đầu mà nói được như thế thì làm được bao nhiêu là việc, bởi vì khi ta chấp nhận cuộc sống hiện tại, là ta đã nỗ lực canh tân tâm hồn ta được một nửa, phần còn lại là bắt tay vào thực hành.
Các thánh nam nữ trên thiên đàng đều làm như thế khi các ngài còn ở dưới thế gian này, đó là các ngài nổ lực chu toàn bổn phận và phó thác trong tay Chúa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư
-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:12 10/06/2014
N2T |
25. Giả như con nhìn thấy cửa địa ngục mở ra mà con đang đứng ở bên bờ vực sâu thẳm ấy, thì con cũng không tuyệt vọng, nhưng con phải hy vọng được cứu, bởi vì con đang tin vào Ngài, lạy Thiên Chúa của con.
(Thánh Gemma Galgani)--------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Nữ Tu Cristina Scuccia trả lời :''Hai ưu tiên cuả đời tôi là Chúa Giêsu và cầu nguyện''
Trần Mạnh Trác
00:06 10/06/2014
"Tương lai của tôi nằm trong tay của Mẹ Bề Trên. Tôi tin vào sự quan phòng của Chuá, " người nữ tu ursuline 25 tuổi của nhà dòng Thánh Gia cho biết trong một cuộc phỏng vấn với trang web Ý TGcom24.
Sơ Cristina được cả thế giới biết đến khi Sơ xuất hiện trên cuộc thi tuyển The Voice of Italy. Bài hát "No One" của nhạc sĩ Alicia Keys mà Sơ trình diễn đã thu hút hơn 50 triệu lượt xem trên YouTube.
Ngày 5 tháng 6 vừa qua, Sơ đoạt giải 2014 với 62% tổng số phiếu bầu.
Sau khi được công bố chiến thắng, Sơ Cristina đã lên tiếng cảm tạ Thiên Chúa và xướng lên kinh Lạy Cha trước đám đông, Sơ giải thích: "Tôi muốn Chúa Giêsu cũng đi vào nơi đây."
Được hỏi về việc mời khán giả cùng cầu nguyện như thế, Sơ Cristina mỉm cười và nói, "Xin lỗi, nhưng nếu tôi không làm điều đó ở đây, thì tôi làm điều đó ở đâu chứ?"
Sơ cũng cho biết Sơ "rất chắc chắn" sẽ thực hiện việc tái tuyên khấn trong vài tuần tới.
"Vào năm 2009, tôi bắt đầu cuộc hành trình cuả đời tu như là một tập sinh. Tôi kết thúc hai năm nhà tập ở Brazil và sau đó được tuyên khấn lần đầu vào năm 2012. Bây giờ tôi phải tái khấn thêm ba năm nữa để có thể khấn trọn đời sau đó. Tôi sẽ tuyên khấn lần thứ hai vào cuối tháng Bảy này. "
Khi được hỏi liệu chiến thắng trên The Voice có làm thay đổi ý định nào liên quan đến đời sống tu trì không, Sơ Cristina trả lời: "Hoàn toàn không. Đây (đời sống tu trì ) là con đường dành cho tôi. "
Sơ đã được đề nghị một hợp đồng với Universal Records sau khi chiến thắng. Về việc này, Sơ nói "Đó là tuỳ vào sự quan phòng cuả Chuá," Sơ giải thích thêm "Mẹ Bề Trên của tôi sẽ quyết định phải làm gì với hợp đồng đó."
Universal Records có kế hoạch thực hiện một tour vòng quanh thế giới, nhưng Sơ Cristina nói với các phóng viên, "Tôi lặp lại, điều đó sẽ được quyết định sau, nhưng bây giờ tôi có thể nói việc Phúc Âm hóa không bị ràng buộc bởi giới hạn lãnh thổ. Vì lý do này, tôi sẽ sẵn sàng. "
Sơ cho biết lý do khi quyết định tranh tài trên The Voice là vì "Chúa đã ban cho tôi một món quà và thành thực mà nói thì tôi có thể giấu nó một mình ở trong một góc nhà. Nhưng tôi cũng muốn cho thấy rằng Thiên Chúa đã không lấy đi bất cứ điều gì khỏi cuộc sống của tôi, và thay vào đó Ngài đã cho tôi nhiều hơn nữa. "
Sơ Cristina cho biết Sơ hy vọng các ca khúc trong album đầu tiên của mình, nếu có, sẽ là "những bài hát đơn giản nói về thực tế của cuộc sống hàng ngày và về tình yêu."
Tuyên bố 9 điểm của Nghị Hội Công Giáo – Chính Thống Âu Châu lần thứ 4
Vũ Văn An
09:57 10/06/2014
Theo tin Zenit ngày 5 tháng 6, các tham dự viên Nghị Hội Công Giáo – Chính Thống Âu Châu lần thứ 4 họp tại Minks, Bạch Nga, đã công bố tuyên cáo cuối cùng vào ngày này, sau năm ngày hội họp.
Tuyên cáo gồm 9 điểm trong đó, Nghị Hội cho rằng nơi nào đức tin và nền luân lý Kitô Giáo bị bác bỏ, nơi ấy đều cảm nhận một trống vắng da diết dẫn nhiều người tới thất vọng và chủ nghĩa hư vô. Vì Giáo Hội Kitô cung hiến nhiều giá trị nhất quán qua việc hội nhập nhân loại vào Chúa Kitô, Đấng vốn là suối nguồn của mọi giá trị chân thực.
Ý nghĩa sâu xa mà đại diện hai Giáo Hội muốn cung ứng là “Đức tin vào Chúa Kitô không loại bỏ tính đa dạng nhân bản. Nó làm phong phú và phát huy các yếu tố của điều chân và điều thiện vốn hiện diện trong các nền văn hóa của con người”.
Năm nay, Nghị Hội Lần Thứ 4 được tổ chức tại Minks, thủ đô Bạch Nga (Belarus), theo lời mời của Thượng Giám Mục (Patriarchal Exarch) Toàn Bạch Nga, Đức Tổng Giám Mục Pavel của Minks và Sluzk. Các cuộc thảo luận được đặt dưới sự hướng dẫn của Hai Đồng Chủ Tịch Nghị Hội, là Đức TGM Gennadios của Sassima thuộc Tòa Thượng Phụ Đại Kết, và Đức Hồng Y Péter Erdő, Chủ Tịch Liên Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Âu Châu (CCEE).
Trong buổi khai mạc Nghị Hội, hơn 35 đại biểu của các Giáo Hội Chính Thống Âu Châu và của các Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Âu Châu đã hân hạnh được nghe các sứ điệp gửi Nghị Hội của Đức Thượng Phụ Đại Kết Barthôlômêo, của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và của Đức Thượng Phụ Kirill của Mạc Tư Khoa và Toàn Nga.
Nghị Hội Công Giáo – Chính Thống Âu Châu lần đầu tiên được tổ chức năm 2008 (11-14 tháng 12) tại Trent, Ý, với chủ đề “gia đình: một thiện ích cho nhân loại”; Nghị Hội lần thứ hai được tổ chức năm 2010 (18-22 tháng 10) tại Rhodes, Hy Lạp, với chủ đề: các liên hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước; Nghị Hội lần thứ ba được tổ chức năm 2012 (5-8 tháng 6) tại Lisbon, Bồ Đào Nha, với chủ đề: Khủng hoảng kinh tế và nghèo đói. Tất cả đều là những thách đố đối với Âu Châu ngày nay. Chủ đề năm nay là: Tôn Giáo và Tính Đa Dạng Văn Hóa: Các Thách Đố Đối Với Các Giáo Hội Kitô Giáo tại Âu Châu. Sau đây là tuyên cáo 9 điểm của Nghị Hội.
Tuyên cáo 9 điểm
Nghị Hội Công Giáo – Chính Thống Lần Thứ Tư về Tôn Giáo và Tính Đa Dạng Văn Hóa: Các Thánh Đố đối với Các Giáo Hội Kitô Giáo tại Âu Châu được tổ chức tại Minks, Bạch Nga từ 2 tới 6 tháng 6 2014…Tiếp theo các kinh nghiệm tích cực của ba nghị hội trước đây…, các tham dự viên thuộc các Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống tại Âu Châu đã thảo luận các thách đố đang đối diện với Kitô Giáo Âu Châu trong một môi trường văn hóa càng ngày càng bị phân cực hơn…
Sau khi trình bày, thảo luận và xem xét chín chắn, Nghị Hội chấp nhận sứ điệp sau đây.
1. Chủ đề “Tôn giáo và tính đa dạng văn hóa: các thách đố đối với các Giáo Hội Kitô Giáo tại Âu Châu” được chọn để đáp ứng lời yêu cầu phát xuất từ các cộng đồng của chúng tôi là các cộng đồng cảm thấy mình bị thách đố một cách mạnh mẽ trước các thay đổi văn hóa và luân lý đang diễn ra tại Âu Châu. Trong 20 năm qua, việc hoàn cầu hóa trên phạm vi thế giới và việc tục hóa trong ngành làm luật tại Âu Châu đối với các vấn đề luân lý đã đặt ra nhiều vấn nạn đòi phải được giải đáp chung. Quan tâm của chúng tôi cũng gia tăng vì thấy rằng diễn trình ra xa lạ giữa Âu Châu và nguồn gốc Kitô Giáo của nó xem ra càng ngày càng gia tốc.
2. Sứ điệp của chúng tôi muốn trước nhất là dấu chỉ hân hoan và hy vọng cho tất cả những ai đang dấn thân vào sứ mệnh của Giáo Hội. Chúng tôi chia sẻ các điều kiện sống của mọi người Âu Châu trong cuộc khủng hoảng kinh tế và văn hóa, và chúng tôi biết rằng nhiều người đang đau khổ và đang đi tìm một lời lẽ đem ý nghĩa lại cho đời họ. Thực vậy, nơi nào đức tin và nền luân lý Kitô Giáo bị bác bỏ, nơi ấy đều cảm nhận một trống vắng da diết dẫn nhiều người tới thất vọng và chủ nghĩa hư vô. Giáo Hội Kitô cung hiến nhiều giá trị nhất quán qua việc hội nhập nhân loại vào Chúa Kitô, Đấng vốn là suối nguồn của mọi giá trị chân thực. Do đó, Giáo Hội mời gọi thế giới tự biến đổi mình bằng cầu nguyện, thờ phượng và làm chứng cho Chúa Kitô.
3. Chúng tôi chia sẻ với người Âu Châu hiện nay niềm xác tín rằng đức tin Kitô Giáo là nguồn cội đệ nhất đẳng của nền văn hóa và luân lý Âu Châu. Hàng thế kỷ của lịch sử đã chứng kiến tại Phương Đông và tại Phương Tây sự phong phú phi thường trong các thành tựu văn hóa trên lục địa ta nhờ sự đóng góp của đức tin Kitô Giáo. Thực thế, đức tin đã sản sinh ra văn hóa và văn hóa đã không ngừng được đức tin thách thức. Chúng tôi ghi ơn di sản Kitô Giáo của Âu Châu đã lên khuôn thế giới quan của chúng tôi và đem lại cho các dân tộc Âu Châu các nguyên tắc luân lý của họ.
4. Trong tính đa dạng của nó, các nền văn hóa Âu Châu tất cả đều đã rút tỉa từ các gốc rễ chung của Kitô Giáo. Giống như trong các ngữ cảnh văn hóa khác, ta phải thừa nhận rằng phần đáng kể trong các nền văn hóa của người ta đều dựa vào sự linh hứng của tôn giáo. Nền nhân học Kitô Giáo đã tác động sâu xa lên nền văn hóa Âu Châu. Nhìn nhận Thiên Chúa như Đấng Tạo Hóa không hư vô hóa lý trí con người mà đúng hơn đem nó lại gần Sự Thật hơn. Kitô Giáo không bao giờ chống lại lý trí và đức tin. Thiên Chúa là Lý Trí trường cửu vốn tạo nên muôn loài đang hiện hữu. Khi mạc khải mình, Người không loại bỏ nhưng đúng hơn đã khẳng định trí khôn của con người. Đóng góp cao nhất của Kitô Giáo cho lịch sử nhân loại chính là sự liên minh giữa đức tin và lý trí, một liên minh đã sản sinh ra viễn kiến về phẩm giá của từng con người nhân bản, nhu cầu tự do và liên đới, và sự cởi mở trước mầu nhiệm của nhân sinh.
5. Chúng tôi xin nhấn mạnh điều này: đức tin Kitô Giáo bảo đảm chứ không lấy đi việc ta tìm kiếm tự do và hạnh phúc. Đức tin Kitô Giáo có nghĩa: hoàn toàn chấp nhận Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện trong Giáo Hội của Người nhờ Chúa Thánh Thần. “Vì Thiên Chúa quá yêu thế giới đến độ đã ban Con Một của Người cho thế giới” (Ga 3:16). Do đó, Chúa Kitô không phải là sản phẩm của nền văn hoá nhân bản. Là Thiên Chúa nhập thể, Người thách đố lịch sử và các nền văn hóa của con người. Các Giáo Hội Kitô Giáo chúng tôi làm chứng rằng việc xuất hiện của Chúa Kitô là một biến cố trong các nền văn hóa của các dân tộc chúng tôi. Đức tin vào Chúa Kitô không loại bỏ tính đa dạng nhân bản. Nó làm phong phú và phát huy các yếu tố của điều chân và điều thiện vốn hiện diện trong các nền văn hóa của con người.
6. Các Giáo Hội Kitô Giáo của Phương Đông và của Phương Tây không sợ tính đa dạng văn hóa. Kể từ lúc được thành lập, Giáo Hội vẫn đã có tính đa nguyên về văn hóa rồi. Ngay trong các môn đệ của Chúa Giêsu, đã có những phương thức văn hóa khác nhau, như giữa những người nói tiếng Aram và những người nói tiếng Hy Lạp. “Có nhiều dị biệt trong ơn phúc, nhưng chỉ cùng một Thần Khí” (1 Cor 12:4). Kitô Giáo công bố Tin Mừng của Chúa Kitô trong nhiều nền văn hóa nhân bản khác nhau.
7. Tự do tôn giáo là yếu tố yếu tính của đức tin Kitô Giáo. Đối với chúng tôi, tự do tôn giáo có nghĩa là tự do tìm kiếm và tin theo sự thật. Nó không dựa vào thái độ chủ quan của một cá nhân hay một nhóm, mà dựa vào phẩm giá của mỗi con người nhân bản được tạo nên cho Tuyệt Đối, cho Sự Thật và cho Thiên Chúa. Luật lệ nào cổ vũ sự dửng dưng tôn giáo, chủ nghĩa duy tương đối hay chủ nghĩa hòa đồng bừa bãi (syncretism), ngay cả vì lòng khoan dung, đều sẽ tiến tới chỗ giản lược quyền căn bản đối với phẩm gia con người vào lãnh vực tư. Đối với các Giáo Hội Kitô Giáo, phát huy tự do tôn giáo là bước vào cuộc đối thoại đại kết mà không có các chủ nghĩa duy cải đạo, cực đoan chính thống (fundamentalism) hay buông thả luân thường đạo lý.
8. Hố phân cách hiện nay giữa Kitô Giáo và não trạng chính dòng gây ra nhiều hiệu quả trầm trọng cho tương lai các định chế và đời sống Âu Châu. Ngày nay, đối với nhiều người Âu Châu, hiện không còn điểm qui chiếu vững chắc nào để họ lên khuôn tác phong luân lý của họ và lượng giá điều gì đúng điều gì sai nữa, vì họ đang sống dưới ý muốn của “cái tôi chúa tể tự lập”. Chủ nghĩa cá nhân dẫn tới chủ nghĩa duy tương đối luân lý. Người ta không còn nể nang gì đối với sự thật khách quan hay ích chung nữa. Hố phân cách giữa quan điểm của các Giáo Hội về tính luân lý và các trào lưu chính của hậu hiện đại hệ nằm ở điểm này: chúng tôi xác tín rằng các nguyên tắc luân lý được Tạo Hóa khắc ghi vào trái tim mọi hữu thể nhân bản, trong khi ngữ cảnh hậu hiện đại cho rằng tính luân lý là điều người ta quyết định theo từng cá nhân. Chúng tôi mời gọi người Ấu Châu thừa nhận rằng chìa khóa mở cửa tự do là chấp nhận rằng ta tiếp nhận ta từ Thiên Chúa, chứ không phải ta có thể võ đoán sử dụng mọi sự như thể ta là người sáng tạo ra bản thân mình.
Giữa các nguyên tắc Tin Mừng và các giá trị nhân bản, không hề có sự đối nghịch. Kitô Giáo có nghĩa: mọi điều tốt và thực nơi nhân loại đều được bảo bọc bởi ơn thánh của Chúa Kitô, Đấng cứu rỗi ta. Thiên Chúa tự hạ xuống hàng nhân tính của ta không phải để triệt tiêu các tiềm năng của nó, mà để hàn gắn điều đang bệnh hoạn và đem nhân tính ta tới chỗ hoàn hảo của nó.
9. Đức tin và luân lý tính đi đôi với nhau; văn hóa và luân lý tính cũng thế. Ta không nên quên rằng sự tiến bộ vĩ đại thực hiện được trong lịch sử Âu Châu liên quan tới nhân quyền và việc che chở người yếu thế phát xuất từ các nguyên tắc mà Kitô Giáo vốn đem lại cho Âu Châu. Trong tư cách mục tử, chúng tôi muốn tiếp tục đem tới cho giáo dân của chúng tôi những điều tốt nhất trong giáo huấn luân lý của mình và trong tư cách công dân, chúng tôi muốn trình bày giáo huấn này cho các chính phủ và các định chế Âu Châu. Chúng tôi xác tín rằng các cộng đồng Kitô Giáo, một khi chịu rút tỉa linh hứng từ Tin Mừng Chúa Kitô, đều có khả năng hành động như các nhân chứng của những gì là tốt đẹp đối với mọi người.
Trong Chúa Kitô, chúng tôi tìm được nguồn suối linh hứng để canh tân mình và đem chúng tôi tới một cảm thức lớn hơn về trách nhiệm tại Âu Châu và trên thế giới ngày nay.
Ý nghĩa sâu xa mà đại diện hai Giáo Hội muốn cung ứng là “Đức tin vào Chúa Kitô không loại bỏ tính đa dạng nhân bản. Nó làm phong phú và phát huy các yếu tố của điều chân và điều thiện vốn hiện diện trong các nền văn hóa của con người”.
Năm nay, Nghị Hội Lần Thứ 4 được tổ chức tại Minks, thủ đô Bạch Nga (Belarus), theo lời mời của Thượng Giám Mục (Patriarchal Exarch) Toàn Bạch Nga, Đức Tổng Giám Mục Pavel của Minks và Sluzk. Các cuộc thảo luận được đặt dưới sự hướng dẫn của Hai Đồng Chủ Tịch Nghị Hội, là Đức TGM Gennadios của Sassima thuộc Tòa Thượng Phụ Đại Kết, và Đức Hồng Y Péter Erdő, Chủ Tịch Liên Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Âu Châu (CCEE).
Trong buổi khai mạc Nghị Hội, hơn 35 đại biểu của các Giáo Hội Chính Thống Âu Châu và của các Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Âu Châu đã hân hạnh được nghe các sứ điệp gửi Nghị Hội của Đức Thượng Phụ Đại Kết Barthôlômêo, của Đức Giáo Hoàng Phanxicô và của Đức Thượng Phụ Kirill của Mạc Tư Khoa và Toàn Nga.
Nghị Hội Công Giáo – Chính Thống Âu Châu lần đầu tiên được tổ chức năm 2008 (11-14 tháng 12) tại Trent, Ý, với chủ đề “gia đình: một thiện ích cho nhân loại”; Nghị Hội lần thứ hai được tổ chức năm 2010 (18-22 tháng 10) tại Rhodes, Hy Lạp, với chủ đề: các liên hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước; Nghị Hội lần thứ ba được tổ chức năm 2012 (5-8 tháng 6) tại Lisbon, Bồ Đào Nha, với chủ đề: Khủng hoảng kinh tế và nghèo đói. Tất cả đều là những thách đố đối với Âu Châu ngày nay. Chủ đề năm nay là: Tôn Giáo và Tính Đa Dạng Văn Hóa: Các Thách Đố Đối Với Các Giáo Hội Kitô Giáo tại Âu Châu. Sau đây là tuyên cáo 9 điểm của Nghị Hội.
Tuyên cáo 9 điểm
Nghị Hội Công Giáo – Chính Thống Lần Thứ Tư về Tôn Giáo và Tính Đa Dạng Văn Hóa: Các Thánh Đố đối với Các Giáo Hội Kitô Giáo tại Âu Châu được tổ chức tại Minks, Bạch Nga từ 2 tới 6 tháng 6 2014…Tiếp theo các kinh nghiệm tích cực của ba nghị hội trước đây…, các tham dự viên thuộc các Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống tại Âu Châu đã thảo luận các thách đố đang đối diện với Kitô Giáo Âu Châu trong một môi trường văn hóa càng ngày càng bị phân cực hơn…
Sau khi trình bày, thảo luận và xem xét chín chắn, Nghị Hội chấp nhận sứ điệp sau đây.
1. Chủ đề “Tôn giáo và tính đa dạng văn hóa: các thách đố đối với các Giáo Hội Kitô Giáo tại Âu Châu” được chọn để đáp ứng lời yêu cầu phát xuất từ các cộng đồng của chúng tôi là các cộng đồng cảm thấy mình bị thách đố một cách mạnh mẽ trước các thay đổi văn hóa và luân lý đang diễn ra tại Âu Châu. Trong 20 năm qua, việc hoàn cầu hóa trên phạm vi thế giới và việc tục hóa trong ngành làm luật tại Âu Châu đối với các vấn đề luân lý đã đặt ra nhiều vấn nạn đòi phải được giải đáp chung. Quan tâm của chúng tôi cũng gia tăng vì thấy rằng diễn trình ra xa lạ giữa Âu Châu và nguồn gốc Kitô Giáo của nó xem ra càng ngày càng gia tốc.
2. Sứ điệp của chúng tôi muốn trước nhất là dấu chỉ hân hoan và hy vọng cho tất cả những ai đang dấn thân vào sứ mệnh của Giáo Hội. Chúng tôi chia sẻ các điều kiện sống của mọi người Âu Châu trong cuộc khủng hoảng kinh tế và văn hóa, và chúng tôi biết rằng nhiều người đang đau khổ và đang đi tìm một lời lẽ đem ý nghĩa lại cho đời họ. Thực vậy, nơi nào đức tin và nền luân lý Kitô Giáo bị bác bỏ, nơi ấy đều cảm nhận một trống vắng da diết dẫn nhiều người tới thất vọng và chủ nghĩa hư vô. Giáo Hội Kitô cung hiến nhiều giá trị nhất quán qua việc hội nhập nhân loại vào Chúa Kitô, Đấng vốn là suối nguồn của mọi giá trị chân thực. Do đó, Giáo Hội mời gọi thế giới tự biến đổi mình bằng cầu nguyện, thờ phượng và làm chứng cho Chúa Kitô.
3. Chúng tôi chia sẻ với người Âu Châu hiện nay niềm xác tín rằng đức tin Kitô Giáo là nguồn cội đệ nhất đẳng của nền văn hóa và luân lý Âu Châu. Hàng thế kỷ của lịch sử đã chứng kiến tại Phương Đông và tại Phương Tây sự phong phú phi thường trong các thành tựu văn hóa trên lục địa ta nhờ sự đóng góp của đức tin Kitô Giáo. Thực thế, đức tin đã sản sinh ra văn hóa và văn hóa đã không ngừng được đức tin thách thức. Chúng tôi ghi ơn di sản Kitô Giáo của Âu Châu đã lên khuôn thế giới quan của chúng tôi và đem lại cho các dân tộc Âu Châu các nguyên tắc luân lý của họ.
4. Trong tính đa dạng của nó, các nền văn hóa Âu Châu tất cả đều đã rút tỉa từ các gốc rễ chung của Kitô Giáo. Giống như trong các ngữ cảnh văn hóa khác, ta phải thừa nhận rằng phần đáng kể trong các nền văn hóa của người ta đều dựa vào sự linh hứng của tôn giáo. Nền nhân học Kitô Giáo đã tác động sâu xa lên nền văn hóa Âu Châu. Nhìn nhận Thiên Chúa như Đấng Tạo Hóa không hư vô hóa lý trí con người mà đúng hơn đem nó lại gần Sự Thật hơn. Kitô Giáo không bao giờ chống lại lý trí và đức tin. Thiên Chúa là Lý Trí trường cửu vốn tạo nên muôn loài đang hiện hữu. Khi mạc khải mình, Người không loại bỏ nhưng đúng hơn đã khẳng định trí khôn của con người. Đóng góp cao nhất của Kitô Giáo cho lịch sử nhân loại chính là sự liên minh giữa đức tin và lý trí, một liên minh đã sản sinh ra viễn kiến về phẩm giá của từng con người nhân bản, nhu cầu tự do và liên đới, và sự cởi mở trước mầu nhiệm của nhân sinh.
5. Chúng tôi xin nhấn mạnh điều này: đức tin Kitô Giáo bảo đảm chứ không lấy đi việc ta tìm kiếm tự do và hạnh phúc. Đức tin Kitô Giáo có nghĩa: hoàn toàn chấp nhận Chúa Giêsu Kitô đang hiện diện trong Giáo Hội của Người nhờ Chúa Thánh Thần. “Vì Thiên Chúa quá yêu thế giới đến độ đã ban Con Một của Người cho thế giới” (Ga 3:16). Do đó, Chúa Kitô không phải là sản phẩm của nền văn hoá nhân bản. Là Thiên Chúa nhập thể, Người thách đố lịch sử và các nền văn hóa của con người. Các Giáo Hội Kitô Giáo chúng tôi làm chứng rằng việc xuất hiện của Chúa Kitô là một biến cố trong các nền văn hóa của các dân tộc chúng tôi. Đức tin vào Chúa Kitô không loại bỏ tính đa dạng nhân bản. Nó làm phong phú và phát huy các yếu tố của điều chân và điều thiện vốn hiện diện trong các nền văn hóa của con người.
6. Các Giáo Hội Kitô Giáo của Phương Đông và của Phương Tây không sợ tính đa dạng văn hóa. Kể từ lúc được thành lập, Giáo Hội vẫn đã có tính đa nguyên về văn hóa rồi. Ngay trong các môn đệ của Chúa Giêsu, đã có những phương thức văn hóa khác nhau, như giữa những người nói tiếng Aram và những người nói tiếng Hy Lạp. “Có nhiều dị biệt trong ơn phúc, nhưng chỉ cùng một Thần Khí” (1 Cor 12:4). Kitô Giáo công bố Tin Mừng của Chúa Kitô trong nhiều nền văn hóa nhân bản khác nhau.
7. Tự do tôn giáo là yếu tố yếu tính của đức tin Kitô Giáo. Đối với chúng tôi, tự do tôn giáo có nghĩa là tự do tìm kiếm và tin theo sự thật. Nó không dựa vào thái độ chủ quan của một cá nhân hay một nhóm, mà dựa vào phẩm giá của mỗi con người nhân bản được tạo nên cho Tuyệt Đối, cho Sự Thật và cho Thiên Chúa. Luật lệ nào cổ vũ sự dửng dưng tôn giáo, chủ nghĩa duy tương đối hay chủ nghĩa hòa đồng bừa bãi (syncretism), ngay cả vì lòng khoan dung, đều sẽ tiến tới chỗ giản lược quyền căn bản đối với phẩm gia con người vào lãnh vực tư. Đối với các Giáo Hội Kitô Giáo, phát huy tự do tôn giáo là bước vào cuộc đối thoại đại kết mà không có các chủ nghĩa duy cải đạo, cực đoan chính thống (fundamentalism) hay buông thả luân thường đạo lý.
8. Hố phân cách hiện nay giữa Kitô Giáo và não trạng chính dòng gây ra nhiều hiệu quả trầm trọng cho tương lai các định chế và đời sống Âu Châu. Ngày nay, đối với nhiều người Âu Châu, hiện không còn điểm qui chiếu vững chắc nào để họ lên khuôn tác phong luân lý của họ và lượng giá điều gì đúng điều gì sai nữa, vì họ đang sống dưới ý muốn của “cái tôi chúa tể tự lập”. Chủ nghĩa cá nhân dẫn tới chủ nghĩa duy tương đối luân lý. Người ta không còn nể nang gì đối với sự thật khách quan hay ích chung nữa. Hố phân cách giữa quan điểm của các Giáo Hội về tính luân lý và các trào lưu chính của hậu hiện đại hệ nằm ở điểm này: chúng tôi xác tín rằng các nguyên tắc luân lý được Tạo Hóa khắc ghi vào trái tim mọi hữu thể nhân bản, trong khi ngữ cảnh hậu hiện đại cho rằng tính luân lý là điều người ta quyết định theo từng cá nhân. Chúng tôi mời gọi người Ấu Châu thừa nhận rằng chìa khóa mở cửa tự do là chấp nhận rằng ta tiếp nhận ta từ Thiên Chúa, chứ không phải ta có thể võ đoán sử dụng mọi sự như thể ta là người sáng tạo ra bản thân mình.
Giữa các nguyên tắc Tin Mừng và các giá trị nhân bản, không hề có sự đối nghịch. Kitô Giáo có nghĩa: mọi điều tốt và thực nơi nhân loại đều được bảo bọc bởi ơn thánh của Chúa Kitô, Đấng cứu rỗi ta. Thiên Chúa tự hạ xuống hàng nhân tính của ta không phải để triệt tiêu các tiềm năng của nó, mà để hàn gắn điều đang bệnh hoạn và đem nhân tính ta tới chỗ hoàn hảo của nó.
9. Đức tin và luân lý tính đi đôi với nhau; văn hóa và luân lý tính cũng thế. Ta không nên quên rằng sự tiến bộ vĩ đại thực hiện được trong lịch sử Âu Châu liên quan tới nhân quyền và việc che chở người yếu thế phát xuất từ các nguyên tắc mà Kitô Giáo vốn đem lại cho Âu Châu. Trong tư cách mục tử, chúng tôi muốn tiếp tục đem tới cho giáo dân của chúng tôi những điều tốt nhất trong giáo huấn luân lý của mình và trong tư cách công dân, chúng tôi muốn trình bày giáo huấn này cho các chính phủ và các định chế Âu Châu. Chúng tôi xác tín rằng các cộng đồng Kitô Giáo, một khi chịu rút tỉa linh hứng từ Tin Mừng Chúa Kitô, đều có khả năng hành động như các nhân chứng của những gì là tốt đẹp đối với mọi người.
Trong Chúa Kitô, chúng tôi tìm được nguồn suối linh hứng để canh tân mình và đem chúng tôi tới một cảm thức lớn hơn về trách nhiệm tại Âu Châu và trên thế giới ngày nay.
Vụ khủng bố nhà thờ Đức Bà Fatima vùng ngoại ô thủ đô Bangui của Trung Phi
Linh Tiến Khải
10:16 10/06/2014
Phỏng vấn Linh Mục Mathieu Bondonbo và Linh Mục Zephirin Yakanda, cha phó giáo xứ Alassio
Chiều ngày 28-5-2014 một nhóm người vũ trang, có lẽ là cựu phiến quân hồi giáo Seleka, đã dùng lựu đạn tấn công nhà thờ Đức Bà Fatima vùng ngoại ô thủ đô Bangui, khiến cho ít nhất 17 người chết kể cả một linh mục.
Tin địa phương nói số nạn nhân khoảng 40 người. Ngày 30-5-2014 hàng trăm người đã xuống đường biểu tình tại thủ đô Bangui để phản đối và lên án vụ khủng bố đã man này, đồng thời để phản đối các lực lượng quốc tế, tuy ở gần đó nhưng đã can thiệp chậm trễ. Vị linh mục bị thiệt mạng là cha Paul Emile Nzale, 76 tuổi. Cha đang thăm người tỵ nạn trong giáo xứ. Người ta cũng cho biết là đã có một số tín hữu bị nhóm phiến quân hồi bắt làm con tin.
Trung Phi rộng gần 623 ngàn cây số vuông, có khoảng 5 triệu dân gồm nhiều chủng tộc khác nhau, hơn 80% theo Kitô giáo gồm 51,4% Tin Lành 28,9% Công Giáo, 15% hồi giáo và 9.6% theo đạo thờ vật linh. Từ năm 2012 lực lượng Seleka gồm các phiến quân hồi nổi lên tiến chiếm miền bắc và miền trung và từ năm 2013 đánh chiếm thủ đô Bangui và lên nắm quyền. Các lực lượng dân quân kitô quy tụ thành phong trào Chống Balaka đánh nhau với lực lượng Seleka, khiến cho nội chiến kéo dài tại Trung Phi.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Mathieu Bondobo về tình hình Trung Phi hiện nay.
Hỏi: Thưa cha, tại sao các binh sĩ lực lượng phiến quân Seleka lại tấn công và gieo chết chóc cho các kitô hữu như thế?
Đáp: Tin khủng bố sát hại này thật là buồn và trầm trọng. Ban đầu chúng tôi đã dấn thân nói rằng cuộc xung khắc này là chính trị, chứ không phải là cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo. Nhưng sự kiện cố ý tấn công một họ đạo như vậy làm cho chúng tôi lo sợ, bởi vì nó là một dữ kiện mạnh mẽ để nói rằng cuộc xung đột đang ngày càng trở thành tôn giáo nhiều hơn. Và điều này cũng giúp chúng tôi nói rằng các tôn giáo chúng tôi phải tỉnh táo mở mắt, để không bị lèo lái bởi các nhà chính trị, bởi vì chỉ cần lơ là một chút là rơi vào cạm bẫy này. Dân tộc này đã luôn luôn chung sống với nhau với các tôn giáo khác nhau hiện diện tại đây, và vì thế ngày hôm nay chúng tôi không thể bắt đầu gây chiến với nhau được. Tuy nhiên, chúng tôi phải sẵn sàng và tỉnh thức để tránh tất cả các cạm bẫy này. Tôi xin lập lại, với điều đã xảy ra, chỉ cần một chút thôi là lại nảy sinh ra sự báo thù trong trái tim con người.
Hỏi: Theo cha thì tại sao lại xảy ra cuộc tấn công này?
Đáp: Tôi không có một tư tưởng rõ ràng về các lý do chính xác của vụ tấn công. Nhưng cần nói rằng giáo xứ Đức Bà Fatima này nằm trong một vùng rất gần một khu phố, nơi đã có lời đồn thổi rằng vài phiến quân đã len lỏi vào và tập trung tại đây. Và như thế một giáo xứ rất ngoại ô là một vùng hơi nóng bỏng. Do đó chỉ cần một chút là xảy ra các vụ tấn công loại này.
Hỏi: Giáo Hội nằm giữ vai trò nào trong tình trạng hiện nay tại Trung Phi? Và các giáo xứ trong thủ đô Bangui hiện đang làm gì, một cách đặc biệt để trợ giúp dân chúng?
Đáp: Kể từ khi cuộc xung khắc bắt đầu, Giáo Hội Công Giáo đã luôn luôn làm rất nhiều để trợ giúp dân chúng. Giáo Hội Công Giáo ủng hộ hòa bình. Vì thế họ đạo Đức Bà Fatima, cũng như tất cả các họ đạo khác trong thủ đô Bangui, đã trở thành nơi tiếp đón. Tất cả những người không cảm thấy an ninh đã tìm được nơi trú ẩn trong nhà thờ này: đó là sự kiện quan trọng. Mọi họ đạo của chúng tôi đều tiếp đón rất nhiều người. Nhưng các nhà thờ không được bảo vệ. Và tiện đây tôi xin kêu gọi các cơ quan quốc tế để họ mở mắt nhìn một họ đạo yểm trợ hòa bình tiếp đón biết bao nhiêu người tỵ nạn, mà lại không được bảo vệ, thì đây không phải là điều bình thường. Do đó trong số các nạn nhân, ngoài đa số là tín hữu kitô, cũng có những người không kitô. Họ đã bỏ khu phố của họ để đến trú ẩn nơi đây vì không cảm thấy an ninh.
Hỏi: Xem ra tình hình tại Trung Phi lắng dịu hơn một chút có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Các tin tức cuối cùng cho biết như thế. Tại Trung Phi nói chung tình hình không yên ổn. Nhưng tại thủ đô thì đã có nhiều kiểm soát hơn một chút, trong nghĩa các sinh hoạt đã bắt đầu trở lại, nghĩa là cuộc sống bắt đầu trở lại trong thủ đô Bangui. Đó là các tin mới nhất. Tuy nhiên, điều này giúp hiểu rằng còn có rất nhiều việc phải làm.
Hỏi: Dân chúng trong thủ đô Bangui đã mất hy vọng rồi hay sao thưa cha?
Đáp: Người dân đã không hoàn toàn mất hy vọng, nhưng họ có một chút nghi ngờ. Nói một cách nhân loại thì họ có mất hy vọng. Dĩ nhiên là sự sợ hãi lại nảy nở trong con tim người ta. Tôi tin rằng ngày nay khó đi lang thang trong các khu phố này của thủ đô hay ra khỏi nhà. Chắc chắn là người ta lo sợ. Vì không có an ninh. Nhưng chúng tôi luôn luôn có niềm hy vọng, bởi vì chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Chúng tôi phải đi tới hòa bình thôi.
Hỏi: Các nhóm quân bảo hòa liên hiệp quốc đã làm những gì, và có thể làm những gì trong tình trạng này, thưa cha?
Đáp: Nói thật ra, họ đã có thể can thiệp nhanh nhất có thể. Từ các tin tức mà tôi đã nhận được các toán quân đó ở cách xa chỗ xảy ra khủng bố ngót một cây số. Họ đã được liên lạc, nhưng họ đã mất hàng giờ hàng giờ để can thiệp. Nếu ho đã can thiệp trước, thì tôi tin rằng đã có thể tránh được được tình hình tồi tệ này.
Tiếp theo đây là một số nhận định của Linh Mục Zephirin Yakanda, cha phó giáo xứ Alassio, và là người quen biết cha Nzale.
Hỏi: Thưa cha Yakanda, cha Paul Emile Nzale là người như thế nào?
Đáp: Cha là một người tốt lành, sống gần gũi dân chúng và là người không sợ hãi ai. Cha đang thăm các gia đình tỵ nạn trong giáo xứ thì bị bắn.
Hỏi: Cha có kỷ niệm nào với cha Nzale hay không?
Đáp: Chính cha Nzale đã dậy tôi giảng. Ngài đã đậy tội sống với dân chúng. Khi tôi còn là chủng sinh tôi đã biết cha tại giáo xứ Chúa Ba Ngôi và ngài đã hướng dẫn tôi từ từ cho tới khi tôi làm linh mục cách đây 18 năm.
Hỏi: Cha có nhớ vài lời khuyên hay vài lời nói của ngài hay không?
Đáp: Có chứ. Ngài khuyên tôi kiên trì trong lời cầu nguyện, đừng bao giờ chán nản ngã lòng và luôn luôn hy vọng: ngài lập đi lập lại các lời khuyên này.
Hỏi: Nghĩa là cha Nzale đã luôn luộn sống giữa dân chúng và đã được người dân rất thương mến?
Đáp: Vâng, ngài đã luôn luôn sống giữa người dân và được dân chúng trong thủ đô Bangui rất thương mến.
Hỏi: Vậy bây giờ dân chúng thủ đô ra sao?
Đáp: Người dân sống trong sợ hãi. Trong thành phố không có điện, nhưng có cuộc tổng đình công bãi thị. Dân chúng khua đĩa inh ỏi để phản đối.
Hỏi: Cha có hy vọng gì không?
Đáp: Tôi hy vọng người ta thôi bạo lực. Tôi hy vọng cộng đồng quốc tế giúp chúng tôi làm một cái gì đó để tìm lại được hòa bình, bởi vì Trung Phi đã là một quốc gia luôn luôn sống trong hòa bình. Chỉ từ 15 năm qua ma qủy đã tỉnh thức: ma qủy chia rẽ đã tỉnh thức và gieo tai họa. Chúng tôi khÔng thành công trong việc ngăn chặn hận thù và sự căng thẳng này.
Hỏi: Cũng có các vụ phản đối lực lượng bảo hòa đã không mau chóng can thiệp, có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Đúng vậy. Các binh sĩ ở cách họ đạo không xa và có các phương tiện tạo dựng hòa bình. Nhưng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra tại đó mà họ đã không hành động.
Hỏi: Cha có muốn đưa ra lời kêu gọi nào không?
Đáp: Có. Chúng tôi muốn kêu gọi cộng đồng quốc tế đừng nhắm mắt và để cho dân chúng Trung Phi biến mất khỏi bản đồ địa lý thế giới. Ước chi họ hành động và yểm trợ người dân Trung Phi. Dân Trung Phi chỉ muốn có hòa bình, chỉ muốn sống. Xem ra người dân nước này bị bỏ rơi cho số phận của họ. Điều này không đúng! Xin cộng đồng quốc tế hãy can thiệp và làm một cái gì đó để nâng đỡ những người dân vô tội đang phải chết này! (RG 29.30-5-2014)
Chiều ngày 28-5-2014 một nhóm người vũ trang, có lẽ là cựu phiến quân hồi giáo Seleka, đã dùng lựu đạn tấn công nhà thờ Đức Bà Fatima vùng ngoại ô thủ đô Bangui, khiến cho ít nhất 17 người chết kể cả một linh mục.
Tin địa phương nói số nạn nhân khoảng 40 người. Ngày 30-5-2014 hàng trăm người đã xuống đường biểu tình tại thủ đô Bangui để phản đối và lên án vụ khủng bố đã man này, đồng thời để phản đối các lực lượng quốc tế, tuy ở gần đó nhưng đã can thiệp chậm trễ. Vị linh mục bị thiệt mạng là cha Paul Emile Nzale, 76 tuổi. Cha đang thăm người tỵ nạn trong giáo xứ. Người ta cũng cho biết là đã có một số tín hữu bị nhóm phiến quân hồi bắt làm con tin.
Trung Phi rộng gần 623 ngàn cây số vuông, có khoảng 5 triệu dân gồm nhiều chủng tộc khác nhau, hơn 80% theo Kitô giáo gồm 51,4% Tin Lành 28,9% Công Giáo, 15% hồi giáo và 9.6% theo đạo thờ vật linh. Từ năm 2012 lực lượng Seleka gồm các phiến quân hồi nổi lên tiến chiếm miền bắc và miền trung và từ năm 2013 đánh chiếm thủ đô Bangui và lên nắm quyền. Các lực lượng dân quân kitô quy tụ thành phong trào Chống Balaka đánh nhau với lực lượng Seleka, khiến cho nội chiến kéo dài tại Trung Phi.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn bài phỏng vấn Linh Mục Mathieu Bondobo về tình hình Trung Phi hiện nay.
Hỏi: Thưa cha, tại sao các binh sĩ lực lượng phiến quân Seleka lại tấn công và gieo chết chóc cho các kitô hữu như thế?
Đáp: Tin khủng bố sát hại này thật là buồn và trầm trọng. Ban đầu chúng tôi đã dấn thân nói rằng cuộc xung khắc này là chính trị, chứ không phải là cuộc chiến tranh giữa các tôn giáo. Nhưng sự kiện cố ý tấn công một họ đạo như vậy làm cho chúng tôi lo sợ, bởi vì nó là một dữ kiện mạnh mẽ để nói rằng cuộc xung đột đang ngày càng trở thành tôn giáo nhiều hơn. Và điều này cũng giúp chúng tôi nói rằng các tôn giáo chúng tôi phải tỉnh táo mở mắt, để không bị lèo lái bởi các nhà chính trị, bởi vì chỉ cần lơ là một chút là rơi vào cạm bẫy này. Dân tộc này đã luôn luôn chung sống với nhau với các tôn giáo khác nhau hiện diện tại đây, và vì thế ngày hôm nay chúng tôi không thể bắt đầu gây chiến với nhau được. Tuy nhiên, chúng tôi phải sẵn sàng và tỉnh thức để tránh tất cả các cạm bẫy này. Tôi xin lập lại, với điều đã xảy ra, chỉ cần một chút thôi là lại nảy sinh ra sự báo thù trong trái tim con người.
Hỏi: Theo cha thì tại sao lại xảy ra cuộc tấn công này?
Đáp: Tôi không có một tư tưởng rõ ràng về các lý do chính xác của vụ tấn công. Nhưng cần nói rằng giáo xứ Đức Bà Fatima này nằm trong một vùng rất gần một khu phố, nơi đã có lời đồn thổi rằng vài phiến quân đã len lỏi vào và tập trung tại đây. Và như thế một giáo xứ rất ngoại ô là một vùng hơi nóng bỏng. Do đó chỉ cần một chút là xảy ra các vụ tấn công loại này.
Hỏi: Giáo Hội nằm giữ vai trò nào trong tình trạng hiện nay tại Trung Phi? Và các giáo xứ trong thủ đô Bangui hiện đang làm gì, một cách đặc biệt để trợ giúp dân chúng?
Đáp: Kể từ khi cuộc xung khắc bắt đầu, Giáo Hội Công Giáo đã luôn luôn làm rất nhiều để trợ giúp dân chúng. Giáo Hội Công Giáo ủng hộ hòa bình. Vì thế họ đạo Đức Bà Fatima, cũng như tất cả các họ đạo khác trong thủ đô Bangui, đã trở thành nơi tiếp đón. Tất cả những người không cảm thấy an ninh đã tìm được nơi trú ẩn trong nhà thờ này: đó là sự kiện quan trọng. Mọi họ đạo của chúng tôi đều tiếp đón rất nhiều người. Nhưng các nhà thờ không được bảo vệ. Và tiện đây tôi xin kêu gọi các cơ quan quốc tế để họ mở mắt nhìn một họ đạo yểm trợ hòa bình tiếp đón biết bao nhiêu người tỵ nạn, mà lại không được bảo vệ, thì đây không phải là điều bình thường. Do đó trong số các nạn nhân, ngoài đa số là tín hữu kitô, cũng có những người không kitô. Họ đã bỏ khu phố của họ để đến trú ẩn nơi đây vì không cảm thấy an ninh.
Hỏi: Xem ra tình hình tại Trung Phi lắng dịu hơn một chút có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Các tin tức cuối cùng cho biết như thế. Tại Trung Phi nói chung tình hình không yên ổn. Nhưng tại thủ đô thì đã có nhiều kiểm soát hơn một chút, trong nghĩa các sinh hoạt đã bắt đầu trở lại, nghĩa là cuộc sống bắt đầu trở lại trong thủ đô Bangui. Đó là các tin mới nhất. Tuy nhiên, điều này giúp hiểu rằng còn có rất nhiều việc phải làm.
Hỏi: Dân chúng trong thủ đô Bangui đã mất hy vọng rồi hay sao thưa cha?
Đáp: Người dân đã không hoàn toàn mất hy vọng, nhưng họ có một chút nghi ngờ. Nói một cách nhân loại thì họ có mất hy vọng. Dĩ nhiên là sự sợ hãi lại nảy nở trong con tim người ta. Tôi tin rằng ngày nay khó đi lang thang trong các khu phố này của thủ đô hay ra khỏi nhà. Chắc chắn là người ta lo sợ. Vì không có an ninh. Nhưng chúng tôi luôn luôn có niềm hy vọng, bởi vì chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Chúng tôi phải đi tới hòa bình thôi.
Hỏi: Các nhóm quân bảo hòa liên hiệp quốc đã làm những gì, và có thể làm những gì trong tình trạng này, thưa cha?
Đáp: Nói thật ra, họ đã có thể can thiệp nhanh nhất có thể. Từ các tin tức mà tôi đã nhận được các toán quân đó ở cách xa chỗ xảy ra khủng bố ngót một cây số. Họ đã được liên lạc, nhưng họ đã mất hàng giờ hàng giờ để can thiệp. Nếu ho đã can thiệp trước, thì tôi tin rằng đã có thể tránh được được tình hình tồi tệ này.
Tiếp theo đây là một số nhận định của Linh Mục Zephirin Yakanda, cha phó giáo xứ Alassio, và là người quen biết cha Nzale.
Hỏi: Thưa cha Yakanda, cha Paul Emile Nzale là người như thế nào?
Đáp: Cha là một người tốt lành, sống gần gũi dân chúng và là người không sợ hãi ai. Cha đang thăm các gia đình tỵ nạn trong giáo xứ thì bị bắn.
Hỏi: Cha có kỷ niệm nào với cha Nzale hay không?
Đáp: Chính cha Nzale đã dậy tôi giảng. Ngài đã đậy tội sống với dân chúng. Khi tôi còn là chủng sinh tôi đã biết cha tại giáo xứ Chúa Ba Ngôi và ngài đã hướng dẫn tôi từ từ cho tới khi tôi làm linh mục cách đây 18 năm.
Hỏi: Cha có nhớ vài lời khuyên hay vài lời nói của ngài hay không?
Đáp: Có chứ. Ngài khuyên tôi kiên trì trong lời cầu nguyện, đừng bao giờ chán nản ngã lòng và luôn luôn hy vọng: ngài lập đi lập lại các lời khuyên này.
Hỏi: Nghĩa là cha Nzale đã luôn luộn sống giữa dân chúng và đã được người dân rất thương mến?
Đáp: Vâng, ngài đã luôn luôn sống giữa người dân và được dân chúng trong thủ đô Bangui rất thương mến.
Hỏi: Vậy bây giờ dân chúng thủ đô ra sao?
Đáp: Người dân sống trong sợ hãi. Trong thành phố không có điện, nhưng có cuộc tổng đình công bãi thị. Dân chúng khua đĩa inh ỏi để phản đối.
Hỏi: Cha có hy vọng gì không?
Đáp: Tôi hy vọng người ta thôi bạo lực. Tôi hy vọng cộng đồng quốc tế giúp chúng tôi làm một cái gì đó để tìm lại được hòa bình, bởi vì Trung Phi đã là một quốc gia luôn luôn sống trong hòa bình. Chỉ từ 15 năm qua ma qủy đã tỉnh thức: ma qủy chia rẽ đã tỉnh thức và gieo tai họa. Chúng tôi khÔng thành công trong việc ngăn chặn hận thù và sự căng thẳng này.
Hỏi: Cũng có các vụ phản đối lực lượng bảo hòa đã không mau chóng can thiệp, có đúng thế không thưa cha?
Đáp: Đúng vậy. Các binh sĩ ở cách họ đạo không xa và có các phương tiện tạo dựng hòa bình. Nhưng tôi không biết chuyện gì đã xảy ra tại đó mà họ đã không hành động.
Hỏi: Cha có muốn đưa ra lời kêu gọi nào không?
Đáp: Có. Chúng tôi muốn kêu gọi cộng đồng quốc tế đừng nhắm mắt và để cho dân chúng Trung Phi biến mất khỏi bản đồ địa lý thế giới. Ước chi họ hành động và yểm trợ người dân Trung Phi. Dân Trung Phi chỉ muốn có hòa bình, chỉ muốn sống. Xem ra người dân nước này bị bỏ rơi cho số phận của họ. Điều này không đúng! Xin cộng đồng quốc tế hãy can thiệp và làm một cái gì đó để nâng đỡ những người dân vô tội đang phải chết này! (RG 29.30-5-2014)
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đức Giám Mục GP Vinh cầu nguyện cho các nạn nhân bị tai nạn giao thông tại Thái Lan
Jos. Tân Yên
10:08 10/06/2014
Trong bầu khí long trọng mừng đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, hiệp ý sâu sắc trong lời cầu nguyện và bày tỏ sự chia sẻ thân tình nhất đến Tỉnh Dòng Đaminh Việt Nam cùng các giáo xứ, gia đình và thân quyến của các nạn nhân, sáng ngày 08.6.2014 tại nhà thờ Chính tòa Xã Đoài, Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp đã chủ sự thánh lễ cầu nguyện đặc biệt cho các nạn nhân trong vụ tai nạn giao thông tại Thái Lan vừa qua. Cùng đồng tế với ngài có cha JB. Nguyễn Khắc Bá – Giám đốc Đại Chủng viện (ĐCV) Vinh Thanh, quý cha giáo sư ĐCV, quý cha tại Tòa Giám mục Xã Đoài, quý cha trong giáo hạt Xã Đoài trước sự hiện diện đông đảo của quý chủng sinh, tu sĩ, quý thân nhân các nạn nhân và đông đảo bà con giáo dân xa gần.
Hình ảnh
Như tin đã đưa, tai nạn kinh hoàng trên tỉnh lộ 201, thuộc tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan ngày 02.6.2014 vừa qua, khiến 13 người tử nạn, hầu hết là con cái giáo phận Vinh đã thực sự gây rúng động cho người giáo dân nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung. Hết thảy mọi người đều đau đớn và thương tiếc khi được tin về con số thương vong quá lớn. Toàn giáo phận đang sống trong những ngày tang thương. Cảnh tử biệt sinh ly, cha mẹ mất con, chồng mất vợ, con mất mẹ... thật thảm thiết đau buồn cho các gia đình nạn nhân và mọi người trong giáo phận Vinh.
Các nạn nhân là những người có tuổi đời còn trẻ, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Sự khắc nghiệt do thiên tai, sự cơ cực của đời sống trên dải đất miền Trung cằn cỗi đã dẫn tới việc người dân phải bỏ xứ sở ra đi để “tha phương cầu thực”như là hệ quả tất yếu. Cư ngụ và làm việc tại nơi đất khách quê người, các anh chị em luôn ngày đêm hướng về quê hương với những trăn trở và thao thức chăm lo cho cuộc sống gia đình ngày thêm sung túc. Đó chính là động lực cho sự cố gắng và hy sinh trong cuộc sống bươn chải, vất vả tại miền đất họ tạm trú. Dù bận bịu và lăn lộn với kiếp mưu sinh, nhưng các anh chị em vẫn luôn diễn tả một đức tin sống động, nhiệt thành trong công việc Nhà Chúa và mọi sinh hoạt cộng đoàn. Trong chuyến xe định mệnh chở các bạn trẻ đi dự đại hội giới trẻ Công Giáo Việt Nam lần thứ IV tại nhà thờ Tổng lãnh Thiên thần Michael thuộc Đông Bắc Thái Lan, thì tai nạn bất ngờ ập tới. Làm sao không đau xót trước sự ra đi kinh hoàng của các em khi đang tuổi xuân xanh, làm sao không quặn lòng trước hình hài không nguyên vẹn và không thể nhận ra đang được di chuyển để được an táng trong lòng đất mẹ, làm sao không nghẹn ngào trước sự mất mát lớn lao này...
Bỏ lại bao đau thương nuối tiếc của gia đình, gửi lại bạn bè cùng trang lứa những kỷ niệm của tuổi trẻ, chào xứ sở và người thân, các em đã vĩnh viễn ra đi, nằm sâu trong lòng đất lạnh… Sẽ không còn được gọi tiếng mẹ ơi, sẽ cô đơn, lạc lõng trong những bước đi chập chững vào đời, sẽ thiệt thòi khi những đứa trẻ thiếu nguồn sữa tình thương và mãi mãi không có những kỷ niệm về mẹ, sẽ còn những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của người thân, sẽ còn những nỗi lo âu cho những tháng ngày dài phía trước với món nợ chồng chất…
Trước khi bước vào thánh lễ, đứng trước di ảnh của những người đã ra đi, Đức Cha Phaolô, quý cha, quý thân nhân, quý chủng sinh, tu sĩ đã thắp nén hương và dâng lời nguyện cầu trong niềm tín thác vào Đấng Phục Sinh.
Giảng trong thánh lễ, khởi đi từ các bài đọc Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23), Đức Cha Phaolô đã gợi lên thật sinh động khuôn mặt của Thiên Chúa Ngôi Ba, nêu bật tầm ảnh hưởng cũng như dấu ấn đậm nét của Ngài trong đời sống Hội Thánh. Vị chủ tế nói đến hình ảnh ngọn lửa như một biểu tượng để chỉ về Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự sống, của sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Ngọn lửa ấy thực sự là quà tặng vô giá được trao ban cho loài người. Ngọn lửa ấy đã bừng lên suốt 20 thế kỷ qua và vẫn tiếp tục cháy sáng. Các tín hữu phải biết luôn làm nóng, cháy hết mình trong mỗi giây phút của cuộc đời. Đó là một quá trình lâu dài, liên tục bắt nguồn từ việc đổi mới chính mình, tiến dần tới sự cải biến thế giới, là mối quan tâm và ưu tiên hàng đầu trong mọi hoạt động trần thế.
Vị chủ chăn giáo phận cũng kêu mời sự hiệp thông cầu nguyện cho hòa bình thế giới và dân tộc. Giấc mơ hòa bình là một khát vọng chính đáng nhưng vẫn còn đó những giọt máu và nước mắt đang chảy trên những người dân vô tội; vẫn còn đó bao muộn phiền, âu lo cho những tháng ngày dài phía trước với nhiều dự cảm chẳng lành; vẫn là mùi khói lửa và bom đạn chiến tranh qua nhiều thế hệ mà chưa đến hồi kết tại Trung Đông và Syria; và cũng còn đó những nỗi bức xúc trước sự ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc tại biển đảo Việt Nam trong thời gian qua.
Cuối bài giảng, trong giây phút xúc động, Đức Cha đã bày tỏ niềm thương cảm và đau xót trước sự ra đi đột ngột của các nạn nhân vào ngày 02.6.2014 vừa qua tại Thái Lan. Đồng thời, ngài cũng kêu mời cộng đoàn dân Chúa cầu nguyện cách đặc biệt cho các nạn nhân cùng gia đình của họ trong hoàn cảnh tang thương này.
Hình ảnh
Như tin đã đưa, tai nạn kinh hoàng trên tỉnh lộ 201, thuộc tỉnh Chaiyaphum ở Đông Bắc Thái Lan ngày 02.6.2014 vừa qua, khiến 13 người tử nạn, hầu hết là con cái giáo phận Vinh đã thực sự gây rúng động cho người giáo dân nói riêng và cộng đồng xã hội nói chung. Hết thảy mọi người đều đau đớn và thương tiếc khi được tin về con số thương vong quá lớn. Toàn giáo phận đang sống trong những ngày tang thương. Cảnh tử biệt sinh ly, cha mẹ mất con, chồng mất vợ, con mất mẹ... thật thảm thiết đau buồn cho các gia đình nạn nhân và mọi người trong giáo phận Vinh.
Các nạn nhân là những người có tuổi đời còn trẻ, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Sự khắc nghiệt do thiên tai, sự cơ cực của đời sống trên dải đất miền Trung cằn cỗi đã dẫn tới việc người dân phải bỏ xứ sở ra đi để “tha phương cầu thực”như là hệ quả tất yếu. Cư ngụ và làm việc tại nơi đất khách quê người, các anh chị em luôn ngày đêm hướng về quê hương với những trăn trở và thao thức chăm lo cho cuộc sống gia đình ngày thêm sung túc. Đó chính là động lực cho sự cố gắng và hy sinh trong cuộc sống bươn chải, vất vả tại miền đất họ tạm trú. Dù bận bịu và lăn lộn với kiếp mưu sinh, nhưng các anh chị em vẫn luôn diễn tả một đức tin sống động, nhiệt thành trong công việc Nhà Chúa và mọi sinh hoạt cộng đoàn. Trong chuyến xe định mệnh chở các bạn trẻ đi dự đại hội giới trẻ Công Giáo Việt Nam lần thứ IV tại nhà thờ Tổng lãnh Thiên thần Michael thuộc Đông Bắc Thái Lan, thì tai nạn bất ngờ ập tới. Làm sao không đau xót trước sự ra đi kinh hoàng của các em khi đang tuổi xuân xanh, làm sao không quặn lòng trước hình hài không nguyên vẹn và không thể nhận ra đang được di chuyển để được an táng trong lòng đất mẹ, làm sao không nghẹn ngào trước sự mất mát lớn lao này...
Bỏ lại bao đau thương nuối tiếc của gia đình, gửi lại bạn bè cùng trang lứa những kỷ niệm của tuổi trẻ, chào xứ sở và người thân, các em đã vĩnh viễn ra đi, nằm sâu trong lòng đất lạnh… Sẽ không còn được gọi tiếng mẹ ơi, sẽ cô đơn, lạc lõng trong những bước đi chập chững vào đời, sẽ thiệt thòi khi những đứa trẻ thiếu nguồn sữa tình thương và mãi mãi không có những kỷ niệm về mẹ, sẽ còn những giọt nước mắt lăn dài trên gò má của người thân, sẽ còn những nỗi lo âu cho những tháng ngày dài phía trước với món nợ chồng chất…
Trước khi bước vào thánh lễ, đứng trước di ảnh của những người đã ra đi, Đức Cha Phaolô, quý cha, quý thân nhân, quý chủng sinh, tu sĩ đã thắp nén hương và dâng lời nguyện cầu trong niềm tín thác vào Đấng Phục Sinh.
Giảng trong thánh lễ, khởi đi từ các bài đọc Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 2,1-11; 1Cr 12,3b-7.12-13; Ga 20,19-23), Đức Cha Phaolô đã gợi lên thật sinh động khuôn mặt của Thiên Chúa Ngôi Ba, nêu bật tầm ảnh hưởng cũng như dấu ấn đậm nét của Ngài trong đời sống Hội Thánh. Vị chủ tế nói đến hình ảnh ngọn lửa như một biểu tượng để chỉ về Chúa Thánh Thần là nguyên lý của sự sống, của sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Ngọn lửa ấy thực sự là quà tặng vô giá được trao ban cho loài người. Ngọn lửa ấy đã bừng lên suốt 20 thế kỷ qua và vẫn tiếp tục cháy sáng. Các tín hữu phải biết luôn làm nóng, cháy hết mình trong mỗi giây phút của cuộc đời. Đó là một quá trình lâu dài, liên tục bắt nguồn từ việc đổi mới chính mình, tiến dần tới sự cải biến thế giới, là mối quan tâm và ưu tiên hàng đầu trong mọi hoạt động trần thế.
Vị chủ chăn giáo phận cũng kêu mời sự hiệp thông cầu nguyện cho hòa bình thế giới và dân tộc. Giấc mơ hòa bình là một khát vọng chính đáng nhưng vẫn còn đó những giọt máu và nước mắt đang chảy trên những người dân vô tội; vẫn còn đó bao muộn phiền, âu lo cho những tháng ngày dài phía trước với nhiều dự cảm chẳng lành; vẫn là mùi khói lửa và bom đạn chiến tranh qua nhiều thế hệ mà chưa đến hồi kết tại Trung Đông và Syria; và cũng còn đó những nỗi bức xúc trước sự ngang ngược của nhà cầm quyền Trung Quốc tại biển đảo Việt Nam trong thời gian qua.
Cuối bài giảng, trong giây phút xúc động, Đức Cha đã bày tỏ niềm thương cảm và đau xót trước sự ra đi đột ngột của các nạn nhân vào ngày 02.6.2014 vừa qua tại Thái Lan. Đồng thời, ngài cũng kêu mời cộng đoàn dân Chúa cầu nguyện cách đặc biệt cho các nạn nhân cùng gia đình của họ trong hoàn cảnh tang thương này.
Các ca đoàn GXVN Paris học hỏi về Phụng Vụ, Thánh Nhạc và Ca Đoàn
Trần Văn Cảnh
11:16 10/06/2014
CÁC CA ĐOÀN GXVN PARIS HỌC HỎI VỀ « PHỤNG VỤ, THÁNH NHẠC VÀ CA ĐOÀN »
Thứ bảy, ngày 07 tháng VI năm 2014. Các ca đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris đã đáp lời mời của Ông Võ Tri Văn, Ủy Viên Phụng vụ và Thánh ca, trở về giáo xứ để cùng nhau họp mặt và hội học. Họp mặt và hội học của 14 ca đoàn Paris và ngoại ô đã trở thành truyền thống. Theo những tài liệu mà tôi ghi nhận và lưu trữ, đây là lần họp mặt hội học thứ 10 của các ca đoàn GXVN Paris.
1. Chia sẻ kinh nghiệm hát thánh ca phụng vụ, ngày 30.IV.2005, với cha Vũ Thái Hòa.
2. Khóa huấn luyện ca trưởng, hai ngày 21 và 23.IV.2006, với cha Vũ Thái Hòa.
3. Họp mặt các ca đoàn, « Trao đổi về thánh ca », ngày 29.IV.2006, với cha Nguyễn Thành Sang.
4. Diễn nguyện thánh ca, ngày 29.IV.2007, với cha Giuse Nguyễn Văn Việt.
5. Học hỏi về « Các thừa tác viên công bố Lời Chúa », ngày 23.II.2008, với cha Giuse Nguyễn Văn Việt.
6. Học hỏi về đề tài « Con tim muốn hát », ngày 26.IV.2008, với cha Phêrô, cha Phaolô và Sơ Maria.
7. Điễn nguyện thánh ca với chủ đề : « Con tìm Chúa hay Chúa tìm con », ngày Chúa Nhật 21.XII. 2008, với Đức Cha Đaminh Mai Thanh Lương.
8. Diễn nguyện thánh ca với chủ đề « Mến ơi », Chúa Nhật 03.VII.2010, với cha Vũ Mộng Thơ.
9. Học hỏi về đề tài « Tin và Hát với nhau », ngày 18.V.2013.
Hôm nay, ngày 07.VI.2014, lần hội học thứ mười, đề tài hướng về « Phụng vụ, Thánh nhạc và Ca đoàn », do linh mục Giuse Nguyễn văn Hiển, dòng Đa Minh, trình bày.
Tựa vào 2 tài liệu chính, là « Hiến chế về Phụng vụ » của Công Đồng Vatican II và « Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ » của Thánh bộ Lễ nghi ngày 05 tháng 03 năm 1967, Cha Giuse đã khai triển 3 khía cạnh sau đây : 1. Công đồng Vatican II nói về phụng vụ. 2- Thánh nhạc trong phụng vụ. 3- Vai trò của ca đoàn trong các cử hành phụng vu.
Vì ích lợi của việc đào tạo liên tục, sau đây, chúng tôi xin phép cha Giuse được trích đăng nguyên văn bài của cha, để mọi ca viên trong các ca đoàn có tài liệu học hỏi và tham khảo.
Hiến chế về Phụng vụ-Sacrosanctum concilium của Công đồng Vatican II, số 14 : Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể các tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Việc tham dự ấy do chính bản tính phụng vụ đòi hỏi; lại nữa, nhờ phép Rửa Tội, việc tham dự phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo, “là giòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là dân thánh, là con dân được tuyển chọn” (1P 2,9; x. 2,4-5)
I.- CÔNG ĐỒNG VATICAN II NÓI VỀ PHỤNG VỤ
Chúng ta biết rằng, trước Công đồng chung Vatican II, việc cử hành phụng vụ, nhất là cử
hành thánh lễ, là công việc của riêng linh mục. Nghĩa là giáo dân không có vai trò gì; họ tham
dự vào các mầu nhiệm thánh qua việc lần chuỗi hay đọc các sách đạo đức, và thưa “Amen” sau khi nghe đến các chữ “in saecula, seculorum” của linh mục trên bàn thờ. Nhưng kể từ sau Công đồng Vatican II, việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội đã mang một khuôn diện mới: Phụng vụ là công việc chung của toàn thể Giáo Hội.
1.- Khái niệm về phụng vụ :
Trước hết, chữ Phụng vụ trong tiếng Việt, liturgie trong tiếng Pháp được chuyển dịch bởi chữ liturgia trong tiếng latin, và có nguồn gốc hy lạp bởi chữ leiturgia, có ý nghĩa trước tiên là việc phục vụ công cộng, công ích hay ngay cả phục vụ cho ích lợi xã hội, nhà nước. Trong Kinh Thánh, cụm từ này chỉ việc phụng vụ trong đền thờ, như việc dâng lễ tạ ơn Chúa thay cho dân : « Zacaria » thực hiện vai trò dâng lễ tạ ơn thay cho toàn dân. Cũng cần nói thêm chữ leiturgia được dịch là offcium, ministerium, munus.
Công đồng Vatican II nói với chúng ta rằng: Phụng vụ là “việc thực thi chức vụ tư tế của
chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người được biểu tượng nhờ những
dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ, và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn cũng được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là gồm cả
Ðầu cùng các chi thể của Người”
2.- Giá trị của Phụng vụ
Phụng vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Giáo Hội, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội. Thực vậy, các công lao khó nhọc trong việc tông đồ đều nhằm làm cho mọi người, nhờ đức tin và phép rửa, trở nên con cái Thiên Chúa, cùng nhau qui tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần hiến tế và ăn tiệc của Chúa. Vì thế, chính Phụng vụ, nhất là Lễ Tạ Ơn, như là nguồn mạch chảy tràn ân sủng vào trong chúng ta và làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách hữu hiệu đồng thời Thiên Chúa được vô cùng tôn vinh; đó là điều mà mọi công việc khác của Giáo Hội đều qui hướng về như là cứu cánh. Hai ý nghĩa chính của việc cử hành Phụng vụ : “tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người”,
3.- Việc tham dự vào các cử hành phụng vụ là công việc của toàn thể Giáo Hội
Việc cử hành phụng vụ là công việc chung của toàn thể Giáo Hội, nó không là công việc
của riêng một các nhân, cho nên, mọi người đều được mời gọi tham dự cách tích cực, ý thức và nảy sinh hoa trái vào công việc chung này. Và « Ðể phát huy việc tham gia linh động, cần phải cổ xúy những lời tung hô của dân chúng, những lời đối đáp, những bài ca vịnh, tiền khúc, thánh ca, và cả những động tác hoặc cử chỉ, thái độ của thân xác ».
Tuy nhiên, Công đồng cũng nhắc nhở ở số 28 rằng : « Là thừa tác viên hay là tín hữu, trong các việc cử hành phụng vụ, mỗi người khi chu toàn phận vụ, chỉ thi hành trọn những gì
thuộc lãnh vực mình tùy theo bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ ».
II.- THÁNH NHẠC TRONG PHỤNG VỤ
Ngay từ những ngày đầu thuở Giáo Hội mới khai sinh, mỗi khi có dịp hội họp lại với nhau để cử hành Phụng vụ, các tín hữu luôn dùng lời ca tiếng hát để tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa. Quả thật, trong Sách Công vụ các Tông đồ và các thư của thánh Phaolô đã đề cập đến những việc này : Nhưng trước đó, cũng cần phải nói rằng, chính Đức Giêsu và các tông đồ đã làm việc này trong khi cử hành tiệc Vượt qua. Thánh sử Luca đã kể rằng, Phaolô và Xila đã hát
thánh ca cầu nguyện ngay trong ngục (Cv 16,25). Thánh Phaolô cũng đã từng khuyến dụ các tín hữu Êphêxô rằng : “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5,19). Người cũng viết cho các tín hữu Côlôxê: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (Cl 3,16c).
Từ đó đến nay, vai trò của Thánh nhạc trong Phụng vụ vẫn được Giáo Hội đề cao và quan
tâm cách đặc biệt, cho đó là ngôn ngữ và là thành phần thiết yếu của Phụng vụ trọng thể.
1.- Giáo huấn của Giáo Hội về Thánh nhạc trong phụng vụ
Chúng ta chỉ nêu ra ở đây một vài giáo huấn của Giáo Hội về vai trò của Thánh nhạc trong cử hành phụng vụ, để từ đó chúng ta tìm hiểu tham dự của chúng ta vào việc hát Thánh nhạc trong các buổi cử hành phụng vụ. Công đồng Vatican II đã khẳng định giá trị của Thánh
nhạc, qua trước hết trong Hiến chế Phụng vụ, các số 112-114 :
Truyền thống âm nhạc của Giáo Hội trên khắp hoàn cầu đã cấu tạo nên một kho tàng vô giá, vượt khỏi mọi nghệ thuật khác. Lí do chính là vì thánh ca đi liền với câu kinh để kết thành một phần cần thiết hoặc kiện toàn phụng vụ trọng thể. Do đó, Thánh nhạc càng liên kết với phụng vụ chặt chẽ thì càng nên một nhạc thánh hơn, vì nó phát biểu lời cầu nguyện cách dịu dàng hơn, giúp cho sự đồng thanh nhất trí và làm cho nghi lễ càng thêm long trọng. Giáo Hội chấp nhận và dùng vào phụng vụ tất cả những hình thức nghệ thuật có đủ điều kiện của nghệ thuật đích thực (HCPV, số 112).
Vì thế, « phải hết sức thận trọng gìn giữ và trau dồi kho tàng Thánh nhạc, phải cố gắng
đào tạo các ca đoàn. Các Giám mục và các vị chủ chăn hãy nhiệt thành lo cho toàn thể cộng đoàn tín hữu có thể tham dự thánh lễ cách linh động những phần riêng dành cho họ trong các nghi lễ cử hành với kinh hát » (HCPV, số 114).
Kế đến, “Huấn thị về âm nhạc trong Phụng vụ” được ban hành ngày 05 tháng 03 năm 1967, do Bộ Phụng tự, nghi lễ và kỷ luật các Bí tích đòi hỏi : Thánh nhạc là những loại âm nhạc được sáng tác để phụng thờ Thiên Chúa, vì thế Thánh nhạc phải biểu lộ được sự thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuật cao.
Để đáp ứng đòi hỏi này, trong tất cả các nghi lễ phụng vụ do cộng đồng dân Chúa cử hành, dưới quyền chủ toạ của Đức Giám Mục, linh mục, hoặc các thừa tác viên có chức thánh, ca đoàn, với khả năng ưu tú của họ, đã được chọn làm một thừa tác viên, một nhân tố sống động
của cộng đồng dân Chúa, với nhiệm vụ làm cho các nghi lễ thêm rực rỡ vui tươi và giúp cho
giáo dân tham gia tích cực vào việc ca hát.
2.- Mục đích của Thánh nhạc
Thực vậy, vai trò của Thánh nhạc (hay âm nhạc) trong phụng vụ là : giúp con người cầu nguyện và là trợ tá cho các cử hành phụng vụ. Vì vậy, âm nhạc không lấn át các cử hành phụng vụ, nhưng trợ giúp và làm cho các cử hành trở nên trang trọng, hân hoan, nó giúp con người hướng lên cùng Thiên Chúa, chứ không làm ngược lại bằng cách lội kéo và hướng chú ý của con người về chính mình. Để đạt tới mục đích cao trọng của Thánh nhạc là: « Tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá tâm hồn các tín hữu ».
Do đó Thánh nhạc càng liên kết chặt chẽ với hoạt động phụng vụ bao nhiêu thì càng thánh hơn bấy nhiêu. Thánh nhạc vừa phát triển lời cầu nguyện một cách dịu dàng hơn, vừa cổ võ sự đồng thanh nhất trí, lại vừa làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng.
a). Thánh nhạc là làm vinh danh Chúa (HCPV, số 112) Mục đích chính trước tiên và trên hết của Thánh nhạc nhắm đến không gì khác hơn phải là để tôn vinh Thiên Chúa. Muốn đạt được mục đích này, người thực hiện Thánh nhạc trong Phụng vụ cần tuân giữ các quy tắc, luật lệ của truyền thống. Bên cạnh, chúng ta cần phải biết khảo cứu những thể loại, các đặc điểm của những tác phẩm âm nhạc cổ thời của Giáo Hội, để qua đó có thể sáng tạo nên những tác phẩm mới có giá trị xứng đáng trong kho tàng âm nhạc của
Giáo Hội. Như vậy, Thánh nhạc chỉ đạt được mục đích chính yếu là làm vinh danh Chúa khi nào Thánh nhạc tuân theo những truyền thống và sự hướng dẫn của Giáo Hội.
b). Thánh nhạc thánh hóa các tín hữu (Huấn thị về Thánh nhạc, số 4)
Bên cạnh việc phụng thờ Thiên Chúa, Thánh nhạc có nhiệm vụ nâng tâm hồn người tín
hữu vươn lên tới Chúa trong các buổi cầu nguyện, nhất là trong phụng vụ Thánh lễ; và nhờ đó
mà họ được thánh hóa. Muốn vậy, Thánh nhạc phải có tính thánh thiện. Tính thánh thiện của
Thánh nhạc được ẩn sâu trong chính bản chất của nó là sự chân chính, đích thực, sống động,
trong sáng, thanh cao… thể hiện rõ trong những ý nhạc lời ca. Điều này được thánh Augustin đã thổ lộ rằng : « Khi hát lên như vậy, Thánh nhạc có khả năng nâng tâm hồn người tín hữu vươn lên tới Thiên Chúa ». Do đó, không thể biến Thánh nhạc thành một thể loại nhạc thời trang, nhất thời, mau qua vào trong các Thánh lễ, nhất là trong các Thánh lễ dành cho giới trẻ.
c). Sứ vụ tông đồ của Thánh nhạc : nâng đỡ đời sống Đức Tin và Tân Phúc Âm hóa”
Thiết tưởng những lời khuyến cáo và niềm mong ước của Đức Giáo Hoàng Piô XII trong
Thông điệp Mediator Dei cần được lập lại nơi những cộng đoàn này: « Tín hữu luôn tham dự
các cử hành phụng vụ thánh không thể là những khán giả câm lặng và xa lạ... Họ phải cảm nhận sâu xa nét thẩm mỹ của phụng vụ; họ phải lần lượt, theo luật định, góp tiếng với chủ tế và ca đoàn... Ước gì tiếng của toàn dân vọng lên tới trời, đồng nhất và mạnh mẽ như tiếng sóng đại dương, biểu lộ nhịp nhàng và sinh động sự hiệp nhất một trái tim, một tâm hồn, phù hợp với tình huynh đệ của các con một Cha chung ».
Ngỏ lời với các tham dự viên Hội nghị quốc gia các ca đoàn do Hiệp hội Thánh nhạc Santa Cecilia của Italia tổ chức tại Rôma trong ngày 10 và 11 tháng 11 năm 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: « Thánh nhạc có thể nâng đỡ Đức tin và đóng góp cho công cuộc Tân
Phúc âm hóa ». Đức Thánh Cha diễn giải điều này cách sâu sắc như sau:
Về niềm tin, sự kiện thánh Augustin trở lại chắc chắn có sự tác động của những buổi nghe hát Thánh vịnh và Thánh thi trong các cử hành Phụng vụ do Thánh Ambrôsiô chủ tọa. Quả thật, nếu Đức Tin luôn phát sinh từ lắng nghe Lời Chúa, sự lắng nghe không đơn thuần dừng lại
nơi các giác quan mà đi từ giác quan đến trí và tâm. Hiển nhiên âm nhạc, và nhất là bài hát, đem lại cho các bài Thánh vịnh và các bài ca Thánh Kinh một sức mạnh thông truyền lớn lao. Thánh Ambrôsiô được Chúa ban nhiều ơn riêng, trong đó phải kể đến sự nhạy cảm và khả năng âm nhạc. Sau khi được tấn phong làm giám mục Milan, thánh nhân đã dùng tài âm nhạc được Chúa ban để phục vụ Đức Tin và Phúc âm hóa.
Đề cập mối liên hệ giữa Thánh nhạc và công cuộc Tân Phúc âm hóa, Đức Bênêđíctô còn nhắc lại giáo huấn của Công đồng qua Hiến chế về Phụng vụ như sau: « Tầm quan trọng của Thánh nhạc trong sứ mạng truyền giáo đến với muôn dân, đồng thời cổ võ việc phát huy truyền thống âm nhạc của các dân tộc. [….] hãy lại đến với sứ điệp Kitô giáo và những mầu nhiệm Đức Tin ». Đức Giáo Hoàng mời gọi những tham dự viên hãy ra sức nâng cao chất lượng nhạc phụng vụ, nhất là trong nhạc bình ca Grêgôrianô và nhạc đa âm… Điều này cũng đúng đối với nhạc Phụng vụ.
III.- VAI TRÒ CỦA CA ĐOÀN TRONG CÁC CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
Ca đoàn có một vai trò và nhiệm vụ cao quí. Một điểm cần nhắc lại rằng, trong khi cử hành phụng vụ chúng ta thấy có những thừa tác vụ như sau : các tác vụ bàn thờ, các tác vụ Lời Chúa và tác vụ phục vụ cộng đoàn. Ca đoàn thuộc vào thành phần phục vụ cộng đoàn. Cũng cần nhớ rằng, ngay từ thế kỷ thứ Ve, ở Roma, dưới thời Đức Giáo Hoàng, thánh Léon le Grand (440-461) đã xuất hiện ca đoàn (scholae cantorum).
Hoạt động phụng vụ mang một hình thức cao quí hơn khi các việc phụng tự được cử hành một cách long trọng, với tiếng hát do các thừa tác viên có chức thánh chủ sự và giáo dân tích cực tham dự (HCPV, số 113).
Điều này chính ĐGH Phaolô VI đã nói như sau : « Nếu đọc kỹ các tài liệu về Thánh nhạc, người ta sẽ thấy rõ, ngay cả bây giờ, nhiệm vụ Hội Thánh giao cho Thánh nhạc, những người sáng tác cũng như các nhạc công, các ca đoàn và những người hát trong nhà thờ thật là cao quí và hệ trọng, như từ trước đến nay vẫn thế. Khi cử hành phụng vụ, phải biết thể hiện những hình thức nghệ thuật sao cho thật hay, thật đẹp, như kèm theo các nghi thức là những cử điệu khoan thai, đẹp mắt, xứng hợp, trang trọng, cung giọng trong sáng dễ nghe, dễ đáp ; như đi đôi với lời cầu nguyện của Hội thánh là những bài hát vừa hay vừa cảm động, lại có sức nâng
tâm hồn người nghe lên cùng Thiên Chúa và giúp cầu nguyện.
Âm nhạc tỏa chiếu trên cộng đoàn họp nhau lại nhân danh Chúa Kitô một thứ ánh sáng rực rỡ như chính gương mặt của Người vậy. Nhờ sức mạnh vô hình của nghệ thuật, các ca đoàn dễ bay lên vùng ánh sáng rạng ngời của chân lý, tìm gặp Thiên Chúa là Đấng thanh tẩy và thánh
hóa. Như thế, họ có thể giúp cộng đoàn cử hành mầu nhiệm cứu độ trong những điều kiện thuận lợi khi chính họ thông phần mật thiết vào các ơn ích của mầu nhiệm đó. Nhằm mục đích này, những tài liệu tôi vừa trưng dẫn, nhằm cổ võ các ca đoàn, từ những ca đoàn trong các đại giáo đường, các nhà thờ chánh tòa, các đan viện nổi tiếng cho tới các ban hát trong các nhà nguyện, nhà thờ nhỏ, say sưa tập luyện và chuyên cần trau dồi nghệ thuật. Huấn thị về Thánh nhạc muốn rằng không một buổi cử hành phụng vụ nào mà không có hát, nên đã yêu cầu trong trường hợp không có ban hát nhỏ, thì phải có ít là hai hay ba người biết hát và được huấn luyện vừa đủ, để có thể giúp giáo dân tham dự thánh lễ và các nghi thức bằng những bài hát đơn sơ dễ hát, lại biết điều khiển và làm điểm tựa cho họ dựa vào để hát. Qua những lời lẽ trên, Hội Thánh tỏ ra săn sóc đặc biệt đến các ca đoàn, kêu mời họ đạo và cha sở lưu tâm đến ca đoàn. Lý do của sự quan tâm này là vì các ca đoàn góp phần vào việc tôn vinh thờ phượng Chúa, một nhiệm vụ hàng đầu của Hội Thánh. Đó là bản chất và lý hữu của ca đoàn ».
1.- Định Nghĩa:
Ca đoàn là một tập thể các tín hữu, nhờ vào khả năng chuyên môn của họ về âm nhạc, được tuyển chọn giữa Cộng đồng dân Chúa để thi hành thừa tác vụ ca hát trong các cử hành phụng vụ.
2.- Vai Trò:
Là những người cử hành phụng vụ cùng với linh mục và các thừa tác viên khác, ca đoàn đóng một vai trò nòng cốt là làm thế nào để lời ca tiếng hát của mình tăng thêm sự tưng bừng và linh động mà không làm mất đi vẻ tôn nghiêm, trang trọng và đạo đức của các nghi lễ Phụng vụ. Phần chung giới thiệu Sách lễ Rôma số 63 ghi rõ : « Ca đoàn là điểm tựa, là chỗ dựa cho cộng đoàn, tiếng hát của ca đoàn phải nâng đỡ và hỗ trợ cho cộng đoàn và giúp mọi người tham dự cách linh động vào việc ca hát ».
Vai trò ca hát này đã được Thánh bộ Nghi lễ đề cao trong số 5 của “Huấn Thị về âm nhạc trong Phụng vụ” như sau: “Lễ nghi phụng vụ sẽ mang hình thức cao quí hơn, khi được cử
hành kèm theo ca hát, khi mỗi thừa tác viên chu toàn đúng nhiệm vụ của mình, và khi có dân
chúng tham dự. Thật vậy, dưới hình thức đó, lời cầu nguyện được diễn tả thâm thúy hơn; mầu
nhiệm Phụng vụ với những đặc điểm có tính cấp bậc và cộng đồng được biểu lộ rõ ràng hơn;
lòng người hợp nhất với nhau hơn nhờ cùng hát chung một giọng ca, và tinh thần của con người cũng dễ dàng được nâng cao hơn, nhờ được nhìn ngắm vẻ đẹp của sự vật thánh mà vươn tới những thực tại vô hình”. (Ban Thánh nhạc Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh, Tài Liệu Thánh nhạc, Việt Nam 1994, trang 64-68.)
Ở số 16, Thánh bộ Nghi lễ còn xác nhận thêm: “Thật không có gì tưng bừng và vui vẻ hơn trong một buổi cử hành Phụng vụ mà toàn thể cộng đoàn biểu lộ đức tin và lòng đạo đức
của mình ra bằng lời ca tiếng hát”. (Ban Thánh nhạc Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh, Tài
Liệu Thánh nhạc, Việt Nam 1994, trang 64-68.)
3.- Nhiệm Vụ:
Để có thể thể hiện đúng vai trò nòng cốt trên đây, ca đoàn phải chu toàn ba nhiệm vụ Phụng vụ chính của mình : 1° hát đúng những phần dành riêng cho mình tùy theo các loại bài hát, 2° hát thay cho cộng đoàn khi họ chưa được tập luyện đủ và 3° giúp cho cộng đoàn tham gia tích cực vào việc ca hát.
Về chỗ đứng của ca đoàn : Là thành phần của tín hữu, nên chỗ ngồi của ca đoàn phải là ở giữa cộng đoàn dân Chúa, là nơi để các ca viên chu toàn tốt chức năng của mình và tham dự thánh lễ đầy đủ, sốt sắng, kể cả việc rước lễ.
Tóm lại, với vai trò là một thành phần nòng cốt chứ không phải là toàn thể cộng đoàn, ca đoàn như một hạt nhân, một chất xúc tác, một nhúm men trong đấu bột, có nhiệm vụ trợ giúp, nâng đỡ tiếng hát cho cộng đoàn. Bên cạnh đó, ca đoàn còn phải luôn cổ võ và khuyến khích Cộng đoàn tham gia tích cực vào việc ca hát, nêu gương cho họ bằng sự chuyên cần tập luyện, sự trau giồi học hỏi và sự trình tấu chu đáo các bài thánh ca17. Đừng quên rằng: không riêng gì
chủ tế và ca đoàn, mà tất cả cộng đồng dân Chúa đều được mời gọi tham gia vào phụng vụ một cách linh động và tích cực, nhất là bằng lời ca tiếng hát, bởi vì “tiếng hát của Cộng đoàn là ưu việt và không thể bỏ được”.
4. Việc huấn luyện ca đoàn
Có ba việc cần chú ý đặc biệt : Không những ca trưởng mà cả toàn thể các ca viên đều được đào tạo về thánh nhạc, phụng vụ và đạo đức (Xem Huấn thị về Thánh nhạc trong Phụng vụ, số 24).
Tóm lại, Việc tham dự vào phụng vụ là một quyền lợi và bổn phận của những người mang danh Kitô hữu nhờ bí tích thánh Tẩy. Việc tham dự vào phụng vụ, cho chúng ta nếm thử trước của phụng vụ Thiên quốc (HCPV, số 8), mà ở đó, tất cả cùng hợp đoàn ca tụng Thiên Chúa trong bữa tiệc vĩnh hằng mà Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta.
Để chuẩn bị cho việc tham dự này, Giáo Hội không ngừng mời gọi chúng ta tham dự vào các cử hành phụng vụ trần thế trong việc tôn vinh Thiên Chúa và xin ơn thánh hóa đời sống lữ
hành của chúng ta. Vì vậy, phụng vụ trở nên như nguồn mạch ân sủng cho chúng ta (HCPV, số 10). Để có một sự tham dự tích cực và ý thức vào các cử hành phụng vụ, chúng ta cần phải được hướng dẫn và đạo tạo về khía cạnh tâm linh để mỗi người hiểu rõ vai trò và giá trị của việc tham dự của chúng ta vào việc cử hành Hiến tế cứu chuộc, nhờ đó chúng ta không lãnh nhận ân sủng cách vô ích.
Lễ nghi phụng vụ sẽ mang hình thức cao quí hơn, khi được cử hành kèm theo ca hát, mỗi khi thừa tác viên chu toàn đúng nhiệm vụ của mình, và khi có dân chúng tham dự. Thật vậy, dưới hình thức đó, lời cầu nguyện được diễn tả thâm thúy hơn ; mầu nhiệm phụng vụ với những đặc điểm có tính cấp bậc và cộng đồng được biểu lộ rõ ràng hơn ; lòng người hợp nhất với nhau hơn nhờ cùng hát chung một giọng hơn, nhờ được nhìn ngắm vẻ đẹp của sự vật thánh mà vươn tới những thực tại vô hình.
Paris, Ngày 07 tháng 06 năm 2014
Thứ bảy, ngày 07 tháng VI năm 2014. Các ca đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris đã đáp lời mời của Ông Võ Tri Văn, Ủy Viên Phụng vụ và Thánh ca, trở về giáo xứ để cùng nhau họp mặt và hội học. Họp mặt và hội học của 14 ca đoàn Paris và ngoại ô đã trở thành truyền thống. Theo những tài liệu mà tôi ghi nhận và lưu trữ, đây là lần họp mặt hội học thứ 10 của các ca đoàn GXVN Paris.
1. Chia sẻ kinh nghiệm hát thánh ca phụng vụ, ngày 30.IV.2005, với cha Vũ Thái Hòa.
2. Khóa huấn luyện ca trưởng, hai ngày 21 và 23.IV.2006, với cha Vũ Thái Hòa.
3. Họp mặt các ca đoàn, « Trao đổi về thánh ca », ngày 29.IV.2006, với cha Nguyễn Thành Sang.
4. Diễn nguyện thánh ca, ngày 29.IV.2007, với cha Giuse Nguyễn Văn Việt.
5. Học hỏi về « Các thừa tác viên công bố Lời Chúa », ngày 23.II.2008, với cha Giuse Nguyễn Văn Việt.
6. Học hỏi về đề tài « Con tim muốn hát », ngày 26.IV.2008, với cha Phêrô, cha Phaolô và Sơ Maria.
7. Điễn nguyện thánh ca với chủ đề : « Con tìm Chúa hay Chúa tìm con », ngày Chúa Nhật 21.XII. 2008, với Đức Cha Đaminh Mai Thanh Lương.
8. Diễn nguyện thánh ca với chủ đề « Mến ơi », Chúa Nhật 03.VII.2010, với cha Vũ Mộng Thơ.
9. Học hỏi về đề tài « Tin và Hát với nhau », ngày 18.V.2013.
Hôm nay, ngày 07.VI.2014, lần hội học thứ mười, đề tài hướng về « Phụng vụ, Thánh nhạc và Ca đoàn », do linh mục Giuse Nguyễn văn Hiển, dòng Đa Minh, trình bày.
Tựa vào 2 tài liệu chính, là « Hiến chế về Phụng vụ » của Công Đồng Vatican II và « Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ » của Thánh bộ Lễ nghi ngày 05 tháng 03 năm 1967, Cha Giuse đã khai triển 3 khía cạnh sau đây : 1. Công đồng Vatican II nói về phụng vụ. 2- Thánh nhạc trong phụng vụ. 3- Vai trò của ca đoàn trong các cử hành phụng vu.
Vì ích lợi của việc đào tạo liên tục, sau đây, chúng tôi xin phép cha Giuse được trích đăng nguyên văn bài của cha, để mọi ca viên trong các ca đoàn có tài liệu học hỏi và tham khảo.
Hiến chế về Phụng vụ-Sacrosanctum concilium của Công đồng Vatican II, số 14 : Mẹ Giáo Hội tha thiết ước mong toàn thể các tín hữu được hướng dẫn tham dự các việc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn, ý thức và linh động. Việc tham dự ấy do chính bản tính phụng vụ đòi hỏi; lại nữa, nhờ phép Rửa Tội, việc tham dự phụng vụ trở thành quyền lợi và bổn phận của dân Kitô giáo, “là giòng giống được lựa chọn, là tư tế vương giả, là dân thánh, là con dân được tuyển chọn” (1P 2,9; x. 2,4-5)
I.- CÔNG ĐỒNG VATICAN II NÓI VỀ PHỤNG VỤ
Chúng ta biết rằng, trước Công đồng chung Vatican II, việc cử hành phụng vụ, nhất là cử
hành thánh lễ, là công việc của riêng linh mục. Nghĩa là giáo dân không có vai trò gì; họ tham
dự vào các mầu nhiệm thánh qua việc lần chuỗi hay đọc các sách đạo đức, và thưa “Amen” sau khi nghe đến các chữ “in saecula, seculorum” của linh mục trên bàn thờ. Nhưng kể từ sau Công đồng Vatican II, việc cử hành phụng vụ của Giáo Hội đã mang một khuôn diện mới: Phụng vụ là công việc chung của toàn thể Giáo Hội.
1.- Khái niệm về phụng vụ :
Trước hết, chữ Phụng vụ trong tiếng Việt, liturgie trong tiếng Pháp được chuyển dịch bởi chữ liturgia trong tiếng latin, và có nguồn gốc hy lạp bởi chữ leiturgia, có ý nghĩa trước tiên là việc phục vụ công cộng, công ích hay ngay cả phục vụ cho ích lợi xã hội, nhà nước. Trong Kinh Thánh, cụm từ này chỉ việc phụng vụ trong đền thờ, như việc dâng lễ tạ ơn Chúa thay cho dân : « Zacaria » thực hiện vai trò dâng lễ tạ ơn thay cho toàn dân. Cũng cần nói thêm chữ leiturgia được dịch là offcium, ministerium, munus.
Công đồng Vatican II nói với chúng ta rằng: Phụng vụ là “việc thực thi chức vụ tư tế của
chính Chúa Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa con người được biểu tượng nhờ những
dấu chỉ khả giác và được thể hiện hữu hiệu cách khác nhau theo từng dấu chỉ, và trong đó việc phụng tự công cộng vẹn toàn cũng được thực thi nhờ Nhiệm Thể Chúa Kitô, nghĩa là gồm cả
Ðầu cùng các chi thể của Người”
2.- Giá trị của Phụng vụ
Phụng vụ là tột đỉnh qui hướng mọi hoạt động của Giáo Hội, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội. Thực vậy, các công lao khó nhọc trong việc tông đồ đều nhằm làm cho mọi người, nhờ đức tin và phép rửa, trở nên con cái Thiên Chúa, cùng nhau qui tụ ngợi khen Chúa giữa lòng Giáo Hội, thông phần hiến tế và ăn tiệc của Chúa. Vì thế, chính Phụng vụ, nhất là Lễ Tạ Ơn, như là nguồn mạch chảy tràn ân sủng vào trong chúng ta và làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Kitô một cách hữu hiệu đồng thời Thiên Chúa được vô cùng tôn vinh; đó là điều mà mọi công việc khác của Giáo Hội đều qui hướng về như là cứu cánh. Hai ý nghĩa chính của việc cử hành Phụng vụ : “tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người”,
3.- Việc tham dự vào các cử hành phụng vụ là công việc của toàn thể Giáo Hội
Việc cử hành phụng vụ là công việc chung của toàn thể Giáo Hội, nó không là công việc
của riêng một các nhân, cho nên, mọi người đều được mời gọi tham dự cách tích cực, ý thức và nảy sinh hoa trái vào công việc chung này. Và « Ðể phát huy việc tham gia linh động, cần phải cổ xúy những lời tung hô của dân chúng, những lời đối đáp, những bài ca vịnh, tiền khúc, thánh ca, và cả những động tác hoặc cử chỉ, thái độ của thân xác ».
Tuy nhiên, Công đồng cũng nhắc nhở ở số 28 rằng : « Là thừa tác viên hay là tín hữu, trong các việc cử hành phụng vụ, mỗi người khi chu toàn phận vụ, chỉ thi hành trọn những gì
thuộc lãnh vực mình tùy theo bản chất sự việc và những qui tắc phụng vụ ».
II.- THÁNH NHẠC TRONG PHỤNG VỤ
Ngay từ những ngày đầu thuở Giáo Hội mới khai sinh, mỗi khi có dịp hội họp lại với nhau để cử hành Phụng vụ, các tín hữu luôn dùng lời ca tiếng hát để tôn vinh và cảm tạ Thiên Chúa. Quả thật, trong Sách Công vụ các Tông đồ và các thư của thánh Phaolô đã đề cập đến những việc này : Nhưng trước đó, cũng cần phải nói rằng, chính Đức Giêsu và các tông đồ đã làm việc này trong khi cử hành tiệc Vượt qua. Thánh sử Luca đã kể rằng, Phaolô và Xila đã hát
thánh ca cầu nguyện ngay trong ngục (Cv 16,25). Thánh Phaolô cũng đã từng khuyến dụ các tín hữu Êphêxô rằng : “Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa” (Ep 5,19). Người cũng viết cho các tín hữu Côlôxê: “Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng” (Cl 3,16c).
Từ đó đến nay, vai trò của Thánh nhạc trong Phụng vụ vẫn được Giáo Hội đề cao và quan
tâm cách đặc biệt, cho đó là ngôn ngữ và là thành phần thiết yếu của Phụng vụ trọng thể.
1.- Giáo huấn của Giáo Hội về Thánh nhạc trong phụng vụ
Chúng ta chỉ nêu ra ở đây một vài giáo huấn của Giáo Hội về vai trò của Thánh nhạc trong cử hành phụng vụ, để từ đó chúng ta tìm hiểu tham dự của chúng ta vào việc hát Thánh nhạc trong các buổi cử hành phụng vụ. Công đồng Vatican II đã khẳng định giá trị của Thánh
nhạc, qua trước hết trong Hiến chế Phụng vụ, các số 112-114 :
Truyền thống âm nhạc của Giáo Hội trên khắp hoàn cầu đã cấu tạo nên một kho tàng vô giá, vượt khỏi mọi nghệ thuật khác. Lí do chính là vì thánh ca đi liền với câu kinh để kết thành một phần cần thiết hoặc kiện toàn phụng vụ trọng thể. Do đó, Thánh nhạc càng liên kết với phụng vụ chặt chẽ thì càng nên một nhạc thánh hơn, vì nó phát biểu lời cầu nguyện cách dịu dàng hơn, giúp cho sự đồng thanh nhất trí và làm cho nghi lễ càng thêm long trọng. Giáo Hội chấp nhận và dùng vào phụng vụ tất cả những hình thức nghệ thuật có đủ điều kiện của nghệ thuật đích thực (HCPV, số 112).
Vì thế, « phải hết sức thận trọng gìn giữ và trau dồi kho tàng Thánh nhạc, phải cố gắng
đào tạo các ca đoàn. Các Giám mục và các vị chủ chăn hãy nhiệt thành lo cho toàn thể cộng đoàn tín hữu có thể tham dự thánh lễ cách linh động những phần riêng dành cho họ trong các nghi lễ cử hành với kinh hát » (HCPV, số 114).
Kế đến, “Huấn thị về âm nhạc trong Phụng vụ” được ban hành ngày 05 tháng 03 năm 1967, do Bộ Phụng tự, nghi lễ và kỷ luật các Bí tích đòi hỏi : Thánh nhạc là những loại âm nhạc được sáng tác để phụng thờ Thiên Chúa, vì thế Thánh nhạc phải biểu lộ được sự thánh thiện và diễn tả được hình thức nghệ thuật cao.
Để đáp ứng đòi hỏi này, trong tất cả các nghi lễ phụng vụ do cộng đồng dân Chúa cử hành, dưới quyền chủ toạ của Đức Giám Mục, linh mục, hoặc các thừa tác viên có chức thánh, ca đoàn, với khả năng ưu tú của họ, đã được chọn làm một thừa tác viên, một nhân tố sống động
của cộng đồng dân Chúa, với nhiệm vụ làm cho các nghi lễ thêm rực rỡ vui tươi và giúp cho
giáo dân tham gia tích cực vào việc ca hát.
2.- Mục đích của Thánh nhạc
Thực vậy, vai trò của Thánh nhạc (hay âm nhạc) trong phụng vụ là : giúp con người cầu nguyện và là trợ tá cho các cử hành phụng vụ. Vì vậy, âm nhạc không lấn át các cử hành phụng vụ, nhưng trợ giúp và làm cho các cử hành trở nên trang trọng, hân hoan, nó giúp con người hướng lên cùng Thiên Chúa, chứ không làm ngược lại bằng cách lội kéo và hướng chú ý của con người về chính mình. Để đạt tới mục đích cao trọng của Thánh nhạc là: « Tôn vinh Thiên Chúa và thánh hoá tâm hồn các tín hữu ».
Do đó Thánh nhạc càng liên kết chặt chẽ với hoạt động phụng vụ bao nhiêu thì càng thánh hơn bấy nhiêu. Thánh nhạc vừa phát triển lời cầu nguyện một cách dịu dàng hơn, vừa cổ võ sự đồng thanh nhất trí, lại vừa làm cho các nghi lễ thêm phần long trọng.
a). Thánh nhạc là làm vinh danh Chúa (HCPV, số 112) Mục đích chính trước tiên và trên hết của Thánh nhạc nhắm đến không gì khác hơn phải là để tôn vinh Thiên Chúa. Muốn đạt được mục đích này, người thực hiện Thánh nhạc trong Phụng vụ cần tuân giữ các quy tắc, luật lệ của truyền thống. Bên cạnh, chúng ta cần phải biết khảo cứu những thể loại, các đặc điểm của những tác phẩm âm nhạc cổ thời của Giáo Hội, để qua đó có thể sáng tạo nên những tác phẩm mới có giá trị xứng đáng trong kho tàng âm nhạc của
Giáo Hội. Như vậy, Thánh nhạc chỉ đạt được mục đích chính yếu là làm vinh danh Chúa khi nào Thánh nhạc tuân theo những truyền thống và sự hướng dẫn của Giáo Hội.
b). Thánh nhạc thánh hóa các tín hữu (Huấn thị về Thánh nhạc, số 4)
Bên cạnh việc phụng thờ Thiên Chúa, Thánh nhạc có nhiệm vụ nâng tâm hồn người tín
hữu vươn lên tới Chúa trong các buổi cầu nguyện, nhất là trong phụng vụ Thánh lễ; và nhờ đó
mà họ được thánh hóa. Muốn vậy, Thánh nhạc phải có tính thánh thiện. Tính thánh thiện của
Thánh nhạc được ẩn sâu trong chính bản chất của nó là sự chân chính, đích thực, sống động,
trong sáng, thanh cao… thể hiện rõ trong những ý nhạc lời ca. Điều này được thánh Augustin đã thổ lộ rằng : « Khi hát lên như vậy, Thánh nhạc có khả năng nâng tâm hồn người tín hữu vươn lên tới Thiên Chúa ». Do đó, không thể biến Thánh nhạc thành một thể loại nhạc thời trang, nhất thời, mau qua vào trong các Thánh lễ, nhất là trong các Thánh lễ dành cho giới trẻ.
c). Sứ vụ tông đồ của Thánh nhạc : nâng đỡ đời sống Đức Tin và Tân Phúc Âm hóa”
Thiết tưởng những lời khuyến cáo và niềm mong ước của Đức Giáo Hoàng Piô XII trong
Thông điệp Mediator Dei cần được lập lại nơi những cộng đoàn này: « Tín hữu luôn tham dự
các cử hành phụng vụ thánh không thể là những khán giả câm lặng và xa lạ... Họ phải cảm nhận sâu xa nét thẩm mỹ của phụng vụ; họ phải lần lượt, theo luật định, góp tiếng với chủ tế và ca đoàn... Ước gì tiếng của toàn dân vọng lên tới trời, đồng nhất và mạnh mẽ như tiếng sóng đại dương, biểu lộ nhịp nhàng và sinh động sự hiệp nhất một trái tim, một tâm hồn, phù hợp với tình huynh đệ của các con một Cha chung ».
Ngỏ lời với các tham dự viên Hội nghị quốc gia các ca đoàn do Hiệp hội Thánh nhạc Santa Cecilia của Italia tổ chức tại Rôma trong ngày 10 và 11 tháng 11 năm 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI nói: « Thánh nhạc có thể nâng đỡ Đức tin và đóng góp cho công cuộc Tân
Phúc âm hóa ». Đức Thánh Cha diễn giải điều này cách sâu sắc như sau:
Về niềm tin, sự kiện thánh Augustin trở lại chắc chắn có sự tác động của những buổi nghe hát Thánh vịnh và Thánh thi trong các cử hành Phụng vụ do Thánh Ambrôsiô chủ tọa. Quả thật, nếu Đức Tin luôn phát sinh từ lắng nghe Lời Chúa, sự lắng nghe không đơn thuần dừng lại
nơi các giác quan mà đi từ giác quan đến trí và tâm. Hiển nhiên âm nhạc, và nhất là bài hát, đem lại cho các bài Thánh vịnh và các bài ca Thánh Kinh một sức mạnh thông truyền lớn lao. Thánh Ambrôsiô được Chúa ban nhiều ơn riêng, trong đó phải kể đến sự nhạy cảm và khả năng âm nhạc. Sau khi được tấn phong làm giám mục Milan, thánh nhân đã dùng tài âm nhạc được Chúa ban để phục vụ Đức Tin và Phúc âm hóa.
Đề cập mối liên hệ giữa Thánh nhạc và công cuộc Tân Phúc âm hóa, Đức Bênêđíctô còn nhắc lại giáo huấn của Công đồng qua Hiến chế về Phụng vụ như sau: « Tầm quan trọng của Thánh nhạc trong sứ mạng truyền giáo đến với muôn dân, đồng thời cổ võ việc phát huy truyền thống âm nhạc của các dân tộc. [….] hãy lại đến với sứ điệp Kitô giáo và những mầu nhiệm Đức Tin ». Đức Giáo Hoàng mời gọi những tham dự viên hãy ra sức nâng cao chất lượng nhạc phụng vụ, nhất là trong nhạc bình ca Grêgôrianô và nhạc đa âm… Điều này cũng đúng đối với nhạc Phụng vụ.
III.- VAI TRÒ CỦA CA ĐOÀN TRONG CÁC CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
Ca đoàn có một vai trò và nhiệm vụ cao quí. Một điểm cần nhắc lại rằng, trong khi cử hành phụng vụ chúng ta thấy có những thừa tác vụ như sau : các tác vụ bàn thờ, các tác vụ Lời Chúa và tác vụ phục vụ cộng đoàn. Ca đoàn thuộc vào thành phần phục vụ cộng đoàn. Cũng cần nhớ rằng, ngay từ thế kỷ thứ Ve, ở Roma, dưới thời Đức Giáo Hoàng, thánh Léon le Grand (440-461) đã xuất hiện ca đoàn (scholae cantorum).
Hoạt động phụng vụ mang một hình thức cao quí hơn khi các việc phụng tự được cử hành một cách long trọng, với tiếng hát do các thừa tác viên có chức thánh chủ sự và giáo dân tích cực tham dự (HCPV, số 113).
Điều này chính ĐGH Phaolô VI đã nói như sau : « Nếu đọc kỹ các tài liệu về Thánh nhạc, người ta sẽ thấy rõ, ngay cả bây giờ, nhiệm vụ Hội Thánh giao cho Thánh nhạc, những người sáng tác cũng như các nhạc công, các ca đoàn và những người hát trong nhà thờ thật là cao quí và hệ trọng, như từ trước đến nay vẫn thế. Khi cử hành phụng vụ, phải biết thể hiện những hình thức nghệ thuật sao cho thật hay, thật đẹp, như kèm theo các nghi thức là những cử điệu khoan thai, đẹp mắt, xứng hợp, trang trọng, cung giọng trong sáng dễ nghe, dễ đáp ; như đi đôi với lời cầu nguyện của Hội thánh là những bài hát vừa hay vừa cảm động, lại có sức nâng
tâm hồn người nghe lên cùng Thiên Chúa và giúp cầu nguyện.
Âm nhạc tỏa chiếu trên cộng đoàn họp nhau lại nhân danh Chúa Kitô một thứ ánh sáng rực rỡ như chính gương mặt của Người vậy. Nhờ sức mạnh vô hình của nghệ thuật, các ca đoàn dễ bay lên vùng ánh sáng rạng ngời của chân lý, tìm gặp Thiên Chúa là Đấng thanh tẩy và thánh
hóa. Như thế, họ có thể giúp cộng đoàn cử hành mầu nhiệm cứu độ trong những điều kiện thuận lợi khi chính họ thông phần mật thiết vào các ơn ích của mầu nhiệm đó. Nhằm mục đích này, những tài liệu tôi vừa trưng dẫn, nhằm cổ võ các ca đoàn, từ những ca đoàn trong các đại giáo đường, các nhà thờ chánh tòa, các đan viện nổi tiếng cho tới các ban hát trong các nhà nguyện, nhà thờ nhỏ, say sưa tập luyện và chuyên cần trau dồi nghệ thuật. Huấn thị về Thánh nhạc muốn rằng không một buổi cử hành phụng vụ nào mà không có hát, nên đã yêu cầu trong trường hợp không có ban hát nhỏ, thì phải có ít là hai hay ba người biết hát và được huấn luyện vừa đủ, để có thể giúp giáo dân tham dự thánh lễ và các nghi thức bằng những bài hát đơn sơ dễ hát, lại biết điều khiển và làm điểm tựa cho họ dựa vào để hát. Qua những lời lẽ trên, Hội Thánh tỏ ra săn sóc đặc biệt đến các ca đoàn, kêu mời họ đạo và cha sở lưu tâm đến ca đoàn. Lý do của sự quan tâm này là vì các ca đoàn góp phần vào việc tôn vinh thờ phượng Chúa, một nhiệm vụ hàng đầu của Hội Thánh. Đó là bản chất và lý hữu của ca đoàn ».
1.- Định Nghĩa:
Ca đoàn là một tập thể các tín hữu, nhờ vào khả năng chuyên môn của họ về âm nhạc, được tuyển chọn giữa Cộng đồng dân Chúa để thi hành thừa tác vụ ca hát trong các cử hành phụng vụ.
2.- Vai Trò:
Là những người cử hành phụng vụ cùng với linh mục và các thừa tác viên khác, ca đoàn đóng một vai trò nòng cốt là làm thế nào để lời ca tiếng hát của mình tăng thêm sự tưng bừng và linh động mà không làm mất đi vẻ tôn nghiêm, trang trọng và đạo đức của các nghi lễ Phụng vụ. Phần chung giới thiệu Sách lễ Rôma số 63 ghi rõ : « Ca đoàn là điểm tựa, là chỗ dựa cho cộng đoàn, tiếng hát của ca đoàn phải nâng đỡ và hỗ trợ cho cộng đoàn và giúp mọi người tham dự cách linh động vào việc ca hát ».
Vai trò ca hát này đã được Thánh bộ Nghi lễ đề cao trong số 5 của “Huấn Thị về âm nhạc trong Phụng vụ” như sau: “Lễ nghi phụng vụ sẽ mang hình thức cao quí hơn, khi được cử
hành kèm theo ca hát, khi mỗi thừa tác viên chu toàn đúng nhiệm vụ của mình, và khi có dân
chúng tham dự. Thật vậy, dưới hình thức đó, lời cầu nguyện được diễn tả thâm thúy hơn; mầu
nhiệm Phụng vụ với những đặc điểm có tính cấp bậc và cộng đồng được biểu lộ rõ ràng hơn;
lòng người hợp nhất với nhau hơn nhờ cùng hát chung một giọng ca, và tinh thần của con người cũng dễ dàng được nâng cao hơn, nhờ được nhìn ngắm vẻ đẹp của sự vật thánh mà vươn tới những thực tại vô hình”. (Ban Thánh nhạc Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh, Tài Liệu Thánh nhạc, Việt Nam 1994, trang 64-68.)
Ở số 16, Thánh bộ Nghi lễ còn xác nhận thêm: “Thật không có gì tưng bừng và vui vẻ hơn trong một buổi cử hành Phụng vụ mà toàn thể cộng đoàn biểu lộ đức tin và lòng đạo đức
của mình ra bằng lời ca tiếng hát”. (Ban Thánh nhạc Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh, Tài
Liệu Thánh nhạc, Việt Nam 1994, trang 64-68.)
3.- Nhiệm Vụ:
Để có thể thể hiện đúng vai trò nòng cốt trên đây, ca đoàn phải chu toàn ba nhiệm vụ Phụng vụ chính của mình : 1° hát đúng những phần dành riêng cho mình tùy theo các loại bài hát, 2° hát thay cho cộng đoàn khi họ chưa được tập luyện đủ và 3° giúp cho cộng đoàn tham gia tích cực vào việc ca hát.
Về chỗ đứng của ca đoàn : Là thành phần của tín hữu, nên chỗ ngồi của ca đoàn phải là ở giữa cộng đoàn dân Chúa, là nơi để các ca viên chu toàn tốt chức năng của mình và tham dự thánh lễ đầy đủ, sốt sắng, kể cả việc rước lễ.
Tóm lại, với vai trò là một thành phần nòng cốt chứ không phải là toàn thể cộng đoàn, ca đoàn như một hạt nhân, một chất xúc tác, một nhúm men trong đấu bột, có nhiệm vụ trợ giúp, nâng đỡ tiếng hát cho cộng đoàn. Bên cạnh đó, ca đoàn còn phải luôn cổ võ và khuyến khích Cộng đoàn tham gia tích cực vào việc ca hát, nêu gương cho họ bằng sự chuyên cần tập luyện, sự trau giồi học hỏi và sự trình tấu chu đáo các bài thánh ca17. Đừng quên rằng: không riêng gì
chủ tế và ca đoàn, mà tất cả cộng đồng dân Chúa đều được mời gọi tham gia vào phụng vụ một cách linh động và tích cực, nhất là bằng lời ca tiếng hát, bởi vì “tiếng hát của Cộng đoàn là ưu việt và không thể bỏ được”.
4. Việc huấn luyện ca đoàn
Có ba việc cần chú ý đặc biệt : Không những ca trưởng mà cả toàn thể các ca viên đều được đào tạo về thánh nhạc, phụng vụ và đạo đức (Xem Huấn thị về Thánh nhạc trong Phụng vụ, số 24).
Tóm lại, Việc tham dự vào phụng vụ là một quyền lợi và bổn phận của những người mang danh Kitô hữu nhờ bí tích thánh Tẩy. Việc tham dự vào phụng vụ, cho chúng ta nếm thử trước của phụng vụ Thiên quốc (HCPV, số 8), mà ở đó, tất cả cùng hợp đoàn ca tụng Thiên Chúa trong bữa tiệc vĩnh hằng mà Thiên Chúa đã chuẩn bị sẵn cho chúng ta.
Để chuẩn bị cho việc tham dự này, Giáo Hội không ngừng mời gọi chúng ta tham dự vào các cử hành phụng vụ trần thế trong việc tôn vinh Thiên Chúa và xin ơn thánh hóa đời sống lữ
hành của chúng ta. Vì vậy, phụng vụ trở nên như nguồn mạch ân sủng cho chúng ta (HCPV, số 10). Để có một sự tham dự tích cực và ý thức vào các cử hành phụng vụ, chúng ta cần phải được hướng dẫn và đạo tạo về khía cạnh tâm linh để mỗi người hiểu rõ vai trò và giá trị của việc tham dự của chúng ta vào việc cử hành Hiến tế cứu chuộc, nhờ đó chúng ta không lãnh nhận ân sủng cách vô ích.
Lễ nghi phụng vụ sẽ mang hình thức cao quí hơn, khi được cử hành kèm theo ca hát, mỗi khi thừa tác viên chu toàn đúng nhiệm vụ của mình, và khi có dân chúng tham dự. Thật vậy, dưới hình thức đó, lời cầu nguyện được diễn tả thâm thúy hơn ; mầu nhiệm phụng vụ với những đặc điểm có tính cấp bậc và cộng đồng được biểu lộ rõ ràng hơn ; lòng người hợp nhất với nhau hơn nhờ cùng hát chung một giọng hơn, nhờ được nhìn ngắm vẻ đẹp của sự vật thánh mà vươn tới những thực tại vô hình.
Paris, Ngày 07 tháng 06 năm 2014
Đại hội Công Giáo Việt Nam tại Đức quốc
Thanh Sơn (Đức Quốc)
14:38 10/06/2014
ĐẠI HỘI Công Giáo VIỆT NAM ĐỨC QUỐC 2014 (phần 1)
Ngày hôm nay khắp muôn phương tìm đến
Đón ơn lành lửa mến đẹp Thiên ân
Cúi xin Ngài tuôn đổ ơn Thánh Thần
Mở đại hội đón muôn phần hồng phúc.
Chiều nay lúc 18.30 thứ bảy ngày 07.06.2014 tại hội trường Haßfurt thuộc tiểu bang Bayern "ĐẠI HỘI Công Giáo VIỆT NAM TẠI ĐỨC QUỐC" lần thứ 38 đã được lọng trọng khai mạc ngay sau bài diễn văn chào mừng của ông chủ tịch LĐCGVN. GB. Phùng Khải Tuấn.
Xem Hình
Trong bài diễn văn khai mạc Ông Chủ Tịch LĐCG đã kêu gọi "hãy hướng về "TỔ QUỐC": Kính thưa qúy vị, Đại Hội năm nay diễn ra trong thời điểm quê hương đất nước chúng ta đang gặp cơn nguy biến. Dù sống xa đất tổ bao nhiêu thì lòng chúng ta vẫn luôn hương về quê hương với tâm tình yêu mến và biết ơn.
Vì thế, LĐCG chúng ta hưởng ứng lời kêu gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, cũng như tâm thư của Hội Đồng Tuyên Úy Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức. Thánh lễ trong ba ngày Đại hội năm nay chúng ta cùng hiệp dâng lời cầu nguyện cho "Quê Hương Tổ Quốc Việt Nam" Xin Thiên Chúa đoái thương và phù trợ để mau có hòa bình trở lại, biên cương lãnh thổ được gìn giữ bảo vệ vẹn toàn, lãnh hải và xã hội mau có được "tự do tôn giáo thực sự" cho mọi người.
Một lần nữa tôi xin thay mặt BTC. kính chào toàn thể tham dự viên đến từ các Cộng Đoàn trên nuớc Đức và các quốc gia lân cận, quý linh mục tu sỹ khách đến từ VN, quý linh mục Tuyên Uý các Vùng, và đặc biệt chào mừng Đức Ông Giuse Hoàng Minh Thắng đến từ Roma thuyết trình viên chính trong những ngày ĐẠI HỘI kỳ thứ 38 này.
Và giờ đây tôi xin trân trọng khai mạc "ĐẠI HỘI Công Giáo VIỆT NAM TẠI ĐỨC QUỐC" với chủ đề "ĐỪNG SỢ, HÃY MỞ CỬA CHO ĐỨC KITÔ".
-Ngay sau khi Ông Chủ Tịch dứt lời các bạn trẻ rước cây nến Phục Sinh và cờ 7 ơn Đức Chúa Thánh Thần vào hội trường theo sau là các nam thanh nữ tú mang cờ ảnh "Đức Mẹ La Vang" với ý nghĩa nhắc nhở chúng ta biết rằng: (hãy tin tưởng nơi Mẹ khi dân tộc Việt Nam gặp nguy biến, như năm 1798 Đức Mẹ đã hiện ra tại La Vang cứu giúp và hộ phù các tín hữu)
-Tiếp theo là vũ tiến hoa với những bó hoa tươi thắm đủ màu sắc về dâng Đức Mẹ.
13 em dâng hoa thuộc cộng đoàn Công Giáo Frankfurt với những sắc hoa tươi đẹp đã dâng tiến lên như những tâm thành của chúng con từ khắp muôn phương về nơi đây.
-Kế tiếp Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu thay mặt Tuyên úy đoàn chào mừng Đại Hội.
Kính thưa Đại Hội,
"Trong niềm vui gặp gỡ của ngày khai mạc đại hội lần thứ 38 của cộng đồng CGVN tại Đức, tôi xin cùng với anh em linh mục trong tuyên uý đoàn, chân thành chào đón tất cả quý ông bà anh chị em đến từ các cộng đoàn thuộc cộng hoà liên bang Đức, quý khách từ các quốc gia khác, quý tu sĩ nam nữ, quý cha và đặc biệt Đức Ông Giuse Hoàng Minh Thắng, thuyết trình viên chính thức của ĐH, đến từ Roma.
Xin vui mừng hướng về các em thiếu nhi và các bạn trẻ, rất đông về tham dự Đại Hội. Đây là năm thứ hai Thánh lễ khai mạc dành cho các bạn trẻ và do chính các bạn trẻ từ mọi cộng đoàn, dù xa nhau và với những khó khăn, đã cùng chung vai sát cánh cộng tác để hoàn thành trọng trách đã được trao phó. Thánh lễ khai mạc năm ngoái đã để lại những hình ảnh đầy xúc động, ca đoàn tổng hợp của các bạn trẻ đã hát thánh ca thật tuyệt vời và sốt sắng với tất cả con tim tràn đầy lòng tin của các bạn.
Đại hội vui mừng chào đón các bạn trẻ và tin tưởng nơi các bạn. Các bạn là tương lai của gia đình, cộng đoàn và Giáo Hội. Chúng tôi hãnh diện về các bạn.
“Đừng sợ, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô. Ai để cho Chúa Kitô chiếm ngự, người đó sẽ không mất gì; người đó tuyệt đối không mất bất cứ một điều gì làm cho cuộc sống được tự do, tốt đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn này mà mọi cánh cửa của sự sống mới mở rộng. Chỉ trong tình bạn này mà những khả năng to tát của thân phận con người mới được thi thố.
Chỉ trong tình bạn này chúng ta mới cảm nghiệm được điều tốt và điều giải phóng chúng ta. Do đó, ngày hôm nay, với tất cả sức mạnh và xác tín, từ kinh nghiệm lâu dài của một cuộc sống, tôi muốn nói với các bạn, hỡi các bạn trẻ: đừng sợ Chúa Kitô. Ngài không cướp đi điều gì và Ngài cho tất cả. Ai tự hiến cho Ngài sẽ nhận lại gấp trăm. Phải, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô và các bạn sẽ tìm gặp sự sống đích thực”. (ĐGH Gioan Phaolô II)
- Ba hồi chiêng trống vang lừng đón đoàn chủ tế tiến vào lễ đài để dâng Thánh Lễ vọng Chúa Thánh Thần vào tối thứ Bảy năm nay. Từ năm trước đã có làm gió mới của Chúa Thánh Thần thổi tới cho Đại Hội. Nhờ thế mà ca đoàn trẻ, "phải nói là rất trẻ" đã đảm trách cho nguyên cả ngày thứ bảy này. hát và dâng lời nguyện song ngữ… rất hay đã giúp cho đại hội thêm phần long trọng và sốt mến phấn khởi và rất là tươi trẻ. Vì hôm nay là ngày giới trẻ đảm trách cho nên linh mục chủ tế cũng trẻ.
Đó là Lm. GB. Nguyễn Chí Thiện của giới trẻ chủ tế. Mở đầu cho thánh lễ ngài đã mời gọi tất cả mọi người cùng hát chung đoạn nhạc mà khi còn là thiếu nhi các bạn trẻ hay hát.
"Bốn phương trời ta về đây chung vui,
không phân chia giọng nói tiếng cười
cùng nắm tay ta kết đoàn thân ái,
trao cho nhau những lời thiết tha.. .
Trao cho nhau những lời thiết tha."
Hai bài đọc song ngữ Việt-Đức của hai em rất trẻ, Thầy phó tế Phêrô Nguyễn Công Trứ công bố Tin Mừng.
Tôi đắc biệt chú ý tới bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay của Lm. Stephan người Đức bằng tiếng Việt. "tên việt của ngài là Lê Phan" (Xin tóm gọn sơ lại như sau)
Kính thưa đại Hội,
Tôi không biết tại sao các cha VN lại đề nghị tôi giảng tiếng việt??? nhưng vì đức vâng lời, và vì... tôi đã tương tư... thương và nhớ Đức Thánh Cha nên tôi đã nhận lời…(cả hội tường cười ồ)
Thưa các bạn, các bạn có biết hình ông già trên chủ đề Đại Hội hôm nay là ai không? Ông này tôi rất yêu qúy và kính trọng, ông ấy là người Ba Lan, ông ấy cũng là ông già gân đấy, ông ấy đã góp bàn tay xô đổ cả bức tường Bá Linh và những rào cản giữa cộng sản và tự do đấy. (mọi người cười ồ) ông ấy rất là yêu mọi người và yêu cả thế giới, đặc biệt là giới trẻ. Ông ấy đã sáng lập ra "ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THẾ GIỚI" nữa đấy. Tôi nhớ như in ngày mất của ông ấy là ngày 02.04.2005 thọ 84 tuổi. Nay chúng ta kính cẩn gọi ngài là thánh Giáo Hoàng Gioan PhaoLô II. v.v...
-Những lời nguyện của các em đã dâng lên Thiên Chúa toàn năng, xin tuôn đổ tràn ơn Thần Khí xuống cho Giáo Hội, cho Đức Giáo Hoàng, các tu sỹ, cho các bạn trẻ, các linh hồn tiền nhân chúng ta, và đặc biệt cho Giáo Hội quê nhà và Đất Nước Việt Nam. v.v...
Ca đoàn giới trẻ hôm nay đã đưa lại cho thánh lễ những làn gió mới bằng những bản nhạc rất thời đại, trang nghiêm, sốt sắng, và cũng không kém phần quyến rũ hồn ta để dễ dàng hướng lòng lên Đấng Toàn Năng. Có lẽ nhờ thế mà ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy những tràng pháo tay vang lên trong thánh lễ...
Sau khi bản nhạc kết lễ vừa chấm dứt thì những tràng pháo tay vang lên như bất tận, đoàn đồng tế rước ngang qua nơi ca đoàn trẻ đã được mời vào chụp hình chung lưu niệm và ca đoàn còn hát tặng qúy cha một nhạc phẩm đẹp như bất tận.
Cơn gió Tình Yêu bởi Thánh Thần
Phủ tràn vũ trụ ướp phù vân
Khắp cả bầu trời muôn tinh tú
Cả ánh bình minh cũng dự phần.
Sau phần giải lao tôi đi qua phía sinh hoạt người lớn thì có giờ chầu Thánh Thể do Lm. Đôminicô Nguyễn Ngọc Long hướng dẫn.
Lồng trong giờ chầu Thánh Thể có lần hạt "Lòng Chúa Thương Xót" những bài hát, kinh cầu Trái Tim Chúa, còn có kinh cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và từng người tay cầm những cánh hoa hồng thắm tươi tiến lên dâng kính Đức Mẹ với những lời khấn nguyện cho Quê Hương, Đất Nước và Dân Tộc Việt Nam. Kết thúc giờ chầu Thánh Thể với phép lành xong.
Còn có phần kính các thánh Tử Đạo Việt Nam và mọi người lên hôn kính xương thánh, kính xin các ngài phù trợ cho Tổ Quốc Việt Nam. Kết thúc với nhạc bản KHẢI HOÀN CA.
Song song là sinh hoạt giới trẻ do Lm. Liêm đảm trách, theo phương pháp Linh thao hay Taizé.
Tôi thấy ngoài những giờ phút sinh hoạt chung các em còn chia ra để sinh hoạt nhóm. Những viên đá khô cằn lạnh lẽo được xếp riêng rẽ tượng trưng cho sự ích kỷ và nhỏ nhen. Sau những giờ phút cầu nguyện chia sẻ và cùng nhau cầu nguyện các viên đá được các em đem đến đặt trước Thánh Giá Chúa và từng ngọn nến được đốt lên cho ấm áp tình người. Cho các em hiểu rằng chúng ta luôn cần ơn Chúa Thánh Thần. Khi có ơn Chúa Thánh Thần thì chúng ta sẽ vui vẻ, bình an và sẽ dễ mở lòng ra với anh em, với nhân loại. Đồng thời các em sẽ mang ơn Chúa cùng một trái tim ấm áp và đầy yêu thương của theo gương Chúa Giêsu là đường cho chúng ta tiến bước.
Chường trình cho ngày thứ bảy chấm dứt vào 24 giờ đêm.
Xin khép lại bài tường thuật cho ngày thứ bảy với mấy vần thơ.
Ngọn lửa Tình Yêu Chúa Thánh Thần
Xóa tan băng giá, kết tình thân
Sưởi ấm linh hồn ai xao xuyến
Thánh hóa bản thân những ai cần.
Ngày hôm nay khắp muôn phương tìm đến
Đón ơn lành lửa mến đẹp Thiên ân
Cúi xin Ngài tuôn đổ ơn Thánh Thần
Mở đại hội đón muôn phần hồng phúc.
Chiều nay lúc 18.30 thứ bảy ngày 07.06.2014 tại hội trường Haßfurt thuộc tiểu bang Bayern "ĐẠI HỘI Công Giáo VIỆT NAM TẠI ĐỨC QUỐC" lần thứ 38 đã được lọng trọng khai mạc ngay sau bài diễn văn chào mừng của ông chủ tịch LĐCGVN. GB. Phùng Khải Tuấn.
Xem Hình
Trong bài diễn văn khai mạc Ông Chủ Tịch LĐCG đã kêu gọi "hãy hướng về "TỔ QUỐC": Kính thưa qúy vị, Đại Hội năm nay diễn ra trong thời điểm quê hương đất nước chúng ta đang gặp cơn nguy biến. Dù sống xa đất tổ bao nhiêu thì lòng chúng ta vẫn luôn hương về quê hương với tâm tình yêu mến và biết ơn.
Vì thế, LĐCG chúng ta hưởng ứng lời kêu gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, cũng như tâm thư của Hội Đồng Tuyên Úy Việt Nam tại Cộng Hòa Liên Bang Đức. Thánh lễ trong ba ngày Đại hội năm nay chúng ta cùng hiệp dâng lời cầu nguyện cho "Quê Hương Tổ Quốc Việt Nam" Xin Thiên Chúa đoái thương và phù trợ để mau có hòa bình trở lại, biên cương lãnh thổ được gìn giữ bảo vệ vẹn toàn, lãnh hải và xã hội mau có được "tự do tôn giáo thực sự" cho mọi người.
Một lần nữa tôi xin thay mặt BTC. kính chào toàn thể tham dự viên đến từ các Cộng Đoàn trên nuớc Đức và các quốc gia lân cận, quý linh mục tu sỹ khách đến từ VN, quý linh mục Tuyên Uý các Vùng, và đặc biệt chào mừng Đức Ông Giuse Hoàng Minh Thắng đến từ Roma thuyết trình viên chính trong những ngày ĐẠI HỘI kỳ thứ 38 này.
Và giờ đây tôi xin trân trọng khai mạc "ĐẠI HỘI Công Giáo VIỆT NAM TẠI ĐỨC QUỐC" với chủ đề "ĐỪNG SỢ, HÃY MỞ CỬA CHO ĐỨC KITÔ".
-Ngay sau khi Ông Chủ Tịch dứt lời các bạn trẻ rước cây nến Phục Sinh và cờ 7 ơn Đức Chúa Thánh Thần vào hội trường theo sau là các nam thanh nữ tú mang cờ ảnh "Đức Mẹ La Vang" với ý nghĩa nhắc nhở chúng ta biết rằng: (hãy tin tưởng nơi Mẹ khi dân tộc Việt Nam gặp nguy biến, như năm 1798 Đức Mẹ đã hiện ra tại La Vang cứu giúp và hộ phù các tín hữu)
-Tiếp theo là vũ tiến hoa với những bó hoa tươi thắm đủ màu sắc về dâng Đức Mẹ.
13 em dâng hoa thuộc cộng đoàn Công Giáo Frankfurt với những sắc hoa tươi đẹp đã dâng tiến lên như những tâm thành của chúng con từ khắp muôn phương về nơi đây.
-Kế tiếp Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu thay mặt Tuyên úy đoàn chào mừng Đại Hội.
Kính thưa Đại Hội,
"Trong niềm vui gặp gỡ của ngày khai mạc đại hội lần thứ 38 của cộng đồng CGVN tại Đức, tôi xin cùng với anh em linh mục trong tuyên uý đoàn, chân thành chào đón tất cả quý ông bà anh chị em đến từ các cộng đoàn thuộc cộng hoà liên bang Đức, quý khách từ các quốc gia khác, quý tu sĩ nam nữ, quý cha và đặc biệt Đức Ông Giuse Hoàng Minh Thắng, thuyết trình viên chính thức của ĐH, đến từ Roma.
Xin vui mừng hướng về các em thiếu nhi và các bạn trẻ, rất đông về tham dự Đại Hội. Đây là năm thứ hai Thánh lễ khai mạc dành cho các bạn trẻ và do chính các bạn trẻ từ mọi cộng đoàn, dù xa nhau và với những khó khăn, đã cùng chung vai sát cánh cộng tác để hoàn thành trọng trách đã được trao phó. Thánh lễ khai mạc năm ngoái đã để lại những hình ảnh đầy xúc động, ca đoàn tổng hợp của các bạn trẻ đã hát thánh ca thật tuyệt vời và sốt sắng với tất cả con tim tràn đầy lòng tin của các bạn.
Đại hội vui mừng chào đón các bạn trẻ và tin tưởng nơi các bạn. Các bạn là tương lai của gia đình, cộng đoàn và Giáo Hội. Chúng tôi hãnh diện về các bạn.
“Đừng sợ, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô. Ai để cho Chúa Kitô chiếm ngự, người đó sẽ không mất gì; người đó tuyệt đối không mất bất cứ một điều gì làm cho cuộc sống được tự do, tốt đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn này mà mọi cánh cửa của sự sống mới mở rộng. Chỉ trong tình bạn này mà những khả năng to tát của thân phận con người mới được thi thố.
Chỉ trong tình bạn này chúng ta mới cảm nghiệm được điều tốt và điều giải phóng chúng ta. Do đó, ngày hôm nay, với tất cả sức mạnh và xác tín, từ kinh nghiệm lâu dài của một cuộc sống, tôi muốn nói với các bạn, hỡi các bạn trẻ: đừng sợ Chúa Kitô. Ngài không cướp đi điều gì và Ngài cho tất cả. Ai tự hiến cho Ngài sẽ nhận lại gấp trăm. Phải, hãy mở rộng các cánh cửa cho Chúa Kitô và các bạn sẽ tìm gặp sự sống đích thực”. (ĐGH Gioan Phaolô II)
- Ba hồi chiêng trống vang lừng đón đoàn chủ tế tiến vào lễ đài để dâng Thánh Lễ vọng Chúa Thánh Thần vào tối thứ Bảy năm nay. Từ năm trước đã có làm gió mới của Chúa Thánh Thần thổi tới cho Đại Hội. Nhờ thế mà ca đoàn trẻ, "phải nói là rất trẻ" đã đảm trách cho nguyên cả ngày thứ bảy này. hát và dâng lời nguyện song ngữ… rất hay đã giúp cho đại hội thêm phần long trọng và sốt mến phấn khởi và rất là tươi trẻ. Vì hôm nay là ngày giới trẻ đảm trách cho nên linh mục chủ tế cũng trẻ.
Đó là Lm. GB. Nguyễn Chí Thiện của giới trẻ chủ tế. Mở đầu cho thánh lễ ngài đã mời gọi tất cả mọi người cùng hát chung đoạn nhạc mà khi còn là thiếu nhi các bạn trẻ hay hát.
"Bốn phương trời ta về đây chung vui,
không phân chia giọng nói tiếng cười
cùng nắm tay ta kết đoàn thân ái,
trao cho nhau những lời thiết tha.. .
Trao cho nhau những lời thiết tha."
Hai bài đọc song ngữ Việt-Đức của hai em rất trẻ, Thầy phó tế Phêrô Nguyễn Công Trứ công bố Tin Mừng.
Tôi đắc biệt chú ý tới bài chia sẻ Tin Mừng hôm nay của Lm. Stephan người Đức bằng tiếng Việt. "tên việt của ngài là Lê Phan" (Xin tóm gọn sơ lại như sau)
Kính thưa đại Hội,
Tôi không biết tại sao các cha VN lại đề nghị tôi giảng tiếng việt??? nhưng vì đức vâng lời, và vì... tôi đã tương tư... thương và nhớ Đức Thánh Cha nên tôi đã nhận lời…(cả hội tường cười ồ)
Thưa các bạn, các bạn có biết hình ông già trên chủ đề Đại Hội hôm nay là ai không? Ông này tôi rất yêu qúy và kính trọng, ông ấy là người Ba Lan, ông ấy cũng là ông già gân đấy, ông ấy đã góp bàn tay xô đổ cả bức tường Bá Linh và những rào cản giữa cộng sản và tự do đấy. (mọi người cười ồ) ông ấy rất là yêu mọi người và yêu cả thế giới, đặc biệt là giới trẻ. Ông ấy đã sáng lập ra "ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ THẾ GIỚI" nữa đấy. Tôi nhớ như in ngày mất của ông ấy là ngày 02.04.2005 thọ 84 tuổi. Nay chúng ta kính cẩn gọi ngài là thánh Giáo Hoàng Gioan PhaoLô II. v.v...
-Những lời nguyện của các em đã dâng lên Thiên Chúa toàn năng, xin tuôn đổ tràn ơn Thần Khí xuống cho Giáo Hội, cho Đức Giáo Hoàng, các tu sỹ, cho các bạn trẻ, các linh hồn tiền nhân chúng ta, và đặc biệt cho Giáo Hội quê nhà và Đất Nước Việt Nam. v.v...
Ca đoàn giới trẻ hôm nay đã đưa lại cho thánh lễ những làn gió mới bằng những bản nhạc rất thời đại, trang nghiêm, sốt sắng, và cũng không kém phần quyến rũ hồn ta để dễ dàng hướng lòng lên Đấng Toàn Năng. Có lẽ nhờ thế mà ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy những tràng pháo tay vang lên trong thánh lễ...
Sau khi bản nhạc kết lễ vừa chấm dứt thì những tràng pháo tay vang lên như bất tận, đoàn đồng tế rước ngang qua nơi ca đoàn trẻ đã được mời vào chụp hình chung lưu niệm và ca đoàn còn hát tặng qúy cha một nhạc phẩm đẹp như bất tận.
Cơn gió Tình Yêu bởi Thánh Thần
Phủ tràn vũ trụ ướp phù vân
Khắp cả bầu trời muôn tinh tú
Cả ánh bình minh cũng dự phần.
Sau phần giải lao tôi đi qua phía sinh hoạt người lớn thì có giờ chầu Thánh Thể do Lm. Đôminicô Nguyễn Ngọc Long hướng dẫn.
Lồng trong giờ chầu Thánh Thể có lần hạt "Lòng Chúa Thương Xót" những bài hát, kinh cầu Trái Tim Chúa, còn có kinh cầu Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp và từng người tay cầm những cánh hoa hồng thắm tươi tiến lên dâng kính Đức Mẹ với những lời khấn nguyện cho Quê Hương, Đất Nước và Dân Tộc Việt Nam. Kết thúc giờ chầu Thánh Thể với phép lành xong.
Còn có phần kính các thánh Tử Đạo Việt Nam và mọi người lên hôn kính xương thánh, kính xin các ngài phù trợ cho Tổ Quốc Việt Nam. Kết thúc với nhạc bản KHẢI HOÀN CA.
Song song là sinh hoạt giới trẻ do Lm. Liêm đảm trách, theo phương pháp Linh thao hay Taizé.
Tôi thấy ngoài những giờ phút sinh hoạt chung các em còn chia ra để sinh hoạt nhóm. Những viên đá khô cằn lạnh lẽo được xếp riêng rẽ tượng trưng cho sự ích kỷ và nhỏ nhen. Sau những giờ phút cầu nguyện chia sẻ và cùng nhau cầu nguyện các viên đá được các em đem đến đặt trước Thánh Giá Chúa và từng ngọn nến được đốt lên cho ấm áp tình người. Cho các em hiểu rằng chúng ta luôn cần ơn Chúa Thánh Thần. Khi có ơn Chúa Thánh Thần thì chúng ta sẽ vui vẻ, bình an và sẽ dễ mở lòng ra với anh em, với nhân loại. Đồng thời các em sẽ mang ơn Chúa cùng một trái tim ấm áp và đầy yêu thương của theo gương Chúa Giêsu là đường cho chúng ta tiến bước.
Chường trình cho ngày thứ bảy chấm dứt vào 24 giờ đêm.
Xin khép lại bài tường thuật cho ngày thứ bảy với mấy vần thơ.
Ngọn lửa Tình Yêu Chúa Thánh Thần
Xóa tan băng giá, kết tình thân
Sưởi ấm linh hồn ai xao xuyến
Thánh hóa bản thân những ai cần.
Thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam tại giáo xứ CTTĐVN Seattle.
Nguyễn An Quý
21:52 10/06/2014
Thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam tại giáo xứ CTTĐVN Seattle.
Seattle. Chiều thứ bảy ngày 7 tháng 6 năm 2014 giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam thuộc TGP Seattle đã có buổi thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam vào lúc 7 giờ tối. Trước buổi thắp nến là thánh lễ mừng kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống theo phụng vụ của Giáo Hội. Thường thì thánh lễ vào chiều thứ bảy tưong đối không được đông đảo như các thánh lễ vào ngày Chúa Nhật trong tuần nhưng hôm nay số lượng giáo dân tham dự thánh lễ khá đông đảo, nhà thờ đầy kín có lẻ tất cả đều đến trong tinh thần hiệp thông với Quê Mẹ. Được biết trong dịp Đại Hội Đức Mẹ La Vang tại Seattle vào cuối tháng 5 vừa qua.
Xem Hình
Linh Mục Võ Sơn tổng thứ ký Liên Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ trong lời cám ơn sau Đại Hội, ngài đã trịnh trọng công bố Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần là ngày Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ mời gọi các cộng đoàn tín hữu CGVN tại Hoa Kỳ cùng hướng về quê nhà để cầu nguyện cho Việt Nam sớm thoát khỏi nạn xâm lược của Tàu Cộng và xin cho quê hương Việt Nam sớm được huởng nền công lý và hoà bình đích thực theo lời kêu gọi của HĐGMVN vừa công bố từ đầu tháng 5 năm 2014.
Hưởng ứng lời mời gọi này, linh mục chánh xứ giáo xứ Các Thánh Tử Đạo VN Seattle đã quyết định cử hành buổi thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam vào tối thứ bảy như vừa nêu trên. Buổi thắp nến được cử hành bằng giờ chầu Thánh Thể một cách long trọng với sự hiện diện của đông đảo giáo dân và một số đồng hương tham dự. Linh mục Nguyễn Sơn Miên chủ sự giờ chầu Thánh Thể. Cao điểm của giờ chầu là giây phút thiêng liêng lúc cộng đòan hiện diện cùng hướng về quê nhà trong nghi thức đốt nến và cùng cầu nguyện với lời khẩn nguyện thiết tha được vị hướng dẫn giờ chầu dâng lên Chúa lời nguyện cầu như sau: Xin Chúa cho quê hương Việt Nam chúng con sớm thoát khỏi nạn xâm lược của Tàu Cộng, xin Chúa qui tụ khối đoàn kết toàn dân để cùng nhau bảo vệ đất nước." Trong thời gian đốt nến, toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiện diện đã sốt sắng cầu xin với Mẹ Maria qua kinnh cầu Dâng Nước Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ vơíi lời cầu thiết tha như: nhất là xin Mẹ cho quê hương Việt nam sớm thoát khỏi nạn cộng sản vô thần để mọi người dân được sống trong tự do hạnh phúc.."
Tưởng cũng nên biết, hôm nay, cùng với Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, tin tưởng vào sự tái sinh của Chúa Thánh Thần, tất cả đều trông cậy vào quyền năng của Chúa Thánh Linh hướng dẫn, trong các thánh lễ vào thứ bảy và Chúa Nhật này phần lời nguyện giáo dân đều có lời nguyện cầu cho quê hương Việt Nam sớm chấm dứt nạm xâm lược của Tàu Cộng. Buổi thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam được kết thúc lúc 7 giờ 40 phút bằng phép lành bế mạc giờ chầu. Đối với niềm tin của người Công Giáo thì không có việc gì mà Chúa không làm được, do vậy việc cầu nguyện là vấn đề thiết yếu. Ngoài ra giáo xứ không những chỉ có những buổi thắp nến cầu nguyện như hôm nay mà thường xuyên cầu nguyện cho Việt Nam một cách liên lĩ.
Nguyễn An Quý
Seattle. Chiều thứ bảy ngày 7 tháng 6 năm 2014 giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam thuộc TGP Seattle đã có buổi thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam vào lúc 7 giờ tối. Trước buổi thắp nến là thánh lễ mừng kính Chúa Thánh Thần Hiện Xuống theo phụng vụ của Giáo Hội. Thường thì thánh lễ vào chiều thứ bảy tưong đối không được đông đảo như các thánh lễ vào ngày Chúa Nhật trong tuần nhưng hôm nay số lượng giáo dân tham dự thánh lễ khá đông đảo, nhà thờ đầy kín có lẻ tất cả đều đến trong tinh thần hiệp thông với Quê Mẹ. Được biết trong dịp Đại Hội Đức Mẹ La Vang tại Seattle vào cuối tháng 5 vừa qua.
Xem Hình
Linh Mục Võ Sơn tổng thứ ký Liên Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ trong lời cám ơn sau Đại Hội, ngài đã trịnh trọng công bố Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần là ngày Liên Đoàn CGVN tại Hoa Kỳ mời gọi các cộng đoàn tín hữu CGVN tại Hoa Kỳ cùng hướng về quê nhà để cầu nguyện cho Việt Nam sớm thoát khỏi nạn xâm lược của Tàu Cộng và xin cho quê hương Việt Nam sớm được huởng nền công lý và hoà bình đích thực theo lời kêu gọi của HĐGMVN vừa công bố từ đầu tháng 5 năm 2014.
Hưởng ứng lời mời gọi này, linh mục chánh xứ giáo xứ Các Thánh Tử Đạo VN Seattle đã quyết định cử hành buổi thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam vào tối thứ bảy như vừa nêu trên. Buổi thắp nến được cử hành bằng giờ chầu Thánh Thể một cách long trọng với sự hiện diện của đông đảo giáo dân và một số đồng hương tham dự. Linh mục Nguyễn Sơn Miên chủ sự giờ chầu Thánh Thể. Cao điểm của giờ chầu là giây phút thiêng liêng lúc cộng đòan hiện diện cùng hướng về quê nhà trong nghi thức đốt nến và cùng cầu nguyện với lời khẩn nguyện thiết tha được vị hướng dẫn giờ chầu dâng lên Chúa lời nguyện cầu như sau: Xin Chúa cho quê hương Việt Nam chúng con sớm thoát khỏi nạn xâm lược của Tàu Cộng, xin Chúa qui tụ khối đoàn kết toàn dân để cùng nhau bảo vệ đất nước." Trong thời gian đốt nến, toàn thể cộng đoàn dân Chúa hiện diện đã sốt sắng cầu xin với Mẹ Maria qua kinnh cầu Dâng Nước Việt Nam cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội Mẹ vơíi lời cầu thiết tha như: nhất là xin Mẹ cho quê hương Việt nam sớm thoát khỏi nạn cộng sản vô thần để mọi người dân được sống trong tự do hạnh phúc.."
Tưởng cũng nên biết, hôm nay, cùng với Giáo Hội mừng kính trọng thể lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, tin tưởng vào sự tái sinh của Chúa Thánh Thần, tất cả đều trông cậy vào quyền năng của Chúa Thánh Linh hướng dẫn, trong các thánh lễ vào thứ bảy và Chúa Nhật này phần lời nguyện giáo dân đều có lời nguyện cầu cho quê hương Việt Nam sớm chấm dứt nạm xâm lược của Tàu Cộng. Buổi thắp nến cầu nguyện cho Việt Nam được kết thúc lúc 7 giờ 40 phút bằng phép lành bế mạc giờ chầu. Đối với niềm tin của người Công Giáo thì không có việc gì mà Chúa không làm được, do vậy việc cầu nguyện là vấn đề thiết yếu. Ngoài ra giáo xứ không những chỉ có những buổi thắp nến cầu nguyện như hôm nay mà thường xuyên cầu nguyện cho Việt Nam một cách liên lĩ.
Nguyễn An Quý
Tài Liệu - Sưu Khảo
Kitô hữu trên bán đảo Ả Rập hay tại các nước ''giàu vàng đen''
Lm. Mai Đức Vinh
15:23 10/06/2014
KITÔ HỮU TRÊN BÁN ĐẢO Ả RẬP HAY TẠI CÁC ‘NƯỚC GIÀU VÀNG ĐEN’.
« Tôi không thể yên lặng về tình hình đáng lo ngại mà các Kitô hữu đang sống trong một số quốc gia phần đông là hồi giáo. Nếu các tin hữu hồi giáo hiện cư ngụ trong các quốc gia có truyền thống kitô giáo được thụ hưởng những dễ dàng cơ bản hầu thỏa mãn mọi nhu cầu tôn giáo của họ, thì tôi cũng ước mong rằng các Kitô hữu cũng được hưởng cách đối xử tương xứng trong các nước có truyền thống hồi giáo ». (Đức Gioan-Phaolô II).
Năm 1976 có 200.000 người Công Giáo trong bán đảo Ảrập, ngày nay con số đã tăng lên gần 3.000.000. Con số đã tăng lên 15 lần hơn trong 30 năm, chắc chắn theo mức độ cao nhất trên thế giới. Phải nhìn nhận rằng đó không phải là con số những người hồi giáo trở lại Công Giáo, nhưng là con số công nhân ngoại quốc á châu hay âu châu đến để tham gia vào việc xây dựng các quốc gia nhiều dầu hỏa hay ‘nhiều vàng đen’ (les pays de l’or noir).
Nhưng tại nước Arabie Saoudite, tất cả những gì có thể gợi đến gần hay xa Kitô giáo đều bị cấm chỉ. Vì thế, các Kitô hữu sống đức tin của họ hoàn toàn ‘lén lút’ với nhiều nguy cơ bị bách hại. Các linh mục lẩn trốn đến, chỉ làm mục vụ cách tối thiểu và ban hành các bí tích, cũng chịu nhiều nguy cơ bị hành hạ và tù tội.
Trong những quốc gia khác của bán đảo. Sự cẩn trọng cẩn mật này là điều kiện không hiện diện lộ liễu và tự giữ an ninh cho mình. Dĩ nhiên mọi rao giảng Tin Mừng cho dân hồi giáo đều bị xử tử… Dầu vậy, vẫn có nhiều người hồi giáo trở lại và thực hành đức tin cách bí mật, bằng không sẽ bị thiệt thân. Sau đây chúng ta điểm qua từng nước trên bán đảo.
I. TẠI ARABIE SAOUDITE.
Năm 610, ông Mahomet bắt đầu việc giảng đạo trong miền mà ngày nay là nước Arabie Saoudite, thì đã có nhiều nhà thờ rợp bóng trên vùng đất này. Theo dòng lịch sử, những người Kitô hữu địa phương và những người Do Thái đều bị trục xuất, và vùng đất này đã trở thành ‘đất thánh của Hồi giáo’, và không một tôn giáo nào được làm dơ bẩn bằng sự hiện diện. Đây là nước duy nhất trong vùng Cận Đông mà ba tôn giáo độc thần đã không có một sự hòa hợp nhỏ bé nào. Đó là điều không quân bình.
1. Giáo Hội phải nhẫn nại và kiên trì.
Các chính phủ Âu châu xem ra bị mù quáng bởi nguồn lợi dầu hỏa rất dồi dào của bán đảo ả rập và bởi hàng tỷ mỹ kim giao lưu thương mại, nên tự bó tay, nhắm mắt làm ngơ, không dám nói đụng đến những ‘quân phiệt dầu hỏa’ Arabie Saoudite.
Vua Arabie Saoudite là Abdul Aziz Ibn Séoud, kể rằng : « Một hôm các nhà đại diện của một xí nghiệp lớn tây phương trình bày với ông một họa đồ xây dựng một thành phố lớn trên đất nước ông. Họ đề nghị xây các cơ xưởng, sân vận động, các dinh thự dành cho các viên chức cao cấp và những nhà ở cá nhân … Trên một góc của họa đồ xây cất, họ vẽ một chữ thập đỏ. Ông liền ngỡ ngàng và nhắc lại ngay rằng không thể có một nhà thờ, dù là bé nhỏ, trên đất nước của ông. Các nhà đại diện lập tức ‘xin lỗi nhà vua’ và vội lấy cục tẩy xóa bỏ ngay ‘dấu tiêu biểu của Kitô giáo’. Hôm đó, tôi hiểu rõ hơn rằng : ‘đối với những người này Thiên Chúa ít giá trị hơn tiền bạc ! ».
Với những lối ứng xử như vậy, làm sao có thể giúp các Kitô hữu cư ngụ tại Arabie Saoudite có một đời sống đức tin dễ thở hơn !. Họ càng không dám và không muốn khích lệ các quốc gia trên bán đảo nới tay với đời sống tự do tôn giáo và loan báo tin mừng.
Phần Giáo Hội, Giáo Hội nhẫn nại và ngoại giao để mời gọi các chính phủ trên bán đảo có đường lối mềm dẻo hơn trong vấn đề tự do tôn giáo. Mới đây, vị Đại Diện Tông Tòa tại Arabie Saoudite đã thành hình ba xứ đạo. Mỗi một xứ nằm trên một diện tích rộng hơn nước Pháp. Những nhà thờ xứ đạo phải xây khuất bóng chừng nào hay chừng đó. Nhà thờ xứ Djeđah bao gồm cả vùng La Mecque và Médine, dâng kính Đức Trinh Nữ Marie dưới danh hiệu Đức Bà Arabie (Notre Dame d’Arabie).
2. 800.000 Kitô hũu.
Quốc vương Arabie Saodite là nơi phát sinh thuyết wahhabisme, một phái hồi giáo nghiêm khắc nhất và giàu có nhất hiện nay. Nhờ nguồn tài chánh dồi dào họ nắm được hầu hết các nhóm hồi giáo cực đoan trên thế giới, đặc biệt ở Phi châu.
Những tương quan giữa hồi giáo và và các tôn giáo khác sa sút hẳn từ mấy thế kỷ nay, vì những nguyên nhân tôn giáo và chính trị. Tín điều về Chúa Ba Ngôi trong Kitô giáo đã bị tiên tri Mahomet coi như một hình thức đa thần. Chính Omar, thủ lãnh thứ hai của Hồi giáo đã ra lệnh trục xuất khỏi Arabie Saoudite tất cả những người không phải là hồi giáo. Chắc chắn rằng những nguời Do Thái đã bị đuổi đi trong thời điểm này. Nhưng sự hiện diện của các Kitô hữu vẫn còn cho tới thế kỷ IX.
Ngày nay có từ 5 đến 6 triệu người ngoại quốc định cư thường trực trong nước này. Đa số là người hồi giáo Pakistan, Afghans, Phi Châu, Ả rập. Chỉ có chừng 800.000 kitô hữu (3% dân số) đến từ Ấn Độ, Phi Luật Tân, Indonésie, Aicập, Bắc Mỹ hay Âu châu là những công nhân cao cấp. Nước này rất hạn chế trong vịệc đoàn tụ gia đình. Thí dụ con gái trên 18 tuổi không có quyền cư trú nếu họ không lập gia đình. Vì thế phần đông các thợ làm việc đều có gia đình tại quốc gia quê hương.
3. Một nước cấm người Kitô hữu cầu nguyện.
Những điều kiện sống ép buộc người không phải là hồi giáo ở Arabie Saoudite trong phạm vi tôn giáo thật điên khùng và phi lý. Không được quyền tỏ ra một dấu bề ngoài nào. Cấm chỉ thực hành bất cứ một việc phụng tự nào ngoài những việc của hồi giáo, cho dù là riêng tư. Quốc vương không cho các linh mục nhập cảnh, không cho đeo ảnh thánh giá, không cho đọc hay giữ sách Thánh Kinh, không được đem vào lãnh thổ một ảnh tượng hay tài liệu Kitô giáo.
Luật hồi giáo áp dụng cho mọi người, đàn bà Kitô giáo đi ra cũng phải trùm khăn, các tiệm thương mại buộc phải đóng cửa vào các giờ cầu nguyện. Cấm không được gọi điện thoại hay chăm chú làm việc công khai vào những giờ cầu nguyện. Trong thời gian ramadan có thể gặp rắc rối nếu ăn hay uống trước mặt một ngưòi hồi giáo.
Chính cảnh sát tôn giáo (muttawas) rình bắt những cách sống bất hợp pháp. Nếu tình cờ bắt được người Kitô hữu cầu nguyện, họ có thể bỏ tù hay trục xuất ngay khỏi vương quốc. Ngay ở sân bay, các viên chức quan thuế phải khám xét kỹ lưỡng những người ngoại quốc nhập bến xem có quần áo hay nữ trang mang màu sắc Kitô giáo, hoặc khám hành lý xem có giấu Sách Thánh hay không.
Tất cả những dấu hiệu thánh giá đều bị cấm chỉ, ngay trên dao Vitonox của Thụy Sĩ, trên đồng hồ Swatch … bó buộc phải xóa bỏ hay bị tịch thu. Vào thập niên 80, nhà cầm quyền Arabie Saoudite còn đòi Thuỵ sĩ phải bôi bỏ dấu chữ thập vẽ trên máy bay.
4. Vì muốn bảo vệ ‘đức hạnh’ (vertu) nên cấm không cho cử hành thánh lễ ( ! ).
Không chỉ tịch thu hàng hóa hay bắt đóng cửa tiệm trong các giờ cầu nguyện, cảnh sát tôn giáo còn lo giữ không cho làm nhơ bẩn ‘lãnh thổ wahhabite’ bằng việc cử hành Thánh Lễ hay đọc Sách Thánh. Những người tố cáo về những phi phạm này đều được phần thưởng khuyến khích. Vì thế, thật nghiệt ngã cho các tín hữu hay các linh mục lén lút vào vương quốc để thi hành mức tối thiểu công việc mục vụ. Các linh mục không được quyền dâng lễ trong các tòa đại sứ. Nơi và giờ lễ đều mang một bí số trong cộng đoàn. Các linh mục di chuyển ban đêm và thay đổi xe nhiều lần để tránh bị theo dõi.
Cảnh sát tôn giáo có thể xâm nhập bất cứ lúc nào, tịch thu các sách tôn giáo, đòi giáo dân ra hỏi cung, đề nghị trục xuất. Các linh mục có thể bị bắt giam. Ngoài ra còn có các cuộc tra hỏi tỉ mỉ và rất hách dịch.
5. Bị tù, bị đánh đòn và bị ép trở lại đạo Hồi.
Người truyền đạo, thường bị vu khống, sẽ bị bắt bỏ tù nhiều năm và còn bị hành nhục về thể xác nữa (thường đánh đòn). Ngày 13. 05. 2013, một tín hữu Liban bị kết án 6 năm tù và 300 roi đòn vì đã khuyên nhủ một thanh nữ Saoudienne trở lại Kitô giáo và bỏ xứ sở trốn sang Thụy Điển hầu khỏi bị án tử hình vì dám bỏ đạo Hồi. Một thanh niên Saoudien khác đã giúp cho một người đàn bà trẻ Saoudienne bỏ xứ sở và đi du lịch mà không có người bà con gần đồng hành, đã bị kết án hai năm tù và 200 roi đòn. Những hình phạt thể xác thường được thi hành trong một lúc.
Tại Arabie Saoudite, người ta không lấy việc trục các Kitô hữu làm đủ. Những Kitô hữu vi phạm luật pháp còn bị áp lực trở lại đạo Hồi. Những người đến lao động nghèo khổ dễ bị lôi cuốn và đe dọa như vậy. Đặc biệt khi xin gia hạn hộ chiếu để ở lại làm việc thêm, các Kitô hữu dễ bị quyến dũ và ép buộc theo đạo Hồi.
Vì thế, lôi kéo người khác đạo theo đạo Hồi là một bổn phận của mọi tín hữu Hồi giáo. Chính phủ đã dùng một ngân khoản lớn tiền bán dầu hỏa để chi vào công việc truyền đạo trên khắp thế giới. Liên minh Hồi giáo thế giới có trụ sở tại La Mecque, là một tổ chức phi chính phủ mà 1/2 ngân khoản chi tiêu hàng năm của họ là do Arabie Saoudite trợ cấp. Họ chủ tâm truyền đạo đi khắp nơi, đặc biệt tại Phi châu. Mục đích xử dụng ngân quỹ là xây Mosquée, mở trường học, in ấn và phổ biến các sách hồi giáo, giúp các tổ chức từ thiện. Họ trợ giúp đặc biệt các nhóm Hồi giáo bảo thủ để làm khó dễ các chính phủ địa phương.
6. Nhiều lần đã ‘yêu cầu khoan dung và mở rộng’, nhưng thất bại.
Sự bất khả khoan dung tôn giáo không đến từ hoàng gia cho bằng từ dân chúng. Chế độ quân chủ bị coi như đã lỗi thời đối với ngành cảnh cát tôn giáo được nhiều nhóm quá khích ủng hộ. Những nhóm này có thế lực tạo sức ép trên nhà cầm quyền và đòi hỏi hoàng gia phải tuân thủ các giáo điều của tiên tri Mahomét. Vì thế, nhiều lần hoàng gia tỏ ý muốn cởi mở và hòa dịu nhưng rồi, trong thực tế đã không tài nào thể hiện.
Năm 1970, vua Faysal ibn Abdul Aziz đã chấp thuận cấp hộ chiếu cho các linh mục và mục sư. Nhưng rồi tất cả đã bị trục xuất vào năm 1980. Năm 1997, nhân dịp viếng thăm tòa thánh Vatican, hoàng tử Ibn Abdullaziz, bộ trưởng bộ quốc phòng, tuyên bố những người không phải là Hồi giáo được tự do hành đạo của họ với điều kiện chỉ ở trong phạm vi tư nhân. Hai năm sau, một nhân vật thứ hai của chính phủ tuyên bố rằng những người Soaudiens không được cản ngăn việc hành đạo riêng tư của những người ngoài hồi giáo.
Tiếc thay những lời tuyên bố trên không hề có hiệu quả. Chính quyền cũng không ra một văn kiện nào cụ thể cho các công chức cũng như cho dân chúng biết.
Năm 2007, một phương án xây nhà thờ do Vatican đề nghị và vua Abdallah đã hứa sẽ nghiên cứu. Nhưng tất cả bị chặn lại bởi nhóm Mufti Anwar Ashiqi. Nhóm này tuyên bố chống lại phương án. Họ đặt điều kiện : « Chỉ có thể điều đình chính thức để xây một nhà thờ tại Arabie Saoudite sau khi Đức Giáo Hoàng và tất cả các Giáo Hội Kitô tuyên bố nhìn nhận tiên tri Mahomet ». Dầu vậy, Giáo Hội biết rõ : tại chỗ vẫn có một số hoạt động ‘hầm trú đáng thán phục’ mà một cách thật kín đáo mà tổ chức ‘Giúp Đỡ những Giáo Hội Lâm Nguy’ (AED) vẫn tài trợ.
7. Arabie Saoudite là chế độ quân chủ tuyệt đối dựa trên hệ Hồi giáo Wahhabite.
Hệ Hồi giáo này như thế nào ? Hệ wahhabisme là một giáo thuyết mới của Hồi Giáo. Người sáng lập là Abdal-wahhab, một người rất thông thạo về Hồi giáo Hanafite, tức là thuyết hồi giáo cực đoan. Ông quyết định thanh lọc Hồi giáo khỏi mọi đổi mới (tiếng ả rập : bida). Thí dụ việc đi viếng nghĩa trang là một ‘bida’ phải loại bỏ. Người ta không thể làm cái gì mà ông Mahomet và các đệ tử của ông đã không làm.
Chính đó là điều đã ký kết giữa những thành viên theo giáo thuyết Wahhab và ông hoàng Najd, cai trị vùng Trung Arabie, tức nước Arabie Soaudite ngày nay. Arabie Soaudite mang tên của gia đình Saoud. Giao ước này ký kết giữa triều đại nhà Saoud và phái hồi giáo Wahhabite cho đến ngày nay vẫn còn hiệu lực và những ông vua kế vị của nhà Saoud vẫn theo sát giáo lý của hệ Hồi giáo Wahhabite. Các luật pháp của nước Arabie Saoudite theo đúng giáo huấn cực đoan của thuyết wahhabisme.
8. Chính phủ dựa vào các nguyên tắc của luật Hồi giáo (charia).
Người ta phân biệt : 1) Sách Coran tức là sách thánh của Hồi giáo. 2) Hadiths là sách ghi những lời hay những việc làm của Mahomet. 3) Idjma hay Igma là những ý kiến hay tư tưởng đồng thuận và nhất trí của các nhà hồi giáo thông thái (oulémas). Charia là luật hồi giáo đã múc ra từ ba nguồn liệu trên.
Tất cả những người cư ngụ tại Arabie Saoudite đều phải tuân theo luật Charia, không ai có quyền chống đối, vì chống lại luật Charia là chống lại Hồi giáo. Ngay khi vừa tới phi trường, bạn sẽ được thông báo rằng ‘đến đây bạn phải cẩn thủ quy luật hồi giáo’. Tỉ dụ với tư cách là Kitô hữu nếu trong thời gian Ramadan, mà tôi cầm trong tay một chai nước ngọt, là tôi bị mọi người nhìn tôi với cặp mắt kỳ lạ và họ có thể đánh tôi. Tôi không thể ăn ở ngoài phố hay trong tiệm trong thời gian giữ chay. Người ta chỉ có thể ăn cách kín đáo trong nhà. Nghĩa là tôi phải giữ chay, cho dù tôi không phải là tín đồ hồi giáo. Vì đó là luật hồi giáo.
Nếu một Kitô hữu bị bắt bất ngờ có cỗ chuỗi hay ảnh thánh giá thì sao ?¸- Nếu ở trong túi thì không ai có thể nom thấy. Tuy nhiên nếu người ta nom thấy tôi đeo tràng hạt hay ảnh thánh giá, thì không chỉ là cảnh sát mà bất cứ một người hồi giáo nào cũng có quyền bắt tôi vứt bỏ đi. Hơn thế, tôi có thể bị bỏ tù hay trục xuất khỏi vương quốc.
Có những hoạt động khác khiến người Kiô hữu bị phạt vì lỗi luật Charia: Tất cả những bộc lộ cách công khai đức tin khác với đức tin hồi giáo đều đáng bị phạt. Họ biết rằng những người Mỹ, người Pháp, người Ý đều cử hành thánh lễ Noel và lễ Phục Sinh trong tòa đại sứ của họ, nhưng vì tòa đại sứ được coi như ‘nơi ngoài lãnh thổ’, không áp dụng luật hồi giáo. Dầu vậy cảnh sát tôn giáo vẫn canh chừng. Trong quốc vương không có nhà thờ, hội đường hay đền thờ ngoài ‘mốtkê’. Tất cả mọi biểu dương đức tin khác với đức tin hồi giáo đều bị cấm chỉ.
Chỉ Kitô hữu mới bị bách hại hay kỳ thị cách đặc biệt? – Không chỉ Kitô hữu, nhưng tất cả những người hồi giáo không theo phái wahhabites cũng bị vạ và kỳ thị, như hồi giáo Chìites hay Ismaélites. Ngay các cộng đoàn Kitô giáo cũng bị đối xử khác nhau: Kitô hữu Hoa Kỳ, Pháp, Ý hay Anh, vì thuộc những nước âu châu và kỹ nghệ thì ít bị ‘để ý’ hơn : là những cường quốc, nên khi có chuyện gì rắc rối, những nước này can thiệp mau lẹ để bênh vực công dân của họ. Tại Arabie Saoudite, công dân các nước nghèo như người Erythrée, Ấn Độ, Phi Luật Tân… bị xách nhiễu hơn cả. Nhưng những người lao động nghèo này cũng can đảm hơn cả…
9. Số người hồi giáo trở lại kitô giáo.
Không thể biết được. Rất khó đi sâu vào xã hội Saoudienne vì mọi hoạt động đều bị kiểm soát chặt chẽ. Điều chắc chắn là có những trường hợp trở lại. Nhiều người Saoudiens trở lại Kitô giáo và khi có dịp qua Ai Cập hay Algérie, họ đã nói trên đài, bày tỏ kinh nghiệm sống đức tin của họ. Dĩ nhiên họ không dám cho biết danh tánh. Họ xin các cộng đoàn Kitô giáo cầu nguyện cho họ và cho đồng bào Saoudien của họ mau được ơn đức tin. Nếu một người trở lại báo tin cho anh, chị hay em trong gia đình biết về đức tin mới của họ, họ liều mạng bị cáo là ‘phản bội gia đình’. Phản bội gia đình cũng là phản bội quốc gia, xã hội và hồi giáo… Lúc đó án đương nhiên của họ là bị ‘xử tử’…
10. Fatima, nữ tử đạo Saoudienne.
Không thể nào biết được con số những người trở lại Kitô giáo, sống trong thầm lặng vì sợ bị phát hiện. Những cuộc trở lại này thường do nghe truyền thanh, xem màn ảnh, đọc trên mạng lưới. Đó là trường hợp của cô Fatima, 26 tuổi. Cô bị ám sát chết bởi chính người anh ruột theo sự xúi dục của bà mẹ. Cô bị thiêu sống sau khi bị cắt lưỡi.
Trước khi bị hành nhục và giết chết dã man như vậy, cô Fatima đã để lại trên mạng lưới sứ điệp : «Xin sự bình an của Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô tràn đầy nơi chúng ta. Tôi đang ở trong nỗi sao xuyến, vì cha mẹ tôi bắt đầu nghi kỵ tôi, sau một cuộc tranh luận về tôn giáo chiều hôm qua, với mẹ và các anh tôi. Không cầm mình được, tôi đã nổi cơn giận và nguyền rủa hồi giáo, vì lẽ tôi cảm thấy khó chịu phải sống trong một nước không hề có một tí tự do tôn giáo nào. Đại để tôi đã nói với mẹ và các anh tôi rằng : Đời sống của Chúa Giêsu gương mẫu trổi vượt hơn đời sống của Mahomet nhiều, đến độ không thể nào đưa ra một so sánh gì giữa hai người được. Cuộc tranh luận sôi nổi đến tầm mức anh tôi đã nói với tôi : «Không thống hối và rút lại những lời này, thì mày phạm tội lộng ngôn ! ». Tôi trả lời cho anh : «Vinh danh Thiên Chúa !». Từ đó anh tôi trở thành người đe dọa. Rồi tôi nhận được không biết bao nhiêu là lời nguyền rủa. Hai anh tôi tố cáo ‘chính mạng lưới đã làm tôi trật đường rầy về tâm lý và tôn giáo’… Sau đó chúng tôi đi đến nhà chú tôi, và khi trở về nhà lúc một giờ sáng, tôi thấy phòng tôi bị mở tung và chiếc máy ‘ordinateur portable’ của tôi bị biến mất. Sau 15 phút tìm kiếm, tôi thấy anh tôi đang giữ. Trong máy, tôi ghi những điều tôi suy nghĩ về Kitô giáo và đã ghi ảnh Thánh Giá. Tôi hỏi anh tại sao lấy máy của tôi. Anh trả lời rằng ‘vì máy anh hư nên anh cần máy tôi để nối lại… »
Anh nhìn tôi bằng cặp mắt đe dọa. Bấy giờ tôi cười với anh và lấy lại máy của tôi. Tôi trở về phòng tôi và tôi bị nhốt trong phòng cho đến bây giờ. Tôi giả thiết rằng anh đã đọc những suy nghĩ của tôi về Kitô giáo và chắc hẳn anh đã thấy hình Thánh Giá. Tôi tự hỏi : làm sao anh có thể vào phòng tôi ? Làm sao anh có chìa khóa, vì chìa khóa tôi vẫn giữ trong túi với tôi ? … Tôi sợ hãi, đã bốn tiếng đồng hồ tôi bị giam trong phòng. Thái độ của anh làm cho tôi mất hết tín nhiệm và những cái nhìn của anh làm tôi run sợ … Cầu nguyện cho tôi, tôi van nài… Chúa vẫn ở với tôi, Ngài là ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ ai nữa ? Tôi sẽ gỡ máy ra để không ai hoài nghi gì tôi nữa… »
II. TẠI CÁC NƯỚC KHÁC
Sau Arabie Saoudite, nơi Giáo Hội là ‘vô hình’, là ‘bí mật’, còn lại những nước khác nhỏ bé trên bán đảo : Yémen, Oman, Qatar, Emirats Arabes Unis, Koweit và Bahrein. Mỗi nước nhỏ này có một cách ứng xử và một chính trị hơi khác nhau đối với thiểu số Kitô hữu. Nước Arabie Saoudite lớn hơn các nước khác trên bán đảo, nhưng cũng là nước thù địch hơn đối với Kitô giáo. Trong sáu nước còn lại, Giáo Hội sinh hoạt kín đáo nhưng chính thức.
Như tại Arabie Saoudite, tất cả các Kitô hữu đều là ngoại quốc tạm trú trong các nước này vì lý do lao động nghề nghiệp. Những nước này kiến thiết trường kỳ kể từ khi dàu hỏa trở thành nguồn tài sản quan trọng trong lịch sử nhân loại.
Từ Koweit đến Yémen, các nước đều mở ra biển khơi. Đó là một thế giới khác quay về lục địa ngầm Indien và vượt lên trên các eo biển Malaisie.
Không kể Qatar wahhabite, những tiểu quốc này sống hồi giáo ít gò bó. Tuy nhiên cũng bảo thủ và trung thành với truyền thống. Nếu đôi khi các nước này đụng độ với người Tây phương, thì chính các nước Tây phương cũng làm phật ý họ nữa.
1. Émirats Arabes Unis : Chân trong bùn !
Theo Hiến pháp của liên bang thì Hồi giáo là tôn giáo chính thức của bảy tiểu bang (Emirats) đã liên hiệp thành Liên bang các Emirats Arabes. Hiến pháp của liên bang bảo đảm sự tự do phụng tự cho những người không-hồi giáo, miễn là họ không vi phạm luật pháp hay luân lý công cộng.
Tháng năm 2010, các Émirats đã thiết lập liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh trên cấp bậc đại sứ. Thành phố Abu Dhabi là nơi tọa lạc cơ sở đại diện tông tòa cho cả liên bang Émirats Arabes Unis, Yémen và Oman. Các gia đình hoàng tộc đã dâng đất xây cất các đền thờ Công Giáo, chính thống, arméniens và cả đền thờ tin lành.
Vào tháng 6.2011, sau bốn năm làm việc, nhà thờ chính tòa Chính Thống Nga đã được khánh thành tại thành phố Sharjah. Nhà thờ dâng kính thánh Philippê Tông Đồ, là nhà thờ đầu tiên trên bán đảo Ảrập có 5 thánh giá thiếp vàng sáng chói trên các nóc tròn. Để được phép xây cất một nơi phụng tự Kitô giáo, cần phải tránh đặt lộ liễu bên ngoài các biểu tượng. Giáo chủ Mouscou nhắc lại trên màn ảnh truyền thông rằng : « Biến cố quan trọng như vậy đối với cộng đồng địa phương đã được thực hiện là nhờ lòng quảng đại của đô đốc Sharjah, Sultan bin Muhammad».
Tuy nhiên, Liên bang Émirats Arabes Unis không phải là không trách móc các kitô hữu. Năm 1996, một Kitô hữu Liban, người trách nhiệm cao cấp trong một khách sạn quốc tế đã bị tuyên bố li dị và chịu 39 roi đòn vì đã thành hôn với một người nữ hồi giáo.
Đàng khác, tại Dubai, đất tặng để xây nhà thờ nằm ngay rẻo sông. Vào mùa mưa, các linh mục và giáo dân đều lội trong bùn nhơ.
2. Tiểu quốc Oman.
Nguồn luật pháp của tiểu quốc Oman là Charia và Hồi giáo là tôn giáo quốc gia. Tự do thực hành các tôn giáo khác được bảo đảm, miễn là phù hợp với truyền thống hồi giáo và không làm rối loạn trật tự công cộng. Tuy nhiên cấm chỉ việc in ấn các sách vở tôn giáo ngoài hồi giáo. Dầu vậy, chính quyền làm ngơ cho việc đưa sách báo tôn giáo từ ngoại quốc vào, sau khi đã kiểm soát.
Hình luật dự liệu phạt tù bất cứ ai dám nói phạm đến Thiên Chúa hay các ngôn sứ, hay xúc phạm đến hồi giáo. Khoản luật này đôi khi được sử dụng cách vô ý thức..
Trong tiểu quốc Oman có 4 xứ đạo và 26 địa điểm mục vụ được đảm nhiệm bởi 9 linh mục. Thánh lễ luôn đông người dự. Trong thập niên 80, tại nhà thờ Saint Pierre et Saint Paul, giáo dân đứng chen nhau cả ra đường phố. Vì thế, tiểu vương Qabus đã cho người Công Giáo đất để xây thêm nhà thờ mới. Ông còn tặng cây đàn Orgues vốn để trong hoàng cung.
Mấy tháng sau ngày khánh thành nhà thờ, cha Barnabé dòng Phanxicô, cha sở xứ đạo đã bày tỏ những lời thật cảm động : «Những cây đàn này đã 12 năm giữ trong hoàng cung. Chính tiểu vương đã gỡ ra đem đến nhà thờ và ráp lại như cũ. Hơn 7.000 giáo dân đã dự lễ đêm giáng Sinh trong ngôi nhà thờ mới này. Và tôi dám nói là chúng tôi rất đỗi vui mừng, nhiệt liệt ghi ơn… ».
Tuy nhiên không phải tất cả đều hoàn thiện. Người ta lưu ý rằng nhà thờ Chala nằm ở ngoại ô thủ đô, chỉ nằm trên một rẻo đất giữa nhiều đường xe giao nhau, tạo nên tiếng ồn nhộn nhạo thường trực và phiền hà khi cử hành phụng vụ…
3. Yémen : Kitô hữu nằm nằm trong thế kẹt giữa những tranh dành ảnh hưởng của các phe phái hồi giáo !
Yémen là một trường hợp khác thường trong vùng. Nước Anh đã kiểm soát nước này từ 1839 đến 1967, nhưng họ chỉ quan tâm đến cửa biển Aden, thủ đô, nằm về phía Nam Yémen thôi. Còn phía Bắc là nơi sinh sống của các bộ lạc và các chức sắc (imams) hồi giáo theo truyền thống, không chịu ảnh hưởng gì đáng kể của người Anh.
Tại Aden, nhiều nhà thờ mọc lên. Năm 1967, khi người Anh ra đi, người ta đếm được 22 nhà thờ. Nhưng cuối thế kỷ, chỉ còn sót lại mấy nhà thờ. Những vụ đụng độ thê thảm và tàn sát đã làm rung động cả nước sau khi quân anh rút lui.
Mới đây, năm 2011, trật tự và an ninh của nước này lại bị tan vỡ . Về miền Tây-Bắc hồi giáo Chiites đã nổi loạn chống lại hồi giáo Sunnite. Từ căng thẳng đến đụng độ, rồi giao chiến, nhóm nào cũng tăng cường các vụ phá hoại tai ác. Dân chúng nổi dậy chống lại vị tổng thống đã 33 năm tại chức. Tổng thống phải thoái vị với điều kiện được miễn tố. Tân tổng thống Abdo Rabbo Mansour Hadi, được bầu lên năm 2012, đang cố sức thống nhất và hòa giải xứ sở.
Những vụ đụng độ tàn ác là một đe dọa liên tục cho người kitô hữu. Linh mục Mattews, người Ấn Độ, cha sở của một xứ đạo tại Aden, thường xuyên bị người hồi giáo xỉ vả và đe dọa ‘giết chết’.
Tháng ba năm 2012, mạng lưới hồi giáo loan tin : « Nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa bên cạnh những moudjahidin, ông Joel Shrum, một người tích cực truyền giáo dưới chiêu bài giáo sư, đã bị giết ». Cha mẹ của giáo sư trẻ tuổi này quả quyết : «Giáo sư Joel đến Yémen để học tiếng ả rạp chứ không phải để truyền giáo ».
4. Qatar : hồi giáo wahhabisme mềm dẻo hơn.
Mặc dầu diện tích bé nhỏ, Qatar tạo được ảnh hưởng đáng kể đối với các nước khác trên bán đảo nhờ có nguồn lợi sung mãn. Hiến pháp của Qatar tuyên bố hồi giáo là tôn giáo của quốc gia và luật hồi giáo là nguồn chính yếu của luật pháp Qatar. Các tôn giáo thiểu số trong lãnh thổ đều có quy chế pháp lý và có quyền liên hệ và gặp gỡ giữa các tôn giáo. Vì thế Qatar đã tạo nên một bầu khí tương đối kính trọng quyền tự do tôn giáo.
Tại Qatar, mọi vấn đề thay đổi kể từ khi một tù trưởng (émir) trẻ tuổi đã phế bỏ thân phụ và nắm quyền cai trị. Các buổi cầu nguyện riêng tư được diễn tiến không có trở ngại. Đôi khi số người tham dự rất đông. Trong một vương quốc mà dân theo hồi giáo wahhabites giống như dân Arabie Saoudite, nhưng các linh mục lại có một quy chế được pháp luật công nhận và có thể cử hành nghi thức hôn phối và an táng.
Toà Thánh đã đạt được hiệp uớc đặt tòa khâm sứ và liên hệ ngoại giao ngay từ năm 1993. Sư kiện đó đã tạo cơ hội xây ngôi nhà thờ nguy nga tại thủ đô Doha. Chính nhà vua đã cho đất xây nhà thờ. Vì thế nhiều nhóm hồi giáo chỉ trích nhà vua.
Ngay thủ đô có bốn cơ sở phụng tự khác dành cho chính thống, Công Giáo, anh giáo và tin lành Luther.
5. Koweit : Những dự luật chống các Giáo Hội đều bị coi là phản hiến pháp.
Tại Koweit có từ 350.000 đến 400.000 Kitô hữu, mà 200.000 là Công Giáo. Đây là một nước mà người Kitô giáo sống thoải mái nhất trong vùng. Tuy nhiên vẫn có những chống đối từ phía hồi giáo quá khích hay bảo thủ, cản trở việc thi hành nhiều dự án ủng hộ người Kitô hữu. Thí dụ, Hội đồng thành phố Koweit đã hai lần từ chối , 27.10 và 03.12. 2010, đơn xin của bộ Ngoại Giao xây một nhà thờ mới cho cộng đoàn Melkite-Greco Công Giáo.
Ngày 16. 02. 2012, một nhóm chính trị đã phổ biến một đề nghị phá đổ hết các nhà thờ, nhà nguyện kitô giáo trên lãnh thổ. Nhưng sau cùng, đề nghị này biến thành đề nghị cấm xây thêm các nhà thờ mới. Những lời tuyên bố chống tôn giáo như trên bị dân chúng phản kháng và những nhà chính trị khác cho là ‘những đề nghị trái hiến pháp’. Vì hiến pháp Koweit bênh vực quyền tự do tôn giáo của mọi công dân và của mọi kiều dân cư ngụ tại vương quốc. Vì, theo hiến pháp 1962, thì hồi giáo là tôn giáo quốc gia và là ngưồn chính yếu của luật quốc gia. Nhưng khoản 35 quy định rằng : ‘Tự do lương tâm là tuyệt đối. Nhà nước có bổn phận che chở việc hành đạo đúng theo phong tục hiện hành, và với điều kiện không vi phạm trật tự và luân lý công cộng’.
Đây là nước đầu tiên trên bán đảo có liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh. Koweit trao đổi cấp bậc đại sứ với Tòa Thánh từ 1968. Năm 1996, đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, thứ trưởng bộ ngoại giao của Tòa Thánh, thời Đức Goan Phalô II, đã viếng thăm chính thức nước Koweit. Ngài được đón tiếp bởi tiểu vương Jaber al-Ahmed al-Sabah và đã dâng lễ tại nhà thờ chính tòa. Ngài đã gặp gỡ ‘một cộng đoàn 100.000 người Công Giáo vui hưởng quyền tự do tôn giáo, sống đức tin cách thoải mái. Mong có những liên hệ tốt như vậy tại các nước khác trên bán đảo, những nơi này, các kitô hữu chưa được hưởng quyền tự do tôn giáo như vậy’.
Rồi đến tháng 5. 2010, Đức Giáo Hoàng Benoit XVI tiếp kiến lần đầu tiên, tiểu vương Koweit, Cheikh Sabah al Ahmad al Sabah. Một trong những đề tài trao đổi giữa hai vị là ‘đối thoại tôn giáo’.
Cộng đồng Công Giáo dưới quyền quản nhiệm của đức tổng giám mục Camillo Ballin, đại diện tông tòa tại Koweit, Qatar, Arabie Saoudite và Bahreim. Tòa tổng giám mục đặt tại Koweit cho tới năm 2011, sau đó được chuyển tới nước Bahrein, vì những lý do thực tế thuận lợi . Đức tổng giám mục có 47 linh mục lo mục vụ cho giáo hữu rải rác trên 4 tiểu vương.
Tại Koweit, Giáo Hội có nhà thờ chính tòa ngay thủ đô dâng kính Thánh Gia, và 4 nhà thờ khác. Nhà thờ chính tòa nằm giữa lòng thành phố, trên khu đất rộng và đẹp do một tiểu vương tặng ban cách đây 50 năm, tức 1966. Vì được xây trên địa thế khang trang, nằm giữa thủ đô, nhà thờ chính toà đã là nguyên nhân cho nhiều lời phê bình, thậm chí nhóm hồi giáo muốn dịch nhà thờ chính toà đến chỗ khác, hay xây một nhà thờ mới thay thế. Nhưng Đức Giám Mục đã đặt một bảng ghi ơn bằng tiếng ảrập và tiếng anh, cám ơn và tôn vinh các tiểu vương đã đi trước và các tiểu vương đương nhiệm… vì lòng quảng đại vốn có nơi các ngài… Từ đó, báo chí không còn đặt vấn đề về khu đất xây nhà thờ chính tòa nữa.
Mỗi tuần có 46 thánh lễ cử hành trong nhà thờ chính toà, với 5 nghi thức phụng vụ và 12 ngôn ngữ khác nhau. Đây là một vấn đề thường xuyên xảy ra làm đau đầu cho linh mục quản nhiệm nhà thờ, nhất là vào những ngày lễ lớn. Đức Giám Mục nói rằng : ‘Nguồn lợi tinh thần của Giáo Hội Koweit là tại nhà thờ chính tòa, người ta tham dự đông đảo việc chầu mình thánh liên tục’.
Xứ đạo sầm uất thứ hai tại Koweit là nhà thờ xứ Almađi. Đây là nhà thờ cổ nhất tại Koweit. Khi đào để đặt móng nhà thờ, người ta đã tìm thấy một nền móng nhà thờ từ xa xưa. Trong nhà thờ có toà Đức Bà Arabie, được đức Piô XII làm phép và tôn vinh Đức Maria làm quan thày của bán đảo. Đức Giám Mục đã trao phó cho Đức Mẹ nhiều dự án mong được thực hiện trên tiểu vương này… Một số dự án mong được thực hiện tại Bahrein…
6. Bahrein : Một Giáo Hội hoạt động tích cực.
Bahrein chỉ có 1.200.000 dân cư mà 1/2 là người ngoại quốc và phần đông là gốc Á châu. Họ nhập cảnh để lao động. Tại đây chỉ có 6 linh mục lo cho 100.000 người Công Giáo. Như vậy người Công Giáo chiếm 8% dân số. Họ không được định cư, chỉ ở làm việc chừng 6, bảy năm rồi phải về nguyên quán. Dầu vậy, sinh hoạt cộng đoàn tương đối vững bền. Đàng khác, đa số giáo dân nghèo, vì họ làm việc với đồng lương thấp kém. Nhiều khi họ gặp những khó khăn về hành chánh, khiến các linh mục tốn nhiều thời gian giúp đỡ họ, đồng hành với họ …
Mục vụ của các linh mục rất sinh động, tinh thần liên đới của giáo dân thật tích cực và đáng thán phục. Nhờ thế mà Giáo Hội đã đầu tư vào công trình giáo dục : là mở một trường mẫu giáo thu nhận 140 em bé và một trường trung tiểu học với con số 1.200 học sinh. Đó là trường Thánh Tâm do các nữ tu Cát Minh-Tông Đồ (Carmélites Apostoliques) điều hành. Dòng gốc Ấn Độ và các nữ tu thuộc 24 quốc tịch khác nhau, làm việc với cả những người hồi giáo bản xứ, họ chiếm tới 20%. Về học sinh thì 70% là Công Giáo, còn lại là Ấn giáo, Phật giáo, Đạo giáo…
Giáo Hội Bahrein quan tâm nhiều đến vấn đề xã hội, như đi thăm viếng các tù nhân, giúp đỡ các bệnh nhân, đồng hành với những người gặp khó khăn đặc biệt, cấp cứu những trường hợp khẩn trương.. Nhờ những sáng kiến tông đồ từ thiện, Giáo Hội phát triển…
Một bằng chứng cụ thể: Đức tổng giám mục Ballin, đại diện tông tòa, kể lại rằng: “Bấy giờ tôi đang ở Koweit, tôi đã nhận được điện thoại của văn phòng bộ trưởng cho biết ‘Ông Bộ Trrưởng mong gặp tôi’. Tôi trở về Bahrein, đến ngay văn phòng của ông và tôi nhận được một niềm vui thật lớn: Ông Shaykh Ahmed Bin Ateytallah al Khalifa, bộ trưởng ‘theo dõi việc thực hiện các quyết định của nhà vua hay của chính phủ’, trao cho tôi ‘giấy chủ quyền một khu đất 9.000 mét vuông, trên đó có thể xây một nhà thờ mới’. Bằng khoán này ký ngày 11. 02, ngày lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức. Lập tức tôi nghĩ đến Đức Bà Arabie. Những lời cầu nguyện của chúng tôi đã được chấp nhận. Đức bà Arabie có nhiều khả năng làm phép lạ! Ông bộ trưởng mời tôi đi vào hoàng cung gặp vua Hamad bin Issa al-Khalifa với tất cả các chức sắc tôn giáo và còn nói thêm ‘tôi sẽ ngồi bên cạnh nhà vua vì là khách mời danh dự’. Như vậy, tôi có thể cám ơn nhà vua đã cho cộng đoàn Công Giáo khu đất xây nhà thờ mới’.
Nhà thờ mới này nằm vào trung tâm của bán đảo. Bahrein sát gần với Qatar và Arabie Saoudite và có thể đi bằng xe hơi, vì các nước nối nhau bằng những cây cầu tân tiến. Những Kitô hữu sống Arabie Saoudite có thể qua Bahrein mỗi cuối tuần, vừa để xả hơi, vừa có dịp dâng lễ, bày tỏ niềm tin cách thoải mái hơn ở Arabie Saoudite. Các nhà thờ khác đều chật ních, vì thế vấn đề khẩn trương là điều hành mục vụ thế nào để phục vụ tốt cho hơn 100.000 Kitô hữu lao động.
Giáo Hội ở Bahrein chỉ có 6 linh mục dòng Phanxicô (capucins) quốc tịch Ấn Độ, Li Băng và Phi Luật Tân. Nhà thờ Thánh Tâm chỉ đủ chỗ tối đa cho 1000 giáo dân, còn chừng 500 người khác phải đứng ở ngoài mà dự lễ. Mỗi cuối tuần, thứ sáu đến Chúa Nhật có 24 thánh lễ. Tại xứ này, thứ bảy được coi như ngày Chúa Nhật.
Vì thế việc xây ngôi nhà thờ mới thật cần thiết. Dự án, nhà thờ có thể đón 2600 tín hữu. Ngoài ra cần cơ sở để tổ chức các buổi cấm phòng và các khóa huấn luyện giáo dân trong cả bán đảo Arập. (1).
III. KITÔ HỮU BỊ ĐE DỌA KHẮP NƠI
Trong năm 2013, những hành động bạo lực chống Kitô giáo mỗi ngày một gia tăng trên thế giới, đã tạo nên một tình trạng đáng quan tâm và một bầu khí ngột ngạt. Theo bản thống kê quốc tế, trong năm qua, người Công Giáo, tin lành, chính thống và anh giáo, không những bị đe dọa mà còn bị bách hại. Mới đây, tổ chức ONG Portes Ouvertes đã cho biết, chỉ trong năm 2013, có 2.123 Kitô hữu bị sát hại vì niềm tin của họ. Con số này gần gấp đôi sánh với năm 2012: năm 2012 chỉ có 1.201 Kitô hữu bị thiệt mang. Tổ chức còn nói rõ: các Kitô hữu bị đe dọa và bách hại nhiều hơn cả là tại lục địa Phi châu và mấy nước Á Châu, đặc biệt tại Trung Đông. Hiện tình báo động rằng không phải khắp nơi đã có sự tự do tôn gáo.
Portes Ouvertes cho biết: Đứng đầu các nước ngược đãi Kitô hữu là Bắc Hàn đã 12 năm liên tiếp. Tại đó Kitô giáo bị coi như một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm đến từ sự đồi bại của Âu châu. Nhưng các tôn giáo khác cũng không được đánh giá cao hơn. Các tổ chức theo dõi tình hình này đặt tên cho năm 2013 là ‘mùa đông của Kitô giáo’. ‘Mùa đông Kitô giáo này’ bi đát nhất là tại các nước ‘mùa xuân Ảrập’, chẳng hạn tại Ai Cập đã có 492 nhà thờ bị phá hoại. Trong những cuộc cách mạng mùa xuân vừa qua, các cộng đoàn Kitô giáo không bị tấn công trực tiếp vì đức tin, nhưng một cách gián tiếp vi ‘thái độ trung lập’ của họ. Người Kitô giáo đứng vào thế kẹt giữa ‘chế độ cũ’ và các tổ chức hồi giáo ‘nắm được chính quyền’. Tại Syrie hiện nay, Kitô giáo là thiểu số với 5% dân số, nên theo ông Frédéric Pichon, tác giả cuốn ‘Maaloula, Du vieux avec du neuf’, thì nhiều Kitô hữu bị ép buộc trở lại hồi giáo, hay phải trả 35.000 dolars mỗi tháng để tiếp tục sống đức tin.
Phi châu cũng mỗi ngày một nguy hiểm cho các cộng đồng Kitô giáo: Các nhóm hồi giáo (được trợ cấp của những nước Ảrập nhiều dầu hỏa) không ngại tàn sát các Kitô hữu cách lạnh lùng, như ở Nigeria và Somalie mới đây. Chỉ trong một vụ đụng độ, 770 Kitô hữu Somali bị thiệt mạng.
Trước tình trạng bi đát này, nhiều Kitô hữu buộc lòng ra đi khỏi quê hương. Dĩ nhiên họ mất hết tài sản và không có ngày hẹn trở về. Ông Frédéric nhấn mạnh rằng đây là ‘cuộc diaspora Kitô giáo quan trọng trên thế giới hôm nay’.
Sau đây là danh sách 50 nước mà tại đó các Kitô hữu đang bị đe dọa và bách hại hơn cả trên thế giới: 1. Nord Corée – 2. Somalie – 3. Syrie – 4. Irak – 5. Afghanistan – 6. Arabie Saoudite – 7. Maldives – 8. Pakistan – 9. Iran – 10. Yémen – 11. Soudan – 12. Érythrée – 13. Libye – 14. Nigeria – 15. Ouzbékistan – 16. Centrafrique – 17. Éthiopie – 18. Vietnam – 19. Qatar – 20. Turkménistan – 21. Laos – 22. Égypte – 23. Birmanie – 24. Brunei – 25. Colombie – 26. Jordanie – 27. Oman – 28. Inde – 29. Sri Lanka – 30. Tunisie – 31. Bouthan – 32. Algérie – 33. Mali – 34. Terriolres – 35. Eau – 36. Mauritanie – 37. Chine – 38. Koweit – 39. Kazakhatan – 40. Malaisie – 41. Bahrein – 42. Comơres – 43. Kenya – 44. Maroc – 45. Tadjikitan – 46. Djibouti – 47. Indonésie – 48. Bangladesh – 49. Tanzania – 50. Niger.(2).
Lm Mai Đức Vinh
Ghi chú :
(1) Viết theo tài liệu của AED, 12.2013
(2) Báo Direct Matin, 10.01.2014.
« Tôi không thể yên lặng về tình hình đáng lo ngại mà các Kitô hữu đang sống trong một số quốc gia phần đông là hồi giáo. Nếu các tin hữu hồi giáo hiện cư ngụ trong các quốc gia có truyền thống kitô giáo được thụ hưởng những dễ dàng cơ bản hầu thỏa mãn mọi nhu cầu tôn giáo của họ, thì tôi cũng ước mong rằng các Kitô hữu cũng được hưởng cách đối xử tương xứng trong các nước có truyền thống hồi giáo ». (Đức Gioan-Phaolô II).
Năm 1976 có 200.000 người Công Giáo trong bán đảo Ảrập, ngày nay con số đã tăng lên gần 3.000.000. Con số đã tăng lên 15 lần hơn trong 30 năm, chắc chắn theo mức độ cao nhất trên thế giới. Phải nhìn nhận rằng đó không phải là con số những người hồi giáo trở lại Công Giáo, nhưng là con số công nhân ngoại quốc á châu hay âu châu đến để tham gia vào việc xây dựng các quốc gia nhiều dầu hỏa hay ‘nhiều vàng đen’ (les pays de l’or noir).
Nhưng tại nước Arabie Saoudite, tất cả những gì có thể gợi đến gần hay xa Kitô giáo đều bị cấm chỉ. Vì thế, các Kitô hữu sống đức tin của họ hoàn toàn ‘lén lút’ với nhiều nguy cơ bị bách hại. Các linh mục lẩn trốn đến, chỉ làm mục vụ cách tối thiểu và ban hành các bí tích, cũng chịu nhiều nguy cơ bị hành hạ và tù tội.
Trong những quốc gia khác của bán đảo. Sự cẩn trọng cẩn mật này là điều kiện không hiện diện lộ liễu và tự giữ an ninh cho mình. Dĩ nhiên mọi rao giảng Tin Mừng cho dân hồi giáo đều bị xử tử… Dầu vậy, vẫn có nhiều người hồi giáo trở lại và thực hành đức tin cách bí mật, bằng không sẽ bị thiệt thân. Sau đây chúng ta điểm qua từng nước trên bán đảo.
I. TẠI ARABIE SAOUDITE.
Năm 610, ông Mahomet bắt đầu việc giảng đạo trong miền mà ngày nay là nước Arabie Saoudite, thì đã có nhiều nhà thờ rợp bóng trên vùng đất này. Theo dòng lịch sử, những người Kitô hữu địa phương và những người Do Thái đều bị trục xuất, và vùng đất này đã trở thành ‘đất thánh của Hồi giáo’, và không một tôn giáo nào được làm dơ bẩn bằng sự hiện diện. Đây là nước duy nhất trong vùng Cận Đông mà ba tôn giáo độc thần đã không có một sự hòa hợp nhỏ bé nào. Đó là điều không quân bình.
1. Giáo Hội phải nhẫn nại và kiên trì.
Các chính phủ Âu châu xem ra bị mù quáng bởi nguồn lợi dầu hỏa rất dồi dào của bán đảo ả rập và bởi hàng tỷ mỹ kim giao lưu thương mại, nên tự bó tay, nhắm mắt làm ngơ, không dám nói đụng đến những ‘quân phiệt dầu hỏa’ Arabie Saoudite.
Vua Arabie Saoudite là Abdul Aziz Ibn Séoud, kể rằng : « Một hôm các nhà đại diện của một xí nghiệp lớn tây phương trình bày với ông một họa đồ xây dựng một thành phố lớn trên đất nước ông. Họ đề nghị xây các cơ xưởng, sân vận động, các dinh thự dành cho các viên chức cao cấp và những nhà ở cá nhân … Trên một góc của họa đồ xây cất, họ vẽ một chữ thập đỏ. Ông liền ngỡ ngàng và nhắc lại ngay rằng không thể có một nhà thờ, dù là bé nhỏ, trên đất nước của ông. Các nhà đại diện lập tức ‘xin lỗi nhà vua’ và vội lấy cục tẩy xóa bỏ ngay ‘dấu tiêu biểu của Kitô giáo’. Hôm đó, tôi hiểu rõ hơn rằng : ‘đối với những người này Thiên Chúa ít giá trị hơn tiền bạc ! ».
Với những lối ứng xử như vậy, làm sao có thể giúp các Kitô hữu cư ngụ tại Arabie Saoudite có một đời sống đức tin dễ thở hơn !. Họ càng không dám và không muốn khích lệ các quốc gia trên bán đảo nới tay với đời sống tự do tôn giáo và loan báo tin mừng.
Phần Giáo Hội, Giáo Hội nhẫn nại và ngoại giao để mời gọi các chính phủ trên bán đảo có đường lối mềm dẻo hơn trong vấn đề tự do tôn giáo. Mới đây, vị Đại Diện Tông Tòa tại Arabie Saoudite đã thành hình ba xứ đạo. Mỗi một xứ nằm trên một diện tích rộng hơn nước Pháp. Những nhà thờ xứ đạo phải xây khuất bóng chừng nào hay chừng đó. Nhà thờ xứ Djeđah bao gồm cả vùng La Mecque và Médine, dâng kính Đức Trinh Nữ Marie dưới danh hiệu Đức Bà Arabie (Notre Dame d’Arabie).
2. 800.000 Kitô hũu.
Quốc vương Arabie Saodite là nơi phát sinh thuyết wahhabisme, một phái hồi giáo nghiêm khắc nhất và giàu có nhất hiện nay. Nhờ nguồn tài chánh dồi dào họ nắm được hầu hết các nhóm hồi giáo cực đoan trên thế giới, đặc biệt ở Phi châu.
Những tương quan giữa hồi giáo và và các tôn giáo khác sa sút hẳn từ mấy thế kỷ nay, vì những nguyên nhân tôn giáo và chính trị. Tín điều về Chúa Ba Ngôi trong Kitô giáo đã bị tiên tri Mahomet coi như một hình thức đa thần. Chính Omar, thủ lãnh thứ hai của Hồi giáo đã ra lệnh trục xuất khỏi Arabie Saoudite tất cả những người không phải là hồi giáo. Chắc chắn rằng những nguời Do Thái đã bị đuổi đi trong thời điểm này. Nhưng sự hiện diện của các Kitô hữu vẫn còn cho tới thế kỷ IX.
Ngày nay có từ 5 đến 6 triệu người ngoại quốc định cư thường trực trong nước này. Đa số là người hồi giáo Pakistan, Afghans, Phi Châu, Ả rập. Chỉ có chừng 800.000 kitô hữu (3% dân số) đến từ Ấn Độ, Phi Luật Tân, Indonésie, Aicập, Bắc Mỹ hay Âu châu là những công nhân cao cấp. Nước này rất hạn chế trong vịệc đoàn tụ gia đình. Thí dụ con gái trên 18 tuổi không có quyền cư trú nếu họ không lập gia đình. Vì thế phần đông các thợ làm việc đều có gia đình tại quốc gia quê hương.
3. Một nước cấm người Kitô hữu cầu nguyện.
Những điều kiện sống ép buộc người không phải là hồi giáo ở Arabie Saoudite trong phạm vi tôn giáo thật điên khùng và phi lý. Không được quyền tỏ ra một dấu bề ngoài nào. Cấm chỉ thực hành bất cứ một việc phụng tự nào ngoài những việc của hồi giáo, cho dù là riêng tư. Quốc vương không cho các linh mục nhập cảnh, không cho đeo ảnh thánh giá, không cho đọc hay giữ sách Thánh Kinh, không được đem vào lãnh thổ một ảnh tượng hay tài liệu Kitô giáo.
Luật hồi giáo áp dụng cho mọi người, đàn bà Kitô giáo đi ra cũng phải trùm khăn, các tiệm thương mại buộc phải đóng cửa vào các giờ cầu nguyện. Cấm không được gọi điện thoại hay chăm chú làm việc công khai vào những giờ cầu nguyện. Trong thời gian ramadan có thể gặp rắc rối nếu ăn hay uống trước mặt một ngưòi hồi giáo.
Chính cảnh sát tôn giáo (muttawas) rình bắt những cách sống bất hợp pháp. Nếu tình cờ bắt được người Kitô hữu cầu nguyện, họ có thể bỏ tù hay trục xuất ngay khỏi vương quốc. Ngay ở sân bay, các viên chức quan thuế phải khám xét kỹ lưỡng những người ngoại quốc nhập bến xem có quần áo hay nữ trang mang màu sắc Kitô giáo, hoặc khám hành lý xem có giấu Sách Thánh hay không.
Tất cả những dấu hiệu thánh giá đều bị cấm chỉ, ngay trên dao Vitonox của Thụy Sĩ, trên đồng hồ Swatch … bó buộc phải xóa bỏ hay bị tịch thu. Vào thập niên 80, nhà cầm quyền Arabie Saoudite còn đòi Thuỵ sĩ phải bôi bỏ dấu chữ thập vẽ trên máy bay.
4. Vì muốn bảo vệ ‘đức hạnh’ (vertu) nên cấm không cho cử hành thánh lễ ( ! ).
Không chỉ tịch thu hàng hóa hay bắt đóng cửa tiệm trong các giờ cầu nguyện, cảnh sát tôn giáo còn lo giữ không cho làm nhơ bẩn ‘lãnh thổ wahhabite’ bằng việc cử hành Thánh Lễ hay đọc Sách Thánh. Những người tố cáo về những phi phạm này đều được phần thưởng khuyến khích. Vì thế, thật nghiệt ngã cho các tín hữu hay các linh mục lén lút vào vương quốc để thi hành mức tối thiểu công việc mục vụ. Các linh mục không được quyền dâng lễ trong các tòa đại sứ. Nơi và giờ lễ đều mang một bí số trong cộng đoàn. Các linh mục di chuyển ban đêm và thay đổi xe nhiều lần để tránh bị theo dõi.
Cảnh sát tôn giáo có thể xâm nhập bất cứ lúc nào, tịch thu các sách tôn giáo, đòi giáo dân ra hỏi cung, đề nghị trục xuất. Các linh mục có thể bị bắt giam. Ngoài ra còn có các cuộc tra hỏi tỉ mỉ và rất hách dịch.
5. Bị tù, bị đánh đòn và bị ép trở lại đạo Hồi.
Người truyền đạo, thường bị vu khống, sẽ bị bắt bỏ tù nhiều năm và còn bị hành nhục về thể xác nữa (thường đánh đòn). Ngày 13. 05. 2013, một tín hữu Liban bị kết án 6 năm tù và 300 roi đòn vì đã khuyên nhủ một thanh nữ Saoudienne trở lại Kitô giáo và bỏ xứ sở trốn sang Thụy Điển hầu khỏi bị án tử hình vì dám bỏ đạo Hồi. Một thanh niên Saoudien khác đã giúp cho một người đàn bà trẻ Saoudienne bỏ xứ sở và đi du lịch mà không có người bà con gần đồng hành, đã bị kết án hai năm tù và 200 roi đòn. Những hình phạt thể xác thường được thi hành trong một lúc.
Tại Arabie Saoudite, người ta không lấy việc trục các Kitô hữu làm đủ. Những Kitô hữu vi phạm luật pháp còn bị áp lực trở lại đạo Hồi. Những người đến lao động nghèo khổ dễ bị lôi cuốn và đe dọa như vậy. Đặc biệt khi xin gia hạn hộ chiếu để ở lại làm việc thêm, các Kitô hữu dễ bị quyến dũ và ép buộc theo đạo Hồi.
Vì thế, lôi kéo người khác đạo theo đạo Hồi là một bổn phận của mọi tín hữu Hồi giáo. Chính phủ đã dùng một ngân khoản lớn tiền bán dầu hỏa để chi vào công việc truyền đạo trên khắp thế giới. Liên minh Hồi giáo thế giới có trụ sở tại La Mecque, là một tổ chức phi chính phủ mà 1/2 ngân khoản chi tiêu hàng năm của họ là do Arabie Saoudite trợ cấp. Họ chủ tâm truyền đạo đi khắp nơi, đặc biệt tại Phi châu. Mục đích xử dụng ngân quỹ là xây Mosquée, mở trường học, in ấn và phổ biến các sách hồi giáo, giúp các tổ chức từ thiện. Họ trợ giúp đặc biệt các nhóm Hồi giáo bảo thủ để làm khó dễ các chính phủ địa phương.
6. Nhiều lần đã ‘yêu cầu khoan dung và mở rộng’, nhưng thất bại.
Sự bất khả khoan dung tôn giáo không đến từ hoàng gia cho bằng từ dân chúng. Chế độ quân chủ bị coi như đã lỗi thời đối với ngành cảnh cát tôn giáo được nhiều nhóm quá khích ủng hộ. Những nhóm này có thế lực tạo sức ép trên nhà cầm quyền và đòi hỏi hoàng gia phải tuân thủ các giáo điều của tiên tri Mahomét. Vì thế, nhiều lần hoàng gia tỏ ý muốn cởi mở và hòa dịu nhưng rồi, trong thực tế đã không tài nào thể hiện.
Năm 1970, vua Faysal ibn Abdul Aziz đã chấp thuận cấp hộ chiếu cho các linh mục và mục sư. Nhưng rồi tất cả đã bị trục xuất vào năm 1980. Năm 1997, nhân dịp viếng thăm tòa thánh Vatican, hoàng tử Ibn Abdullaziz, bộ trưởng bộ quốc phòng, tuyên bố những người không phải là Hồi giáo được tự do hành đạo của họ với điều kiện chỉ ở trong phạm vi tư nhân. Hai năm sau, một nhân vật thứ hai của chính phủ tuyên bố rằng những người Soaudiens không được cản ngăn việc hành đạo riêng tư của những người ngoài hồi giáo.
Tiếc thay những lời tuyên bố trên không hề có hiệu quả. Chính quyền cũng không ra một văn kiện nào cụ thể cho các công chức cũng như cho dân chúng biết.
Năm 2007, một phương án xây nhà thờ do Vatican đề nghị và vua Abdallah đã hứa sẽ nghiên cứu. Nhưng tất cả bị chặn lại bởi nhóm Mufti Anwar Ashiqi. Nhóm này tuyên bố chống lại phương án. Họ đặt điều kiện : « Chỉ có thể điều đình chính thức để xây một nhà thờ tại Arabie Saoudite sau khi Đức Giáo Hoàng và tất cả các Giáo Hội Kitô tuyên bố nhìn nhận tiên tri Mahomet ». Dầu vậy, Giáo Hội biết rõ : tại chỗ vẫn có một số hoạt động ‘hầm trú đáng thán phục’ mà một cách thật kín đáo mà tổ chức ‘Giúp Đỡ những Giáo Hội Lâm Nguy’ (AED) vẫn tài trợ.
7. Arabie Saoudite là chế độ quân chủ tuyệt đối dựa trên hệ Hồi giáo Wahhabite.
Hệ Hồi giáo này như thế nào ? Hệ wahhabisme là một giáo thuyết mới của Hồi Giáo. Người sáng lập là Abdal-wahhab, một người rất thông thạo về Hồi giáo Hanafite, tức là thuyết hồi giáo cực đoan. Ông quyết định thanh lọc Hồi giáo khỏi mọi đổi mới (tiếng ả rập : bida). Thí dụ việc đi viếng nghĩa trang là một ‘bida’ phải loại bỏ. Người ta không thể làm cái gì mà ông Mahomet và các đệ tử của ông đã không làm.
Chính đó là điều đã ký kết giữa những thành viên theo giáo thuyết Wahhab và ông hoàng Najd, cai trị vùng Trung Arabie, tức nước Arabie Soaudite ngày nay. Arabie Soaudite mang tên của gia đình Saoud. Giao ước này ký kết giữa triều đại nhà Saoud và phái hồi giáo Wahhabite cho đến ngày nay vẫn còn hiệu lực và những ông vua kế vị của nhà Saoud vẫn theo sát giáo lý của hệ Hồi giáo Wahhabite. Các luật pháp của nước Arabie Saoudite theo đúng giáo huấn cực đoan của thuyết wahhabisme.
8. Chính phủ dựa vào các nguyên tắc của luật Hồi giáo (charia).
Người ta phân biệt : 1) Sách Coran tức là sách thánh của Hồi giáo. 2) Hadiths là sách ghi những lời hay những việc làm của Mahomet. 3) Idjma hay Igma là những ý kiến hay tư tưởng đồng thuận và nhất trí của các nhà hồi giáo thông thái (oulémas). Charia là luật hồi giáo đã múc ra từ ba nguồn liệu trên.
Tất cả những người cư ngụ tại Arabie Saoudite đều phải tuân theo luật Charia, không ai có quyền chống đối, vì chống lại luật Charia là chống lại Hồi giáo. Ngay khi vừa tới phi trường, bạn sẽ được thông báo rằng ‘đến đây bạn phải cẩn thủ quy luật hồi giáo’. Tỉ dụ với tư cách là Kitô hữu nếu trong thời gian Ramadan, mà tôi cầm trong tay một chai nước ngọt, là tôi bị mọi người nhìn tôi với cặp mắt kỳ lạ và họ có thể đánh tôi. Tôi không thể ăn ở ngoài phố hay trong tiệm trong thời gian giữ chay. Người ta chỉ có thể ăn cách kín đáo trong nhà. Nghĩa là tôi phải giữ chay, cho dù tôi không phải là tín đồ hồi giáo. Vì đó là luật hồi giáo.
Nếu một Kitô hữu bị bắt bất ngờ có cỗ chuỗi hay ảnh thánh giá thì sao ?¸- Nếu ở trong túi thì không ai có thể nom thấy. Tuy nhiên nếu người ta nom thấy tôi đeo tràng hạt hay ảnh thánh giá, thì không chỉ là cảnh sát mà bất cứ một người hồi giáo nào cũng có quyền bắt tôi vứt bỏ đi. Hơn thế, tôi có thể bị bỏ tù hay trục xuất khỏi vương quốc.
Có những hoạt động khác khiến người Kiô hữu bị phạt vì lỗi luật Charia: Tất cả những bộc lộ cách công khai đức tin khác với đức tin hồi giáo đều đáng bị phạt. Họ biết rằng những người Mỹ, người Pháp, người Ý đều cử hành thánh lễ Noel và lễ Phục Sinh trong tòa đại sứ của họ, nhưng vì tòa đại sứ được coi như ‘nơi ngoài lãnh thổ’, không áp dụng luật hồi giáo. Dầu vậy cảnh sát tôn giáo vẫn canh chừng. Trong quốc vương không có nhà thờ, hội đường hay đền thờ ngoài ‘mốtkê’. Tất cả mọi biểu dương đức tin khác với đức tin hồi giáo đều bị cấm chỉ.
Chỉ Kitô hữu mới bị bách hại hay kỳ thị cách đặc biệt? – Không chỉ Kitô hữu, nhưng tất cả những người hồi giáo không theo phái wahhabites cũng bị vạ và kỳ thị, như hồi giáo Chìites hay Ismaélites. Ngay các cộng đoàn Kitô giáo cũng bị đối xử khác nhau: Kitô hữu Hoa Kỳ, Pháp, Ý hay Anh, vì thuộc những nước âu châu và kỹ nghệ thì ít bị ‘để ý’ hơn : là những cường quốc, nên khi có chuyện gì rắc rối, những nước này can thiệp mau lẹ để bênh vực công dân của họ. Tại Arabie Saoudite, công dân các nước nghèo như người Erythrée, Ấn Độ, Phi Luật Tân… bị xách nhiễu hơn cả. Nhưng những người lao động nghèo này cũng can đảm hơn cả…
9. Số người hồi giáo trở lại kitô giáo.
Không thể biết được. Rất khó đi sâu vào xã hội Saoudienne vì mọi hoạt động đều bị kiểm soát chặt chẽ. Điều chắc chắn là có những trường hợp trở lại. Nhiều người Saoudiens trở lại Kitô giáo và khi có dịp qua Ai Cập hay Algérie, họ đã nói trên đài, bày tỏ kinh nghiệm sống đức tin của họ. Dĩ nhiên họ không dám cho biết danh tánh. Họ xin các cộng đoàn Kitô giáo cầu nguyện cho họ và cho đồng bào Saoudien của họ mau được ơn đức tin. Nếu một người trở lại báo tin cho anh, chị hay em trong gia đình biết về đức tin mới của họ, họ liều mạng bị cáo là ‘phản bội gia đình’. Phản bội gia đình cũng là phản bội quốc gia, xã hội và hồi giáo… Lúc đó án đương nhiên của họ là bị ‘xử tử’…
10. Fatima, nữ tử đạo Saoudienne.
Không thể nào biết được con số những người trở lại Kitô giáo, sống trong thầm lặng vì sợ bị phát hiện. Những cuộc trở lại này thường do nghe truyền thanh, xem màn ảnh, đọc trên mạng lưới. Đó là trường hợp của cô Fatima, 26 tuổi. Cô bị ám sát chết bởi chính người anh ruột theo sự xúi dục của bà mẹ. Cô bị thiêu sống sau khi bị cắt lưỡi.
Trước khi bị hành nhục và giết chết dã man như vậy, cô Fatima đã để lại trên mạng lưới sứ điệp : «Xin sự bình an của Chúa chúng ta và của Chúa Giêsu Kitô tràn đầy nơi chúng ta. Tôi đang ở trong nỗi sao xuyến, vì cha mẹ tôi bắt đầu nghi kỵ tôi, sau một cuộc tranh luận về tôn giáo chiều hôm qua, với mẹ và các anh tôi. Không cầm mình được, tôi đã nổi cơn giận và nguyền rủa hồi giáo, vì lẽ tôi cảm thấy khó chịu phải sống trong một nước không hề có một tí tự do tôn giáo nào. Đại để tôi đã nói với mẹ và các anh tôi rằng : Đời sống của Chúa Giêsu gương mẫu trổi vượt hơn đời sống của Mahomet nhiều, đến độ không thể nào đưa ra một so sánh gì giữa hai người được. Cuộc tranh luận sôi nổi đến tầm mức anh tôi đã nói với tôi : «Không thống hối và rút lại những lời này, thì mày phạm tội lộng ngôn ! ». Tôi trả lời cho anh : «Vinh danh Thiên Chúa !». Từ đó anh tôi trở thành người đe dọa. Rồi tôi nhận được không biết bao nhiêu là lời nguyền rủa. Hai anh tôi tố cáo ‘chính mạng lưới đã làm tôi trật đường rầy về tâm lý và tôn giáo’… Sau đó chúng tôi đi đến nhà chú tôi, và khi trở về nhà lúc một giờ sáng, tôi thấy phòng tôi bị mở tung và chiếc máy ‘ordinateur portable’ của tôi bị biến mất. Sau 15 phút tìm kiếm, tôi thấy anh tôi đang giữ. Trong máy, tôi ghi những điều tôi suy nghĩ về Kitô giáo và đã ghi ảnh Thánh Giá. Tôi hỏi anh tại sao lấy máy của tôi. Anh trả lời rằng ‘vì máy anh hư nên anh cần máy tôi để nối lại… »
Anh nhìn tôi bằng cặp mắt đe dọa. Bấy giờ tôi cười với anh và lấy lại máy của tôi. Tôi trở về phòng tôi và tôi bị nhốt trong phòng cho đến bây giờ. Tôi giả thiết rằng anh đã đọc những suy nghĩ của tôi về Kitô giáo và chắc hẳn anh đã thấy hình Thánh Giá. Tôi tự hỏi : làm sao anh có thể vào phòng tôi ? Làm sao anh có chìa khóa, vì chìa khóa tôi vẫn giữ trong túi với tôi ? … Tôi sợ hãi, đã bốn tiếng đồng hồ tôi bị giam trong phòng. Thái độ của anh làm cho tôi mất hết tín nhiệm và những cái nhìn của anh làm tôi run sợ … Cầu nguyện cho tôi, tôi van nài… Chúa vẫn ở với tôi, Ngài là ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ ai nữa ? Tôi sẽ gỡ máy ra để không ai hoài nghi gì tôi nữa… »
II. TẠI CÁC NƯỚC KHÁC
Sau Arabie Saoudite, nơi Giáo Hội là ‘vô hình’, là ‘bí mật’, còn lại những nước khác nhỏ bé trên bán đảo : Yémen, Oman, Qatar, Emirats Arabes Unis, Koweit và Bahrein. Mỗi nước nhỏ này có một cách ứng xử và một chính trị hơi khác nhau đối với thiểu số Kitô hữu. Nước Arabie Saoudite lớn hơn các nước khác trên bán đảo, nhưng cũng là nước thù địch hơn đối với Kitô giáo. Trong sáu nước còn lại, Giáo Hội sinh hoạt kín đáo nhưng chính thức.
Như tại Arabie Saoudite, tất cả các Kitô hữu đều là ngoại quốc tạm trú trong các nước này vì lý do lao động nghề nghiệp. Những nước này kiến thiết trường kỳ kể từ khi dàu hỏa trở thành nguồn tài sản quan trọng trong lịch sử nhân loại.
Từ Koweit đến Yémen, các nước đều mở ra biển khơi. Đó là một thế giới khác quay về lục địa ngầm Indien và vượt lên trên các eo biển Malaisie.
Không kể Qatar wahhabite, những tiểu quốc này sống hồi giáo ít gò bó. Tuy nhiên cũng bảo thủ và trung thành với truyền thống. Nếu đôi khi các nước này đụng độ với người Tây phương, thì chính các nước Tây phương cũng làm phật ý họ nữa.
1. Émirats Arabes Unis : Chân trong bùn !
Theo Hiến pháp của liên bang thì Hồi giáo là tôn giáo chính thức của bảy tiểu bang (Emirats) đã liên hiệp thành Liên bang các Emirats Arabes. Hiến pháp của liên bang bảo đảm sự tự do phụng tự cho những người không-hồi giáo, miễn là họ không vi phạm luật pháp hay luân lý công cộng.
Tháng năm 2010, các Émirats đã thiết lập liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh trên cấp bậc đại sứ. Thành phố Abu Dhabi là nơi tọa lạc cơ sở đại diện tông tòa cho cả liên bang Émirats Arabes Unis, Yémen và Oman. Các gia đình hoàng tộc đã dâng đất xây cất các đền thờ Công Giáo, chính thống, arméniens và cả đền thờ tin lành.
Vào tháng 6.2011, sau bốn năm làm việc, nhà thờ chính tòa Chính Thống Nga đã được khánh thành tại thành phố Sharjah. Nhà thờ dâng kính thánh Philippê Tông Đồ, là nhà thờ đầu tiên trên bán đảo Ảrập có 5 thánh giá thiếp vàng sáng chói trên các nóc tròn. Để được phép xây cất một nơi phụng tự Kitô giáo, cần phải tránh đặt lộ liễu bên ngoài các biểu tượng. Giáo chủ Mouscou nhắc lại trên màn ảnh truyền thông rằng : « Biến cố quan trọng như vậy đối với cộng đồng địa phương đã được thực hiện là nhờ lòng quảng đại của đô đốc Sharjah, Sultan bin Muhammad».
Tuy nhiên, Liên bang Émirats Arabes Unis không phải là không trách móc các kitô hữu. Năm 1996, một Kitô hữu Liban, người trách nhiệm cao cấp trong một khách sạn quốc tế đã bị tuyên bố li dị và chịu 39 roi đòn vì đã thành hôn với một người nữ hồi giáo.
Đàng khác, tại Dubai, đất tặng để xây nhà thờ nằm ngay rẻo sông. Vào mùa mưa, các linh mục và giáo dân đều lội trong bùn nhơ.
2. Tiểu quốc Oman.
Nguồn luật pháp của tiểu quốc Oman là Charia và Hồi giáo là tôn giáo quốc gia. Tự do thực hành các tôn giáo khác được bảo đảm, miễn là phù hợp với truyền thống hồi giáo và không làm rối loạn trật tự công cộng. Tuy nhiên cấm chỉ việc in ấn các sách vở tôn giáo ngoài hồi giáo. Dầu vậy, chính quyền làm ngơ cho việc đưa sách báo tôn giáo từ ngoại quốc vào, sau khi đã kiểm soát.
Hình luật dự liệu phạt tù bất cứ ai dám nói phạm đến Thiên Chúa hay các ngôn sứ, hay xúc phạm đến hồi giáo. Khoản luật này đôi khi được sử dụng cách vô ý thức..
Trong tiểu quốc Oman có 4 xứ đạo và 26 địa điểm mục vụ được đảm nhiệm bởi 9 linh mục. Thánh lễ luôn đông người dự. Trong thập niên 80, tại nhà thờ Saint Pierre et Saint Paul, giáo dân đứng chen nhau cả ra đường phố. Vì thế, tiểu vương Qabus đã cho người Công Giáo đất để xây thêm nhà thờ mới. Ông còn tặng cây đàn Orgues vốn để trong hoàng cung.
Mấy tháng sau ngày khánh thành nhà thờ, cha Barnabé dòng Phanxicô, cha sở xứ đạo đã bày tỏ những lời thật cảm động : «Những cây đàn này đã 12 năm giữ trong hoàng cung. Chính tiểu vương đã gỡ ra đem đến nhà thờ và ráp lại như cũ. Hơn 7.000 giáo dân đã dự lễ đêm giáng Sinh trong ngôi nhà thờ mới này. Và tôi dám nói là chúng tôi rất đỗi vui mừng, nhiệt liệt ghi ơn… ».
Tuy nhiên không phải tất cả đều hoàn thiện. Người ta lưu ý rằng nhà thờ Chala nằm ở ngoại ô thủ đô, chỉ nằm trên một rẻo đất giữa nhiều đường xe giao nhau, tạo nên tiếng ồn nhộn nhạo thường trực và phiền hà khi cử hành phụng vụ…
3. Yémen : Kitô hữu nằm nằm trong thế kẹt giữa những tranh dành ảnh hưởng của các phe phái hồi giáo !
Yémen là một trường hợp khác thường trong vùng. Nước Anh đã kiểm soát nước này từ 1839 đến 1967, nhưng họ chỉ quan tâm đến cửa biển Aden, thủ đô, nằm về phía Nam Yémen thôi. Còn phía Bắc là nơi sinh sống của các bộ lạc và các chức sắc (imams) hồi giáo theo truyền thống, không chịu ảnh hưởng gì đáng kể của người Anh.
Tại Aden, nhiều nhà thờ mọc lên. Năm 1967, khi người Anh ra đi, người ta đếm được 22 nhà thờ. Nhưng cuối thế kỷ, chỉ còn sót lại mấy nhà thờ. Những vụ đụng độ thê thảm và tàn sát đã làm rung động cả nước sau khi quân anh rút lui.
Mới đây, năm 2011, trật tự và an ninh của nước này lại bị tan vỡ . Về miền Tây-Bắc hồi giáo Chiites đã nổi loạn chống lại hồi giáo Sunnite. Từ căng thẳng đến đụng độ, rồi giao chiến, nhóm nào cũng tăng cường các vụ phá hoại tai ác. Dân chúng nổi dậy chống lại vị tổng thống đã 33 năm tại chức. Tổng thống phải thoái vị với điều kiện được miễn tố. Tân tổng thống Abdo Rabbo Mansour Hadi, được bầu lên năm 2012, đang cố sức thống nhất và hòa giải xứ sở.
Những vụ đụng độ tàn ác là một đe dọa liên tục cho người kitô hữu. Linh mục Mattews, người Ấn Độ, cha sở của một xứ đạo tại Aden, thường xuyên bị người hồi giáo xỉ vả và đe dọa ‘giết chết’.
Tháng ba năm 2012, mạng lưới hồi giáo loan tin : « Nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa bên cạnh những moudjahidin, ông Joel Shrum, một người tích cực truyền giáo dưới chiêu bài giáo sư, đã bị giết ». Cha mẹ của giáo sư trẻ tuổi này quả quyết : «Giáo sư Joel đến Yémen để học tiếng ả rạp chứ không phải để truyền giáo ».
4. Qatar : hồi giáo wahhabisme mềm dẻo hơn.
Mặc dầu diện tích bé nhỏ, Qatar tạo được ảnh hưởng đáng kể đối với các nước khác trên bán đảo nhờ có nguồn lợi sung mãn. Hiến pháp của Qatar tuyên bố hồi giáo là tôn giáo của quốc gia và luật hồi giáo là nguồn chính yếu của luật pháp Qatar. Các tôn giáo thiểu số trong lãnh thổ đều có quy chế pháp lý và có quyền liên hệ và gặp gỡ giữa các tôn giáo. Vì thế Qatar đã tạo nên một bầu khí tương đối kính trọng quyền tự do tôn giáo.
Tại Qatar, mọi vấn đề thay đổi kể từ khi một tù trưởng (émir) trẻ tuổi đã phế bỏ thân phụ và nắm quyền cai trị. Các buổi cầu nguyện riêng tư được diễn tiến không có trở ngại. Đôi khi số người tham dự rất đông. Trong một vương quốc mà dân theo hồi giáo wahhabites giống như dân Arabie Saoudite, nhưng các linh mục lại có một quy chế được pháp luật công nhận và có thể cử hành nghi thức hôn phối và an táng.
Toà Thánh đã đạt được hiệp uớc đặt tòa khâm sứ và liên hệ ngoại giao ngay từ năm 1993. Sư kiện đó đã tạo cơ hội xây ngôi nhà thờ nguy nga tại thủ đô Doha. Chính nhà vua đã cho đất xây nhà thờ. Vì thế nhiều nhóm hồi giáo chỉ trích nhà vua.
Ngay thủ đô có bốn cơ sở phụng tự khác dành cho chính thống, Công Giáo, anh giáo và tin lành Luther.
5. Koweit : Những dự luật chống các Giáo Hội đều bị coi là phản hiến pháp.
Tại Koweit có từ 350.000 đến 400.000 Kitô hữu, mà 200.000 là Công Giáo. Đây là một nước mà người Kitô giáo sống thoải mái nhất trong vùng. Tuy nhiên vẫn có những chống đối từ phía hồi giáo quá khích hay bảo thủ, cản trở việc thi hành nhiều dự án ủng hộ người Kitô hữu. Thí dụ, Hội đồng thành phố Koweit đã hai lần từ chối , 27.10 và 03.12. 2010, đơn xin của bộ Ngoại Giao xây một nhà thờ mới cho cộng đoàn Melkite-Greco Công Giáo.
Ngày 16. 02. 2012, một nhóm chính trị đã phổ biến một đề nghị phá đổ hết các nhà thờ, nhà nguyện kitô giáo trên lãnh thổ. Nhưng sau cùng, đề nghị này biến thành đề nghị cấm xây thêm các nhà thờ mới. Những lời tuyên bố chống tôn giáo như trên bị dân chúng phản kháng và những nhà chính trị khác cho là ‘những đề nghị trái hiến pháp’. Vì hiến pháp Koweit bênh vực quyền tự do tôn giáo của mọi công dân và của mọi kiều dân cư ngụ tại vương quốc. Vì, theo hiến pháp 1962, thì hồi giáo là tôn giáo quốc gia và là ngưồn chính yếu của luật quốc gia. Nhưng khoản 35 quy định rằng : ‘Tự do lương tâm là tuyệt đối. Nhà nước có bổn phận che chở việc hành đạo đúng theo phong tục hiện hành, và với điều kiện không vi phạm trật tự và luân lý công cộng’.
Đây là nước đầu tiên trên bán đảo có liên hệ ngoại giao với Tòa Thánh. Koweit trao đổi cấp bậc đại sứ với Tòa Thánh từ 1968. Năm 1996, đức Hồng Y Jean-Louis Tauran, thứ trưởng bộ ngoại giao của Tòa Thánh, thời Đức Goan Phalô II, đã viếng thăm chính thức nước Koweit. Ngài được đón tiếp bởi tiểu vương Jaber al-Ahmed al-Sabah và đã dâng lễ tại nhà thờ chính tòa. Ngài đã gặp gỡ ‘một cộng đoàn 100.000 người Công Giáo vui hưởng quyền tự do tôn giáo, sống đức tin cách thoải mái. Mong có những liên hệ tốt như vậy tại các nước khác trên bán đảo, những nơi này, các kitô hữu chưa được hưởng quyền tự do tôn giáo như vậy’.
Rồi đến tháng 5. 2010, Đức Giáo Hoàng Benoit XVI tiếp kiến lần đầu tiên, tiểu vương Koweit, Cheikh Sabah al Ahmad al Sabah. Một trong những đề tài trao đổi giữa hai vị là ‘đối thoại tôn giáo’.
Cộng đồng Công Giáo dưới quyền quản nhiệm của đức tổng giám mục Camillo Ballin, đại diện tông tòa tại Koweit, Qatar, Arabie Saoudite và Bahreim. Tòa tổng giám mục đặt tại Koweit cho tới năm 2011, sau đó được chuyển tới nước Bahrein, vì những lý do thực tế thuận lợi . Đức tổng giám mục có 47 linh mục lo mục vụ cho giáo hữu rải rác trên 4 tiểu vương.
Tại Koweit, Giáo Hội có nhà thờ chính tòa ngay thủ đô dâng kính Thánh Gia, và 4 nhà thờ khác. Nhà thờ chính tòa nằm giữa lòng thành phố, trên khu đất rộng và đẹp do một tiểu vương tặng ban cách đây 50 năm, tức 1966. Vì được xây trên địa thế khang trang, nằm giữa thủ đô, nhà thờ chính toà đã là nguyên nhân cho nhiều lời phê bình, thậm chí nhóm hồi giáo muốn dịch nhà thờ chính toà đến chỗ khác, hay xây một nhà thờ mới thay thế. Nhưng Đức Giám Mục đã đặt một bảng ghi ơn bằng tiếng ảrập và tiếng anh, cám ơn và tôn vinh các tiểu vương đã đi trước và các tiểu vương đương nhiệm… vì lòng quảng đại vốn có nơi các ngài… Từ đó, báo chí không còn đặt vấn đề về khu đất xây nhà thờ chính tòa nữa.
Mỗi tuần có 46 thánh lễ cử hành trong nhà thờ chính toà, với 5 nghi thức phụng vụ và 12 ngôn ngữ khác nhau. Đây là một vấn đề thường xuyên xảy ra làm đau đầu cho linh mục quản nhiệm nhà thờ, nhất là vào những ngày lễ lớn. Đức Giám Mục nói rằng : ‘Nguồn lợi tinh thần của Giáo Hội Koweit là tại nhà thờ chính tòa, người ta tham dự đông đảo việc chầu mình thánh liên tục’.
Xứ đạo sầm uất thứ hai tại Koweit là nhà thờ xứ Almađi. Đây là nhà thờ cổ nhất tại Koweit. Khi đào để đặt móng nhà thờ, người ta đã tìm thấy một nền móng nhà thờ từ xa xưa. Trong nhà thờ có toà Đức Bà Arabie, được đức Piô XII làm phép và tôn vinh Đức Maria làm quan thày của bán đảo. Đức Giám Mục đã trao phó cho Đức Mẹ nhiều dự án mong được thực hiện trên tiểu vương này… Một số dự án mong được thực hiện tại Bahrein…
6. Bahrein : Một Giáo Hội hoạt động tích cực.
Bahrein chỉ có 1.200.000 dân cư mà 1/2 là người ngoại quốc và phần đông là gốc Á châu. Họ nhập cảnh để lao động. Tại đây chỉ có 6 linh mục lo cho 100.000 người Công Giáo. Như vậy người Công Giáo chiếm 8% dân số. Họ không được định cư, chỉ ở làm việc chừng 6, bảy năm rồi phải về nguyên quán. Dầu vậy, sinh hoạt cộng đoàn tương đối vững bền. Đàng khác, đa số giáo dân nghèo, vì họ làm việc với đồng lương thấp kém. Nhiều khi họ gặp những khó khăn về hành chánh, khiến các linh mục tốn nhiều thời gian giúp đỡ họ, đồng hành với họ …
Mục vụ của các linh mục rất sinh động, tinh thần liên đới của giáo dân thật tích cực và đáng thán phục. Nhờ thế mà Giáo Hội đã đầu tư vào công trình giáo dục : là mở một trường mẫu giáo thu nhận 140 em bé và một trường trung tiểu học với con số 1.200 học sinh. Đó là trường Thánh Tâm do các nữ tu Cát Minh-Tông Đồ (Carmélites Apostoliques) điều hành. Dòng gốc Ấn Độ và các nữ tu thuộc 24 quốc tịch khác nhau, làm việc với cả những người hồi giáo bản xứ, họ chiếm tới 20%. Về học sinh thì 70% là Công Giáo, còn lại là Ấn giáo, Phật giáo, Đạo giáo…
Giáo Hội Bahrein quan tâm nhiều đến vấn đề xã hội, như đi thăm viếng các tù nhân, giúp đỡ các bệnh nhân, đồng hành với những người gặp khó khăn đặc biệt, cấp cứu những trường hợp khẩn trương.. Nhờ những sáng kiến tông đồ từ thiện, Giáo Hội phát triển…
Một bằng chứng cụ thể: Đức tổng giám mục Ballin, đại diện tông tòa, kể lại rằng: “Bấy giờ tôi đang ở Koweit, tôi đã nhận được điện thoại của văn phòng bộ trưởng cho biết ‘Ông Bộ Trrưởng mong gặp tôi’. Tôi trở về Bahrein, đến ngay văn phòng của ông và tôi nhận được một niềm vui thật lớn: Ông Shaykh Ahmed Bin Ateytallah al Khalifa, bộ trưởng ‘theo dõi việc thực hiện các quyết định của nhà vua hay của chính phủ’, trao cho tôi ‘giấy chủ quyền một khu đất 9.000 mét vuông, trên đó có thể xây một nhà thờ mới’. Bằng khoán này ký ngày 11. 02, ngày lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức. Lập tức tôi nghĩ đến Đức Bà Arabie. Những lời cầu nguyện của chúng tôi đã được chấp nhận. Đức bà Arabie có nhiều khả năng làm phép lạ! Ông bộ trưởng mời tôi đi vào hoàng cung gặp vua Hamad bin Issa al-Khalifa với tất cả các chức sắc tôn giáo và còn nói thêm ‘tôi sẽ ngồi bên cạnh nhà vua vì là khách mời danh dự’. Như vậy, tôi có thể cám ơn nhà vua đã cho cộng đoàn Công Giáo khu đất xây nhà thờ mới’.
Nhà thờ mới này nằm vào trung tâm của bán đảo. Bahrein sát gần với Qatar và Arabie Saoudite và có thể đi bằng xe hơi, vì các nước nối nhau bằng những cây cầu tân tiến. Những Kitô hữu sống Arabie Saoudite có thể qua Bahrein mỗi cuối tuần, vừa để xả hơi, vừa có dịp dâng lễ, bày tỏ niềm tin cách thoải mái hơn ở Arabie Saoudite. Các nhà thờ khác đều chật ních, vì thế vấn đề khẩn trương là điều hành mục vụ thế nào để phục vụ tốt cho hơn 100.000 Kitô hữu lao động.
Giáo Hội ở Bahrein chỉ có 6 linh mục dòng Phanxicô (capucins) quốc tịch Ấn Độ, Li Băng và Phi Luật Tân. Nhà thờ Thánh Tâm chỉ đủ chỗ tối đa cho 1000 giáo dân, còn chừng 500 người khác phải đứng ở ngoài mà dự lễ. Mỗi cuối tuần, thứ sáu đến Chúa Nhật có 24 thánh lễ. Tại xứ này, thứ bảy được coi như ngày Chúa Nhật.
Vì thế việc xây ngôi nhà thờ mới thật cần thiết. Dự án, nhà thờ có thể đón 2600 tín hữu. Ngoài ra cần cơ sở để tổ chức các buổi cấm phòng và các khóa huấn luyện giáo dân trong cả bán đảo Arập. (1).
III. KITÔ HỮU BỊ ĐE DỌA KHẮP NƠI
Trong năm 2013, những hành động bạo lực chống Kitô giáo mỗi ngày một gia tăng trên thế giới, đã tạo nên một tình trạng đáng quan tâm và một bầu khí ngột ngạt. Theo bản thống kê quốc tế, trong năm qua, người Công Giáo, tin lành, chính thống và anh giáo, không những bị đe dọa mà còn bị bách hại. Mới đây, tổ chức ONG Portes Ouvertes đã cho biết, chỉ trong năm 2013, có 2.123 Kitô hữu bị sát hại vì niềm tin của họ. Con số này gần gấp đôi sánh với năm 2012: năm 2012 chỉ có 1.201 Kitô hữu bị thiệt mang. Tổ chức còn nói rõ: các Kitô hữu bị đe dọa và bách hại nhiều hơn cả là tại lục địa Phi châu và mấy nước Á Châu, đặc biệt tại Trung Đông. Hiện tình báo động rằng không phải khắp nơi đã có sự tự do tôn gáo.
Portes Ouvertes cho biết: Đứng đầu các nước ngược đãi Kitô hữu là Bắc Hàn đã 12 năm liên tiếp. Tại đó Kitô giáo bị coi như một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm đến từ sự đồi bại của Âu châu. Nhưng các tôn giáo khác cũng không được đánh giá cao hơn. Các tổ chức theo dõi tình hình này đặt tên cho năm 2013 là ‘mùa đông của Kitô giáo’. ‘Mùa đông Kitô giáo này’ bi đát nhất là tại các nước ‘mùa xuân Ảrập’, chẳng hạn tại Ai Cập đã có 492 nhà thờ bị phá hoại. Trong những cuộc cách mạng mùa xuân vừa qua, các cộng đoàn Kitô giáo không bị tấn công trực tiếp vì đức tin, nhưng một cách gián tiếp vi ‘thái độ trung lập’ của họ. Người Kitô giáo đứng vào thế kẹt giữa ‘chế độ cũ’ và các tổ chức hồi giáo ‘nắm được chính quyền’. Tại Syrie hiện nay, Kitô giáo là thiểu số với 5% dân số, nên theo ông Frédéric Pichon, tác giả cuốn ‘Maaloula, Du vieux avec du neuf’, thì nhiều Kitô hữu bị ép buộc trở lại hồi giáo, hay phải trả 35.000 dolars mỗi tháng để tiếp tục sống đức tin.
Phi châu cũng mỗi ngày một nguy hiểm cho các cộng đồng Kitô giáo: Các nhóm hồi giáo (được trợ cấp của những nước Ảrập nhiều dầu hỏa) không ngại tàn sát các Kitô hữu cách lạnh lùng, như ở Nigeria và Somalie mới đây. Chỉ trong một vụ đụng độ, 770 Kitô hữu Somali bị thiệt mạng.
Trước tình trạng bi đát này, nhiều Kitô hữu buộc lòng ra đi khỏi quê hương. Dĩ nhiên họ mất hết tài sản và không có ngày hẹn trở về. Ông Frédéric nhấn mạnh rằng đây là ‘cuộc diaspora Kitô giáo quan trọng trên thế giới hôm nay’.
Sau đây là danh sách 50 nước mà tại đó các Kitô hữu đang bị đe dọa và bách hại hơn cả trên thế giới: 1. Nord Corée – 2. Somalie – 3. Syrie – 4. Irak – 5. Afghanistan – 6. Arabie Saoudite – 7. Maldives – 8. Pakistan – 9. Iran – 10. Yémen – 11. Soudan – 12. Érythrée – 13. Libye – 14. Nigeria – 15. Ouzbékistan – 16. Centrafrique – 17. Éthiopie – 18. Vietnam – 19. Qatar – 20. Turkménistan – 21. Laos – 22. Égypte – 23. Birmanie – 24. Brunei – 25. Colombie – 26. Jordanie – 27. Oman – 28. Inde – 29. Sri Lanka – 30. Tunisie – 31. Bouthan – 32. Algérie – 33. Mali – 34. Terriolres – 35. Eau – 36. Mauritanie – 37. Chine – 38. Koweit – 39. Kazakhatan – 40. Malaisie – 41. Bahrein – 42. Comơres – 43. Kenya – 44. Maroc – 45. Tadjikitan – 46. Djibouti – 47. Indonésie – 48. Bangladesh – 49. Tanzania – 50. Niger.(2).
Lm Mai Đức Vinh
Ghi chú :
(1) Viết theo tài liệu của AED, 12.2013
(2) Báo Direct Matin, 10.01.2014.
Giải đáp phụng vụ: Linh mục cần biết tiếng Latinh ở mức độ nào để cử hành Thánh lễ Latinh?
Nguyễn Trọng Đa
21:44 10/06/2014
Giải đáp phụng vụ: Linh mục cần biết tiếng Latinh ở mức độ nào để cử hành Thánh lễ Latinh?
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Một số linh mục, đã chọn cử hành thánh lễ bằng tiếng Latinh trong giáo xứ mình, đã hiện diện tại một khóa học ở giáo hạt. Câu hỏi được đặt ra là: Sau một khóa học để chuẩn bị sử dụng tiếng Latinh, cần bao lâu để hiểu được những gì mình đang cầu nguyện? Câu trả lời là: không cần thiết hiểu những gì mình đọc, nhưng cần phát âm cho chính xác. Thưa cha, liệu một Thánh Lễ có là hợp lệ không, nếu vị cử hành không hiểu những gì mình đọc? - W. O., Worcester, Massachusetts, Mỹ.
Đáp: Có lẽ có nhiều cấp độ cho câu hỏi này: vấn đề về sự hiểu biết một bản văn để chu toàn một hành vi thật sự của việc thờ phượng, và vấn đề về yêu cầu tối thiểu của sự hợp lệ.
Trong khi chủ đề này đã không được xử lý sâu rộng trong các tài liệu huấn quyền, có hai tài liệu có thể giúp chúng tôi xây dựng một câu trả lời.
Tài liệu thứ nhất, trích từ huấn thị "Redemptionis Sacramentum”, nói đến hình thức thông thường của thánh lễ và sự đồng tế quốc tế. Tuy nhiên, nó cung cấp một nguyên tắc tổng quát liên quan đến sự hiểu biết một ngôn ngữ:
"113. Khi Thánh Lễ được nhiều linh mục đồng tế, Kinh Nguyện Thánh Thể phải được đọc trong ngôn ngữ mà tất cả các linh mục và dân chúng hiện diện trong buổi cử hành đều biết. Có thể xảy ra trường hợp, trong số các linh mục hiện diện, có vị không biết ngôn ngữ được dùng khi cử hành và không thể đọc các phần Kinh Nguyện Thánh Thể, dành riêng cho mình. Trong trường hợp này, các ngài không đồng tế, nhưng tốt hơn các ngài chỉ tham dự cử hành và mặc áo dành vào cung thánh, theo quy định" (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam)
Tài liệu thứ hai là từ một huấn thị của Ủy ban Ecclesia Dei, vốn giám sát hình thức ngoại thường và triển khai một số qui định trong tông thư "Summorum Pontificum" của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Về các yêu cầu cho linh mục, tài liệu nói:
"20 Liên quan đến vấn đề các yêu cầu cần thiết cho một linh mục đủ khả năng (idoneus) để cử hành thánh lễ trong hình thức ngoại thường (forma extraordinaria), có qui định như sau:
"a. Bất cứ linh mục Công Giáo nào không bị cản trở bởi Giáo Luật là được xem “đủ khả năng” (idoneus) cho việc cử hành Thánh Lễ trong hình thức ngoại thường (forma extraordinaria).
"b. Về việc sử dụng tiếng Latinh, một kiến thức cơ bản là cần thiết, để cho phép linh mục phát âm các từ ngữ một cách chính xác và hiểu ý nghĩa của chúng.
"c. Về kiến thức thực hiện nghi lễ, được cho là có đủ khả năng các linh mục nào tự trình diện mình thể để cử hành thánh lễ trong trong hình thức ngoại thường (forma extraordinaria), và đã từng cử hành trước đó".
Từ hai văn bản này, chúng ta có thể thấy rằng khả năng được cho là cần thiết chính là linh mục đọc được các từ ngữ và hiểu ý nghĩa của bản văn.
Điều này có nghĩa rằng linh mục có một sự hiểu biết tổng quát về những gì ngài đọc, nhưng không cần sự hiểu biết chuyên sâu về mọi sắc thái của ngữ pháp.
Đối với hình thức thông thường, một vị đồng tế cần ít nhất phát âm chính xác các phần mà mọi vị đọc. Ngay cả khi ngài chỉ hiểu viết chút ít ngôn ngữ của lễ cử hành, ngài đã hiểu các bản văn tương tự trong tiếng mẹ đẻ của mình, và thường có thể dõi theo. Như chỉ thị nói, nếu ngài thiếu kiến thức tối thiểu này, ngài không nên đồng tế.
Bởi vì không có đồng tế trong hình thức ngoại thường, trình độ hiểu biết tiếng Latin là phải cao hơn. Ví dụ, một linh mục sẽ có thể nắm bắt ý nghĩa chung của các kinh nguyện, bài đọc và kinh tiền tụng. Ngài cũng sẽ có thể sử dụng hình thức ngữ pháp chính xác cho các yếu tố biến đổi, chẳng hạn danh tánh của giáo hoàng, giám mục và các vị thánh trong ngày.
Nếu ngài có đủ kiến thức để phát âm một cách chính xác, nhưng ít tự tin hơn đối với các yếu tố khác, thì ngài vẫn cử hành thánh lễ, bằng cách chuẩn bị trước với sự trợ giúp của một bản dịch tốt. Nếu không, tốt hơn ngài nên đợi cho đến khi ngài có một mức độ tối thiểu về tiếng Latinh.
Vì vậy, chúng tôi có thể nói rằng trong ánh sáng của các tài liệu trên đây, nhưng cũng xét đến các cuộc thảo luận vấn đề giữa các nhà thần học, chúng tôi có thể nói rằng yêu cầu tối thiểu cho một Thánh Lễ hợp lệ là sự phát âm chính xác của các lời truyền phép, cùng với một sự hiểu biết chung về ý nghĩa của chúng. Người ta giả thiết rằng sự hiểu biết đúng đắn này đã có nơi mỗi linh mục.
Ngay cả ở đây, cách phát âm chính xác là không tuyệt đối, miễn là các sai lỗi hoặc sự thiếu sự rõ ràng trong cách đọc chữ không tạo ra một ý nghĩa mới. Ví dụ, một linh mục đã có một trở ngại phát âm do bệnh tật, vẫn có thể cử hành thánh lễ hợp lệ nếu ngài biết những gì ngài đang cố gắng đọc, nhưng ngài không thể phát âm rõ nó thôi. Trong các năm cuối đời, việc phát âm Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường khó hiểu đối với đa số, nhưng không ai nghi ngờ tính hợp lệ của thánh lễ Ngài cử hành.
Ngoài yêu cầu tối thiểu cho sự hợp lệ, phẩm giá và chất lượng của việc cử hành như là một hành vi thờ phượng đòi hỏi một sự hiểu biết đầy đủ về ngôn ngữ của lễ cử hành. Từ quan điểm bề ngoài và mục vụ, linh mục cần đủ khả năng để công bố bản văn, không chỉ phát âm một cách chính xác, nhưng có thể nhấn mạnh và dừng chút xíu ở nơi cần nhấn mạnh và cần dừng, nhằm truyền đạt ý nghĩa của bản văn như một kinh nguyện.
Việc công bố và hiều biết đúng đắn như thế cũng giúp linh mục và tín hữu đưa lời cầu nguyện đi vào tâm hồn mình, và cho phép nó thâm nhập và biến đổi cuộc đời của họ. (Zenit.org 10-6-2014)
Nguyễn Trọng Đa
Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô (LC), Khoa trưởng Thần học và giáo sư phụng vụ của Đại học Regina Apostolorum (Nữ Vương các Thánh Tông Đồ), Rôma.
Hỏi: Một số linh mục, đã chọn cử hành thánh lễ bằng tiếng Latinh trong giáo xứ mình, đã hiện diện tại một khóa học ở giáo hạt. Câu hỏi được đặt ra là: Sau một khóa học để chuẩn bị sử dụng tiếng Latinh, cần bao lâu để hiểu được những gì mình đang cầu nguyện? Câu trả lời là: không cần thiết hiểu những gì mình đọc, nhưng cần phát âm cho chính xác. Thưa cha, liệu một Thánh Lễ có là hợp lệ không, nếu vị cử hành không hiểu những gì mình đọc? - W. O., Worcester, Massachusetts, Mỹ.
Đáp: Có lẽ có nhiều cấp độ cho câu hỏi này: vấn đề về sự hiểu biết một bản văn để chu toàn một hành vi thật sự của việc thờ phượng, và vấn đề về yêu cầu tối thiểu của sự hợp lệ.
Trong khi chủ đề này đã không được xử lý sâu rộng trong các tài liệu huấn quyền, có hai tài liệu có thể giúp chúng tôi xây dựng một câu trả lời.
Tài liệu thứ nhất, trích từ huấn thị "Redemptionis Sacramentum”, nói đến hình thức thông thường của thánh lễ và sự đồng tế quốc tế. Tuy nhiên, nó cung cấp một nguyên tắc tổng quát liên quan đến sự hiểu biết một ngôn ngữ:
"113. Khi Thánh Lễ được nhiều linh mục đồng tế, Kinh Nguyện Thánh Thể phải được đọc trong ngôn ngữ mà tất cả các linh mục và dân chúng hiện diện trong buổi cử hành đều biết. Có thể xảy ra trường hợp, trong số các linh mục hiện diện, có vị không biết ngôn ngữ được dùng khi cử hành và không thể đọc các phần Kinh Nguyện Thánh Thể, dành riêng cho mình. Trong trường hợp này, các ngài không đồng tế, nhưng tốt hơn các ngài chỉ tham dự cử hành và mặc áo dành vào cung thánh, theo quy định" (Bản dịch Việt Ngữ của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam)
Tài liệu thứ hai là từ một huấn thị của Ủy ban Ecclesia Dei, vốn giám sát hình thức ngoại thường và triển khai một số qui định trong tông thư "Summorum Pontificum" của Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI. Về các yêu cầu cho linh mục, tài liệu nói:
"20 Liên quan đến vấn đề các yêu cầu cần thiết cho một linh mục đủ khả năng (idoneus) để cử hành thánh lễ trong hình thức ngoại thường (forma extraordinaria), có qui định như sau:
"a. Bất cứ linh mục Công Giáo nào không bị cản trở bởi Giáo Luật là được xem “đủ khả năng” (idoneus) cho việc cử hành Thánh Lễ trong hình thức ngoại thường (forma extraordinaria).
"b. Về việc sử dụng tiếng Latinh, một kiến thức cơ bản là cần thiết, để cho phép linh mục phát âm các từ ngữ một cách chính xác và hiểu ý nghĩa của chúng.
"c. Về kiến thức thực hiện nghi lễ, được cho là có đủ khả năng các linh mục nào tự trình diện mình thể để cử hành thánh lễ trong trong hình thức ngoại thường (forma extraordinaria), và đã từng cử hành trước đó".
Từ hai văn bản này, chúng ta có thể thấy rằng khả năng được cho là cần thiết chính là linh mục đọc được các từ ngữ và hiểu ý nghĩa của bản văn.
Điều này có nghĩa rằng linh mục có một sự hiểu biết tổng quát về những gì ngài đọc, nhưng không cần sự hiểu biết chuyên sâu về mọi sắc thái của ngữ pháp.
Đối với hình thức thông thường, một vị đồng tế cần ít nhất phát âm chính xác các phần mà mọi vị đọc. Ngay cả khi ngài chỉ hiểu viết chút ít ngôn ngữ của lễ cử hành, ngài đã hiểu các bản văn tương tự trong tiếng mẹ đẻ của mình, và thường có thể dõi theo. Như chỉ thị nói, nếu ngài thiếu kiến thức tối thiểu này, ngài không nên đồng tế.
Bởi vì không có đồng tế trong hình thức ngoại thường, trình độ hiểu biết tiếng Latin là phải cao hơn. Ví dụ, một linh mục sẽ có thể nắm bắt ý nghĩa chung của các kinh nguyện, bài đọc và kinh tiền tụng. Ngài cũng sẽ có thể sử dụng hình thức ngữ pháp chính xác cho các yếu tố biến đổi, chẳng hạn danh tánh của giáo hoàng, giám mục và các vị thánh trong ngày.
Nếu ngài có đủ kiến thức để phát âm một cách chính xác, nhưng ít tự tin hơn đối với các yếu tố khác, thì ngài vẫn cử hành thánh lễ, bằng cách chuẩn bị trước với sự trợ giúp của một bản dịch tốt. Nếu không, tốt hơn ngài nên đợi cho đến khi ngài có một mức độ tối thiểu về tiếng Latinh.
Vì vậy, chúng tôi có thể nói rằng trong ánh sáng của các tài liệu trên đây, nhưng cũng xét đến các cuộc thảo luận vấn đề giữa các nhà thần học, chúng tôi có thể nói rằng yêu cầu tối thiểu cho một Thánh Lễ hợp lệ là sự phát âm chính xác của các lời truyền phép, cùng với một sự hiểu biết chung về ý nghĩa của chúng. Người ta giả thiết rằng sự hiểu biết đúng đắn này đã có nơi mỗi linh mục.
Ngay cả ở đây, cách phát âm chính xác là không tuyệt đối, miễn là các sai lỗi hoặc sự thiếu sự rõ ràng trong cách đọc chữ không tạo ra một ý nghĩa mới. Ví dụ, một linh mục đã có một trở ngại phát âm do bệnh tật, vẫn có thể cử hành thánh lễ hợp lệ nếu ngài biết những gì ngài đang cố gắng đọc, nhưng ngài không thể phát âm rõ nó thôi. Trong các năm cuối đời, việc phát âm Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thường khó hiểu đối với đa số, nhưng không ai nghi ngờ tính hợp lệ của thánh lễ Ngài cử hành.
Ngoài yêu cầu tối thiểu cho sự hợp lệ, phẩm giá và chất lượng của việc cử hành như là một hành vi thờ phượng đòi hỏi một sự hiểu biết đầy đủ về ngôn ngữ của lễ cử hành. Từ quan điểm bề ngoài và mục vụ, linh mục cần đủ khả năng để công bố bản văn, không chỉ phát âm một cách chính xác, nhưng có thể nhấn mạnh và dừng chút xíu ở nơi cần nhấn mạnh và cần dừng, nhằm truyền đạt ý nghĩa của bản văn như một kinh nguyện.
Việc công bố và hiều biết đúng đắn như thế cũng giúp linh mục và tín hữu đưa lời cầu nguyện đi vào tâm hồn mình, và cho phép nó thâm nhập và biến đổi cuộc đời của họ. (Zenit.org 10-6-2014)
Nguyễn Trọng Đa
Nhật Ký Tâm Hồn của ĐGH Gioan XXIII
ĐGH Gioan XXIII
21:55 10/06/2014
Nhật Ký Tâm Hồn của ĐGH Gioan XXIII
1905 – 1914
BÍ THƯ CHO
Đức Cha RADINI TEDESCHINI
Năm 1905, Lm Roncalli không dự tĩnh tâm có giảng, nhưng tham gia cuộc hành hương Lộ Đức mà ngài còn nhắc mãi nhiều kỷ niệm đẹp. Dịp này ngài viếng các đền thánh khác ở Pháp, đặc biệt Paray le Monial là nơi Thánh Tâm hiện ra, và nhà thờ họ Ars.
Ba ngày (19–21/4/1905) trước khi về làm bí thư ngài tĩnh tâm tại ẩn cốc Camalules Frascati. Nhưng không ghi lại cảm tưởng – khi làm Giáo hoàng ngài có trở lại Frascati để thăm Đức Cha Pappalardo đang nằm điều trị tại bệnh viện. Đức Gioan XXIII có trở lại viếng ẩn cốc này và các vị tu sĩ nơi đây có đặt bia đá ghi dấu cuộc thăm viếng này và cuộc tĩnh tâm trước kia của ngài.
Năm 1906, thay vì tĩnh tâm, ngài dự cuộc hành hương Thánh địa do Đức Cha Radini cầm đầu (từ 19/9 đến 22/10).
Ngài có viết về Thánh địa, và được tờ Tiếng dội Bergamô, cũng như đặc san của Ủy ban hành hương Palestina và Lộ Đức đăng tải. Đây xin trích hai đoạn văn.
Tôi rời thành Cana và không quên làm một lời khấn và dâng lời nguyện chúc chân thành. Cana nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên, để minh chứng bản tính Thiên Chúa của Ngài. Cana với 1.300 dân đa số là Hồi giáo, còn lại là Hy Lạp ly khai, độ 50 người Công Giáo, và như đa số giáo dân ở Palestina, họ không tốt lắm, không sốt sắng mấy. Hôm nay có làm phép bàn thờ mới rất long trọng để ghi nhớ phép lạ đầu tiên, xin Chúa lôi kéo những kẻ xa lạ về hợp nhất trong một đức tin, sốt sắng và bền vững sống đời Kitô hữu (30/10).
TẠI GIÊRUSALEM, LỄ ĐẠI TRIỀU DO ĐGM RADINI TEDESCHI
Sau khi đối chiếu sự kinh hoàng của những phụ nữ xưa khi tảng đá đậy mộ bị đẩy sang bên, với cảm giác đau đớn bỡ ngỡ của anh em Công Giáo bốn phương trước cảnh mất trật tự của bao nhiêu người, bao nhiêu nghi lễ, bao nhiêu sự vật, tiếng nói, tín ngưỡng chống đối nhau quanh mộ thánh Chúa, Đức Cha đã kết thúc bằng lớn tiếng nài xin Chúa Kitô chiến thắng, hãy xuất hiện huy hoàng trên tảng đá của ngôi mộ này, không phải để đánh đuổi, nhưng để đoàn tụ gọi về, đặc biệt tại Giêrusalem này, tại Á Đông này, nơi các đồng bằng Nga sô, đến các vùng Phi châu, phải vang lên tiếng gọi về một ràn chiên với một chủ chăn… Đang khi đó, bao nhiêu con mắt, bao nhiêu trái tim của mọi người hiện diện như bị thôi miên, nghe kỹ từng lời của Đức Giám Mục, lòng mọi người cảm động đến tột độ, hoàn toàn có chung một tư tưởng với ngài để nguyện xin cho anh em ly khai trở về.
Làm gì mà lời ước nguyền hôm nay lại không biến thành sự thật với sự đóng góp đồng loạt của toàn thể Giáo Hội? Ngay lúc này chúng ta hãy nhận lấy và khai thác cái ước vọng đã được thốt lên cách đặc biệt hùng hồn hôm nay; tận nhân lực tri thiên mạng, Chúa sẽ kết thúc, và chắc chắn rằng lời Chúa Kitô sẽ được thể hiện, đặc biệt tại Giêrusalem này: “Một ràn chiên với một chủ chăn duy nhất” (4/10).
1907
TĨNH TÂM NĂM
MARTINEGO, 1-7/9
[24]
Từ lâu tôi chờ đợi ngày tĩnh tâm này và hôm nay tôi được yên trí. Tôi xem lại những lời dốc lòng xưa với những cảm giác ngày xưa. Đời sống tâm linh nổi bật với nhiều khuyết điểm của năm đầu trong đời linh mục, mà ba năm qua tôi không có giờ để nghĩ đến chính mình cho thật kỹ càng. Tâm hồn tôi như bị xâu xé vì bao nhiêu cái lo li ti và bất đắc dĩ, lắm lúc không đáng chi, nhưng nó cứ tới mãi, tới không thôi. Tôi cảm thấy cần cám ơn Chúa, không những vì Ngài đã không để tôi phạm tội trọng, mà còn vô vàn ơn Ngài ban tràn ngập hồn tôi, ơn thông thường có, ơn cao cả có, không đếm hết được. Thật là vô cùng, vô tả, độc nhất vô nhị! Nghĩ tới đã khích lệ tôi sốt sắng gấp đôi, với cuộc đời linh mục thực sự lành thánh mà tôi đã dốc quyết. Ôi Giêsu con đáp lại tiếng Chúa gọi phen này, phải chăng là phen cuối cùng, vì nào ai biết được ý Chúa định về cuộc sống mình ra sao? Con trở về trong đôi tay và cạnh trái tim từ ái Chúa.
Công việc làm bí thư cho ĐGM, và dạy chủng viện lấn chiếm hết cuộc sống tôi, cuộc sống trầm tư, cầu nguyện và học hỏi. Tôi như trở lại đời chủng sinh, và tôi muốn sống như thế. Xem lại tất cả những gì đã ghi lúc ở Đại chủng viện Rôma. Vẫn có những tư tưởng hữu ích và những cảm tưởng giá trị. Không cần thêm gì nhiều, đặc biệt không cần dốc lòng thêm, chỉ cần xét lương tâm đã thực hiện cách nào.
1. Việc tòa Giám mục vừa nhiều, vừa cấp bách đã khiến những việc đạo đức mất đi gần phân nửa. Cần phải đưa mỗi việc về lại vị trí của nó. Nhất định không chước giảm Nhật tụng. Kinh Sách và Kinh Sáng sẽ luôn đọc tối hôm trước. Nguyện ngắm trước khi dâng lễ bất cứ giá nào. Sau lễ, đọc các giờ nhỏ xong mới ra khỏi nhà thờ. Giờ ngủ phải được định rõ cho từng trường hợp, làm sao để mỗi việc có giờ riêng và đầy đủ cho nó. Cách chung thức dậy năm giờ rưỡi sáng; dù đi ngủ muộn gần 12 giờ đêm, vẫn còn sáu tiếng để ngủ kể cũng quá đủ.
2. Kỳ tĩnh tâm này, tôi thấy sốt sắng kính mến Thánh Thể và Thánh Tâm hơn. Hồi là chủng sinh, đó là tất cả sự tôn sùng của tôi, thì nay làm linh mục rồi vẫn phải thế, tôi phải tập trung tất cả vào sự tôn sùng ấy. Tác giả Le Tasse viết về linh hồn say mê Chúa rằng: “Tâm hồn này đi với Chúa, đến với Chúa và ở mãi với Ngài”. Đấy, đời tôi phải thế, luôn quay về với Thánh Thể. Viếng Thánh Thể sẽ không bao giờ bỏ, trái lại trong ngày nếu rảnh sẽ năng trở lại, dù để chào Chúa một cái thôi. Đối với Giêsu tôi phải ân cần ít nhất như đối với vị khách quí trong nhà. Tôn sùng Thánh Thể và Thánh Tâm sẽ gợi hứng cho cuộc sống, cho tư tưởng, tình cảm hành động, cho đến đỗi tôi chỉ sống trong đó và vì lòng tôn sùng đó thôi. Đặc biệt nhấn mạnh về sự dọn mình và cám ơn sau khi dâng lễ. Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, phải tĩnh tâm tháng, hoặc ngày nào thuận tiện liền đó, mỗi xế trưa phải cẩn thận xét mình riêng, sau khi đọc kinh Chiều.
3. Một trong các tật chính của tôi là chưa dùng thời giờ cho đúng mức. Vậy, đừng bao giờ mất đi một phút, ví dụ như để nói chuyện dong dài… Phải làm được nhiều việc trong thời gian kỷ lục. Sau khi ăn sáng là bắt tay vào việc ngay, giải quyết các việc theo bổn phận, thư từ v.v. Sau việc đó phải lo dọn bài dạy rất kỹ càng và dùng hết thời giờ. Báo chí sẽ coi ít, trong lúc chưa làm được việc gì khác, như khi đi dạo, tí chút sau bữa cơm, cách khoảng giữa hai công việc. Mỗi chiều, đặc biệt trước khi đi ngủ, sẽ đọc vài trang sách làm ích nhiều cho mình.
Nhiệm vụ bí thư của ĐGM đòi buộc tôi phải làm nhiều bổn phận nặng nề và phải để ý nhiều việc đặc thù. Tôi có bổn phận tôn kính ĐGM thật lòng, trong tư tưởng, cảm tình, hành động, khi ở riêng hoặc trước công chúng; bổn phận vâng lời hoàn toàn và đồng tâm nhất trí với ngài; bổn phận nêu gương về tư cách linh mục trước mặt mọi người; bổn phận bác ái niềm nở trong mọi lúc; rất cẩn thận trong lời nói, nói ít và nói hẳn hoi, biết thinh lặng, nhưng không cầu kỳ, không làm phiền ai, trái lại đối với mọi người phải đối xử cách ôn tồn, bình tĩnh, với cử chỉ, lời nói lịch thiệp, để đừng làm mất lòng một ai. Cố giữ lời Thánh Phaolô khuyên Titô: “Chính anh hãy làm gương về mặt đức hạnh” (Tt 2,7); tôi sẽ không quên lời Đức Thánh Cha Piô X, lúc ngài đến thăm ĐGM Bergamô đã nói với tôi: “Này cha Angelo, tôi tớ trung thành và khôn ngoan… đúng, khôn ngoan” (x. Mt 24,25). Dù người đời muốn nghĩ sao cũng “cứ mỉm cười và việc tốt cứ làm” (Gv 3,12). Chim sẻ líu lo mặc nó.
1909
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 19-25/9
[26]
1. Về đời sống cầu nguyện, không có gì thêm bớt trong lời dốc lòng như hai kỳ tĩnh tâm trước. Cứ phải nhận cùng một loại sơ suất, thật nhục, nhưng chịu vậy.
Sẽ vâng lời cha linh hướng để đi ngủ sớm hơn, để thức đúng năm giờ rưỡi sáng. Thức đúng giờ là điểm tốt cho trọn ngày. Tập thói quen đọc Nhật tụng trong nhà thờ, trước Thánh Thể.
2. Kỳ tĩnh tâm này, tôi thấy thích thú đọc Thánh Kinh, mấy hôm nay tôi đọc thư Thánh Phaolô. Tôi sẽ tiếp tục và lấy một đoạn Thánh Kinh, đặc biệt Tân ước để làm đề tài suy gẫm. Chiều tối, trước khi ngủ, sẽ đọc chậm rãi và sốt sắng một đoạn Sách Thánh.
3. Nhiều chuyện quá làm cho tôi bận rộn và mất bình tĩnh. Tuy sốt sắng lo tròn nhiệm vụ, nhưng không được mất sự ôn tồn, bình tĩnh. Tôi sẽ làm những gì phải làm. Cẩn thận không để vào phút chót mới làm việc chính yếu mà không thể bỏ qua.
4. Mấy hôm nay tôi dự định gia nhập Hiệp hội linh mục Thánh Tâm của giáo phận, mong sớm thực hiện ý định.
Gia nhập sẽ không thêm gì vào những điều tôi hứa cùng Chúa, tức “hoàn toàn phó thác trong tay Bề trên, không làm bất cứ gì có thể gây ảnh hưởng nơi người khác nhằm thủ lợi cho tôi”. Gia nhập sẽ khích lệ tôi giữ những gì đã dốc lòng, là nên thánh thực sự, làm gương cho bạn linh mục, đặc biệt đồng bạn trẻ. Gia nhập hội giúp tôi thêm tinh thần hoàn toàn vâng lời và khiêm nhường, không tìm ý mình, chỉ tìm ý Chúa trong mọi sự, qua ý của ĐGM. Xin Chúa và Đức Maria chúc lành cho sự dốc quyết này.
5. Không thêm nhưng hứa sẽ giữ điều đã dốc lòng từ trước, sau kỳ tĩnh tâm sẽ tổ chức lại đời sống, cách sao cho thấy có sự cải tiến.
Tôi hứa sẽ bớt về phần ăn, để nhắc tôi nhớ lời dốc lòng thêm tinh thần hãm mình, cũng để giữ thân xác vừa phải. Ăn ít đi sẽ có nhiều ích lợi. Chỉ ăn nửa phần, ít rượu nho và pha nhiều nước. Thấy cũng hơi quá, nhưng xin Chúa giúp con trung thành và mạnh sức giữ lời dốc lòng.
6. Năm sau, lễ trọng nhớ 300 năm phong thánh của Thánh Carôlô Bôrômêô ở Lombardia. Tôi dự định sẽ làm gì ở Bergamô để kính ngài, để làm sáng tỏ công đức hiển hách của vị Tổng Giám Mục mà ta có phận sự tri ân. Riêng tôi gắng học tư tưởng và tâm tình của thánh cả, năng cầu khẩn và noi gương ngài. Có lẽ, nhờ ơn Chúa, khi làm cho giáo sĩ để ý đến gương thánh Carôlô, sẽ gia tăng nơi họ tinh thần hăng say làm việc tông đồ, mức sống tinh thần của toàn giáo phận sẽ được tiến hơn. Tổ chức này đòi hỏi phải hy sinh, nhưng tôi sẵn sàng để kính Thánh Carôlô, và tin chắc rằng càng hy sinh càng đóng góp nhiều cho mục tiêu đã nhắm tới.
1910
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 2-8/10
[27]
1. Thêm một năm đã qua, năm đầy ơn thánh. Nhưng ít tiến bộ về đường lành thánh, khiến tôi xấu hổ hạ mình. Nhưng không nản chí. Tôi đọc lại từng chữ điều dốc lòng năm cũ, xin hứa lại sẽ trung thành chín chắn hơn trong việc đạo đức, ít chia trí vì làm nhiều công việc; bằng lòng với cái có thể đạt được. Trong mọi sự phải tỏ ra tế nhị, rất khiêm nhường vì mình là không, và thường xuyên phó thác cho Chúa vì Ngài là tất cả và làm được tất cả; kết hợp với Ngài tôi mới làm được đôi việc. Phải nhớ rằng Chúa để ý tất cả, từng lời tôi hãm mình không nói, hoặc hãm mình không nhìn xem, lời nguyện tắt, một cái thở ra không ai thấy. Cần chú ý đặt định mình trước mặt Chúa, Ngài thêm sức, khích lệ và làm cho tôi phấn khởi.
2. Chúa Giêsu đặc biệt soi sáng cho tôi trong kỳ tĩnh tâm này để tôi biết cần phải giữ cho tinh tuyền nguyên vẹn cụm từ “sensus fidei” (cảm thức đức tin) và cụm từ “sentire cum ecclesia” (đồng cảm với Hội Thánh). Chúa cho tôi thấy rõ hơn về sự khôn ngoan, thức thời và giá trị của những phương pháp mà các Đức Giáo Hoàng dùng để đặc biệt gìn giữ cho hàng giáo sĩ khỏi nhiễm độc do các thuyết sai lầm của thời đại, chúng rất khôn khéo xảo quyệt, cố đánh đổ nền tảng của giáo thuyết Công Giáo.
Những kinh nghiệm đó đây trong năm này, những mối lo âu rất lớn của Đức Thánh Cha, những lời kêu gọi của các vị chủ chăn cho tôi thấy rằng, ngọn gió của chủ nghĩa duy tân đang thổi cực mạnh chứ không phải thường thường như người ta tưởng, và nó có thể vật ngã và làm cho lạc hướng những kẻ ban đầu chỉ muốn cải tiến cho hợp thời sự đạo đức xa xưa của Giáo Hội. Nhiều người cả những người tốt, vô tình rơi vào chỗ nghi ngờ, và từ đó bị đưa sang sự lầm lạc. Tệ hại hơn nữa, là từ lãnh vực tư tưởng, người ta chuyển rất nhanh sang tính tự lập, tự do trong sự xét đoán mọi sự và mọi người.
Quì gối con tạ ơn Chúa đã gìn giữ con được an toàn giữa bao xáo động sôi sục của các bộ óc và miệng lưỡi.
Giữa lúc bao nhiêu người vấp ngã, tôi được ơn Chúa gìn giữ đến nay. Sự vấp ngã của người khác là lời cảnh cáo nhắc tôi cần kiểm soát tư tưởng, tâm tình, cảm giác, lời nói và tất cả những gì có thể làm cho tôi bị ngọn gió phá hoại ấy làm hỏng. Tôi phải luôn nhớ rằng Giáo Hội, đang mang trong mình một chân lý trẻ trung, một Chúa Kitô, người của mọi thời đại, giúp Giáo Hội cải tiến và cứu rỗi dân chúng mọi nơi và mọi thời, chứ không phải người đời cải tiến và cứu rỗi Giáo Hội đâu!
Kho tàng quý trọng nhất của tâm hồn tôi, là đức tin, đức tin lành thánh chân thực và đơn sơ mà tôi thừa hưởng của cha mẹ và tổ tiên của tôi, tôi sẽ thẳng nhặt với chính tôi để giữ đức tin được tinh tuyền không bị hư hỏng.
3. Do chức vụ nặng nề làm giáo sư chủng viện mà Bề trên giao phó, không những đòi tôi phải giữ đức tin vẹn tuyền mà còn phải cẩn thận khi giảng dạy các chủng sinh trẻ. Lời nói, hành vi của tôi phải chứng minh cho tinh thần liên kết chặt chẽ với Hội Thánh và Đức Giáo Hoàng, nên gương tốt cho chủng sinh và dẫn dắt cho họ cùng có tư tưởng như vậy. Tôi sẽ cẩn thận trong cách trình bày, chăm chú truyền thông tinh thần khiêm nhường và cầu nguyện trong các khoa học thánh, để giúp cho sự phán đoán được vững chắc và tâm hồn thêm quảng đại.
1911
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 1-7/10
[28]
1. Nhớ đến dĩ vãng, tôi vừa được khích lệ vừa xấu hổ. Tôi như đã bị trói tay chân để chỉ phục vụ Chúa Kitô trong sứ mạng lành thánh của Ngài. Tôi không nên tìm gì khác, cố gắng vui vẻ, bình tĩnh giữa bao thứ lo lắng, nhưng không thái quá hoặc bất cập, không dao động, hay quá lo nghĩ.
2. Phen này có lẽ chắc hơn, tôi muốn trung thành và tập trung trong việc đạo đức. Điều này rất cần đối với tôi. Đọc Kinh Sách và Kinh Sáng sau cơm tối. Năm giờ rưỡi sáng thức dậy, nguyện ngắm ngay, giúp lễ cho ĐGM và sau đó dâng lễ; cám ơn và đọc giờ nhỏ, sau giờ lớp viếng Thánh Thể, và viếng thêm lần nữa vào buổi chiều. Nghỉ trưa dậy là đọc kinh chiều, các việc khác có giờ riêng. Các việc trên phải giữ kỹ bằng mọi giá, khi nào sốt sắng hơn, cần gì nữa sẽ thêm sau.
Năm nay, tôi đã nhập hội linh mục chầu Thánh Thể. Tôi sẽ trung thành giữ giờ của tôi. Bình tĩnh trong mọi sự, trung thành và thật kỹ lưỡng.
3. Tôi xin lặp lại lời khấn trung thành đồng tâm nhất trí với Hội thánh và Đức Thánh Cha. Thánh Anphong trong ngày bối rối lo buồn đã nói: “Ý Giáo hoàng là ý Chúa”. Đây cũng là tôn chỉ lãnh đạo tư tưởng của tôi. Chúa ơi, xin bảo vệ, con chỉ muốn một Chúa tôi.
1912
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 13-19/10
[29]
1. Sắp đầy ba mươi hai tuổi. Nghĩ về dĩ vãng tôi hạ mình xấu hổ; nghĩ đến hiện tại tôi thấy khích lệ vì là thời kỳ thương xót; nghĩ tới tương lai tôi thấy được can đảm, vì có thể chuộc lại thời gian đã mất. Nhưng tương lai dài hay ngắn? Có thế rất ngắn. Nhưng dài hay ngắn, con xin lặp lại thời giờ là của Chúa.
2. Hiện không cần tìm hay thực hiện thêm cách làm việc lành nào mới, tôi chỉ sống trong sự vâng lời, và vì vâng lời tôi đã gánh bao nhiêu thứ việc gần rã vai. Tuy nhiên, nếu Chúa muốn thêm vẫn được, tôi sẵn lòng gánh vác. Lên trời sẽ nghỉ ngơi. Các năm sau này rất mệt nhọc. Đức Giám Mục làm gương, ngài làm việc còn nhiều hơn tôi. Tôi cẩn thận không để mất một phút.
3. Thật xấu hổ, nhưng phải dốc lòng lại, để trung tín hoàn toàn với luật sống. Thức dậy năm giờ rưỡi và nguyện ngắm, giúp lễ ĐGM và dâng lễ, cám ơn và đọc giờ nhỏ; năng viếng Mình Thánh đôi phút; sau cơm tối sẽ đọc Kinh Sách và Kinh sáng, không thay đổi; rồi viếng Thánh Thể lâu giờ hơn; đọc sách thiêng liêng trước khi đi ngủ. Đó là những điển hình, và cũng là tấm ván cứu tôi khỏi chết đuối.
Chúa ơi, con biết con yếu hèn, xin Chúa giúp con trung thành giữ chương trình sống này. Xin giúp con để năm sau khỏi phải xấu hổ nhận ra rằng con thất tín.
4. Vì phải tôn trọng giờ cơm và phải nghĩ tới bao nhiêu việc phải làm, nên ít nghĩ tới việc ăn và không mê thích được ăn ngon đến tham ăn. Tốt. Nhưng còn phải đi xa hơn nữa. Vì thể xác khốn hèn của tôi đang béo ra và nặng nề. Tôi cảm thấy rõ, và hiện đang mất duyên dáng uyển chuyển rất cần để làm việc; cần chế ngự thể xác nếu không nó sẽ sinh chứng: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng” (1Cr 9,27).
Rất cần ăn chậm, không nên ăn mạnh, cách chung ăn ít đi, tối ăn chút thôi. Việc uống cũng vậy. Cần hãm mình về miếng ăn.
5. Vào dịp lễ Thánh Carôlô, tôi sẽ dâng lên ĐGM của tôi những lời hứa giúp tôi nên linh mục theo Thánh Tâm Chúa. Tôi thú thật: tôi đã gặp những khó khăn có thể lay chuyển lời dốc quyết của tôi. Nhưng đó chỉ là sự đoán xét theo con mắt thế tục, và những khó khăn đó phần lớn do sự tự ái tạo nên. Tôi vui lòng đạp nó dưới chân, để quảng đại chạy đến nơi mà Chúa Giêsu gọi và cho biết là Chúa muốn tôi đến đó. Ai xét sao tùy ý, dù anh em giáo sĩ có xét đoán tôi ra sao cũng mặc. Chúa biết lòng tôi ngay thẳng và trong sạch. Tôi muốn ĐGM đóng ấn vào tờ dốc lòng của những năm đầu đời linh mục, để nói lên rằng tôi hoàn toàn tùy thuộc ĐGM trong mọi sự, dù là việc rất nhỏ mọn. Điều dốc lòng này, tôi muốn là một lời tuyên bố công khai trước mặt Giáo Hội, tôi muốn được coi như không ra gì, bị bỏ rơi, khinh bỉ vì tình yêu Chúa Giêsu, vì ích lợi cho các linh hồn, và tôi muốn sống nghèo mãi mãi, dứt khoát với mọi tước lộc, của cải trần gian.
Mấy hôm nay Chúa Giêsu lại cho tôi thấy rõ hơn nữa về tinh thần tận hiến rất cần cho tôi, cho sự thành công của đời linh mục, do đó qua hành vi tôi sẽ còn tỏ ra mình “là nô lệ, là người tù của Chúa Kitô” (Ep 6,6; 3,1). Vì Chúa và trong Chúa, đó là biểu hiện của mọi sinh hoạt của tôi trong năm tới; làm việc thật hăng say, nhưng không mong kết quả dù rất nhỏ. Sẽ hành động như mọi sự đều tùy ở tôi, nhưng bởi tôi không ra gì, cho nên khi có lệnh của Bề trên là tôi tập bỏ ngay, không tiếc hối. Ôi Giêsu; dự định thì quá nhiều, nhưng lại yếu đuối vì đầy tự ái; nhưng hoàn toàn thiện chí và vì yêu. Xin Chúa giúp con và bảo vệ con.
6. Vì quá biết rõ mình không ra gì, nên cần phải làm nảy nở đầy đủ tính dịu dàng, rất hiền lành, nhẫn nại và tha thứ đối với mọi người, trong cách cư xử và phán đoán. Mới vừa hơn ba mươi, đã thấy phần nào mệt mỏi, nóng tính. Thôi, thôi, cho tôi xin! Nếu mất bình tĩnh, tôi sẽ nghĩ ngay mình là không, và có phận vụ phải tìm hiểu mọi người, không được xét đoán ai là trái. Như vậy sẽ giúp tôi bình tĩnh hơn.
7. Bề trên vừa giao loại công tác tế nhị và nguy hiểm (Giáo sĩ phó I Hiệp hội phụ nữ Ý). Tôi dốc lòng ăn ở hiền lành, nghiêm trang, khiêm nhường quên con người của mình để mưu nhiều lợi ích thiêng liêng. Kinh nghiệm ngày qua khích lệ cho ngày tới. Nhưng để giữ mình, tôi cần coi mình không ra gì, không quá tự tin, nâng cao tư tưởng và sau giờ công tác trở về trong tay của Chúa Giêsu ngay. Trong công tác này nếu có giây phút nào tôi tự cao là mang họa vào mình.
8. Hiện nay người ta nói nhiều chuyện vô căn cứ. Nguyên tắc của tôi quyết theo là, yêu mến, vâng lời, liên kết chặt chẽ với Đức Thánh Cha, tránh tất cả những gì có thể làm giảm tinh thần trên, không nghe và nhất là không xía vào những chuyện vô căn cứ.
Còn lắm công tác phải làm, như Đức Piô X đã nói, ngài mở ra cánh đồng bao la để linh mục sốt sắng hoạt động, thật lạ, việc làm không hết, giờ đâu đi bàn chuyện tào lao chỉ xứng cho hạng làm báo. Tôi đứng ngoài và đứng trên mọi thứ chuyện đó, tôi thấy mình có nhiệm vụ, và lấy làm vinh dự để nói cái tốt của Đức Thánh Cha, của Tòa thánh, và truyền thông cho kẻ khác lòng yêu mến tôn sùng đối với ngài mà tôi đang có. Đặc biệt tôi sẽ huấn luyện chủng sinh về điểm này.
9. Xin lặp lại những lời tôi đã từng dốc quyết, vì những điểm mà tôi đã nhiều phen lặp lại, vẫn đáp ứng với nhu cầu của tình thế hiện nay.
Ngoài ra, cứ tiến đầy tin tưởng. Sống đạo đức thật sự đúng nghĩa thần học: sống hy sinh. Luôn luôn hiền lành, mau mắn, bình tĩnh trong mọi sự.
Xin Thánh Tâm, xin Mẹ Maria khả ái, các thánh bổn mạng, các Đấng thấy rõ những gì chất chứa trong lòng mà con không sao viết ra hết được, xin giúp con luôn can đảm, hiền lành, trung thành, và xin chúc phúc cho con. “Chúa ơi xin nhận tôi tớ Chúa, để con sống, và con không thất vọng khi mong chờ Chúa”.
1913
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGÔ, 19-25/10
[30]
1. Đây là lần thứ bảy tôi đến nơi thánh và đáng quí này để suy nghĩ về linh hồn tôi. Việc đầu tiên tôi vẫn phải làm là: chúc tụng Chúa đã tiếp tục thương yêu và gìn giữ tôi khỏi tội trọng, và cho tôi biết mình không ra gì.
Tưởng không có gì phải thêm vào những điều đã hứa và viết ra các năm trước. Chỉ thưa với Chúa: con sẵn sàng nhận tất cả, vui cũng như buồn. “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô sống, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21).
Tôi đã có ý định bớt công tác, và xin nhận cái gì hợp với khả năng. Nhưng tôi lại nhất định không làm thế. Bề trên biết rõ, thế là đủ, hơn nữa nếu không ai hỏi, tôi chẳng bao giờ tỏ ý mình thích việc này hơn việc nọ. Cha linh hướng hằng nói với tôi: “Ta cứ tiến tới, dầu là trong chiếc bị của Chúa Quan phòng”.
2. Phải chăng bảy năm qua là bảy năm được mùa đối với tôi, xét về phần Chúa. Và nếu bảy năm tới là bảy năm đói? Cũng đáng lắm, vì tôi đã không đáp ứng xứng với vô vàn ơn Chúa ban. Ấy vậy nếu có xảy ra cảnh đói khát để đền tội, có xảy ra sự muộn phiền, nhục nhã, đau đớn, tôi xin vui nhận, để minh chứng lòng này yêu Chúa Giêsu.
Xin hân hạnh và mê say cách lành thánh để nhận lấy tất cả những gì lớn bé, hằng ngày xảy ra nhằm làm nhục, để hạ bệ, để kiềm chế tính tự ái của tôi, tôi không có chút nào phản ứng, mà còn tỏ ra chút thích thú, như chiếc vỏ sò khô khan đang hứng sương trời để cải biến. Người ta nhục mạ tôi cách nào cũng được, miễn là mọi sự đều làm sáng danh Chúa, giúp ích thật sự cho tôi, và thánh hóa tinh thần tôi.
Phải cẩn thận, đừng bao giờ quên sự hèn mọn, bất xứng của mình, nếu có gì làm phiền tôi, lập tức tôi vui mừng tự nhủ rằng: “Mi làm nhục ta, như thế là làm ơn cho ta” (x. Tv 118,71).
3. Việc giữ lại và lặp lại những điều đã dốc lòng làm cho tôi e sợ. Thiện chí tôi không thiếu, nhưng giữ việc đạo đức cho điều hòa, là chuyện không bảo đảm, phần vì lắm công tác và chưa biết nó là thứ gì.
Dù sao, tôi vẫn chính thức và long trọng hứa với Maria Mẹ khả ái của tôi, là mỗi chiều, trong năm tới đây, tôi sẽ lần chuỗi Mân Côi. Trung thành với việc đạo đức này là điều nâng đỡ tôi rất nhiều, dù đôi khi tôi chỉ còn giờ để nguyện tắt. Mong rằng, sự tôi đặc biệt thề hứa với Mẹ hôm nay, sẽ được đền bù bằng sự Mẹ sẽ lấy đức khiết trinh của Mẹ mà bảo vệ tôi thật chặt chẽ trong nhiệm vụ đặc biệt khó khăn của tôi, và Mẹ cũng giúp tôi thực hiện các điều dốc lòng khác kể trên.
Nếu năm nay là năm cuối của đời tôi? Còn gì sung sướng hơn là được ra trình diện Mẹ tôi với tràng hoa Mân Côi chói ngời! Đó là giấy thông hành của tôi.
Xin Chúa nhận sự tự do của con dâng cho Chúa.
“Lạy Chúa, Chúa biết tất cả, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Ga 21,16)
1914
GIÁP MƯỜI LĂM LÀM LINH MỤC
(10/8/1904 – 10/8/1914)
[31]
Groppino, 10/8/1914
Tâm tôi hôm nay đầy hai nỗi niềm: một mối tình dịu dàng mãnh liệt và một sự bối rối thẹn thùng.
Mười năm qua, bao nhiêu ơn chung, ơn riêng qua các bí tích tôi đã ban hoặc đã nhận, qua bao việc tôi đã thi hành theo chức vụ: hoặc bằng lời nói hay bằng hành động, công khai hay một mình; ơn qua lời cầu nguyện, qua sự học hành, qua những thánh giá, những khó khăn dù rất nhỏ, qua những thành công như thất bại; qua những kinh nghiệm mỗi ngày càng dồi dào và quí báu nhờ giao tiếp với các Bề trên, với giáo sĩ, với nhiều người thuộc mọi bậc, mọi tuổi. Chúa Giêsu đã trung thành giữ lời hứa với tôi hôm lễ truyền chức trong đền Đức Mẹ trên Núi thánh: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu” (Ga 15,15). Chúa Giêsu đích thật là bạn đã mở toang nỗi thầm kín của Trái tim Ngài cho tôi. Chúa thấy, Chúa hiểu rằng con hết lòng mến Chúa, con nói thật. Trong cánh đồng đã cày bừa, đã gieo trồng, đã có vài bông lúa, tạm đủ để làm bó lúa bé dâng Chúa, xin Chúa nhận và chúc phúc, vì Chúa thương mới được vậy.
Riêng phần tôi, tôi xấu hổ vì đã không làm hơn được, gặt ít quá, bỏ đất khô khan hoang vu. Nếu các thánh mà được những ơn như tôi có, hay ít hơn, các thánh vẫn thánh hơn! Đang khi bao nhiêu tiếng gọi trong tôi, tôi đã từ chối không đáp lại! Lạy Chúa, con xin nhìn nhận sự yếu hèn, khốn cùng của con! Xin Chúa thương, tha thứ.
Lòng yêu mến và sự cần được tha thứ đã đem lại cho con tâm tình biết ơn Chúa. Chúa ơi mọi sự đã được thực hiện và sáng danh Chúa; xin cám ơn Chúa bây giờ và mãi mãi.
Một niềm vui khác tràn ngập hồn tôi; nhân ngày mười năm linh mục, là tôi chẳng thuộc về mình cũng không thuộc về ai khác; sống hay chết đều chỉ thuộc về một Chúa thôi. Phẩm chức linh mục và bao ơn lành đủ loại phủ ngập trong mười năm qua, đã giúp tôi biết mình là yếu hèn cùng cực, cần phải bỏ cái tôi, để dốc toàn lực vào một việc duy nhất là thiết lập nước Chúa Kitô thống trị trong tâm trí và trái tim mọi người một cách giản dị, không phô trương, cả đến phải chìm trong tăm tối, nhưng từ nay sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn trong các dự phóng, tư tưởng cũng như hành động.
Bản tính riêng của tôi, kinh nghiệm, tình thế đẩy đưa tôi vào công tác yên tĩnh, ôn hòa, cách xa các trận địa, không đấu bằng vũ khí hay bằng võ mồm. Tôi muốn nên thánh cách kín đáo, nếu không, những ai không có tính tình như tôi mà bắt chước kiểu của tôi, họ sẽ đi sai đường. Ôn hòa nhưng không đầu hàng tính tự ái, sự dễ dãi, yếu nhược trong tư tưởng, trong nguyên tắc, hoặc khiếp nhược khi hành động. Nụ cười trên môi che dấu sự chiến đấu trong tâm hồn, đôi khi quyết liệt với tính ích kỷ, và bao giờ tinh thần cũng phải thắng các đợt tấn công của tình cảm và tự ái, Chúa và anh em phải được phần hơn tôi.
Mười năm qua, ngày mai sẽ ra sao? Bí mật. Có khi không còn bao lâu là sẽ phải ra tòa Chúa phán xét. Xin Chúa cứ tự tiện đến rước con về. Nếu còn sống thêm ít năm, hay nhiều năm nữa, con muốn là những năm làm việc quyết liệt, với đức vâng lời lành thánh là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, không một tư tưởng nào đi ngoài sự vâng lời. Tự ái, lo xa, chỉ làm cản trở sự tiến triển của chương trình Đức Chúa Trời, và cũng không đem lại lợi ích vật chất nào cho tôi. Về điểm này, tôi phải cẩn thận hằng ngày, vì tôi đoán thế nào, vài năm nữa gần đây, tôi phải gặp trận chiến ác liệt với sự tự ái của tôi. Ai tiến, ai thắng mặc ai, tôi ở lại chỗ Chúa Quan phòng đặt để tôi, nhường đường trống cho kẻ khác tiến.
Tôi muốn được sự yên tĩnh là sự tự do của tôi; tôi sẽ năng nhớ đến bốn lời khuyên của sách Gương Phúc, bốn điều kiện để có sự an tĩnh và tự do thực thụ:
“1. Chú tâm làm theo ý kẻ khác hơn theo ý mình.
2. Luôn chọn cái kém, đừng chọn cái hơn.
3. Tìm chỗ rốt, dưới tất cả mọi người.
4. Hằng muốn và cầu xin ý Chúa được hoàn toàn thực hiện nơi con (x. Gp 3,23).
Với tâm trạng ấy, hôm nay con đến dâng lên Chúa chiếc bình quí báu là tâm hồn con đã được Chúa xức dầu thánh hóa. Xin đổ vào đó đầy sức mạnh mà Chúa đã từng dùng để thúc đẩy các thánh Tông đồ, Tử đạo, Hiển tu. Xin cho con nên hữu ích cho cái gì tốt, quảng đại, cao cả vì Chúa, vì Giáo Hội, vì các linh hồn. Con chỉ sống, chỉ muốn sống vì đó mà thôi.
Trong khi tôi ngồi ghi lại các tư tưởng sau một ngày lành thánh kỷ niệm mười năm linh mục, trong niềm cảm động êm đềm, thì cạnh bên tôi ĐGM khả kính đang nằm liệt giường sau nhiều ngày đau ốm; ngài đã sống tất cả cho tôi, cho Giáo Hội, cho Chúa Giêsu và Chúa Cha. Tôi đang đau khổ với ngài và vì ngài. Nếu đúng ý Chúa, xin Chúa mau chữa ngài khỏi bệnh, trả ngài lại cho việc Tông đồ, trả ngài lại cho Giáo Hội của Chúa, trả ngài lại cho những đoàn con đang quí yêu ngài.
Cơn đau đớn âm thầm và vui chịu của ĐGM đã xé nát lòng tôi, nhưng kinh hoàng hơn nữa là tiếng đồn về trận đại chiến đang tràn lan khắp Âu châu. Ôi Chúa Giêsu, con giơ tay linh mục của con lên Thánh Thể Chúa, và hết lòng sốt sắng lặp lại lời nguyện của Thánh Grêgôriô: “Lạy Chúa, xin cho chúng tôi được bình an trong những ngày ở trần gian”.
Và Giáo Hội giữa trận lụt! Xin Chúa cứu Giáo Hội. Đã mười năm qua, khi dâng lễ mở tay nơi mồ Thánh Phêrô – kỷ niệm rất êm đềm – con đã sốt sắng tưởng nhớ và cầu chúc cho Giáo Hội và Đức Thánh Cha, và qua mười năm con càng tưởng nhớ và cầu nguyện như trên.
Lạy Chúa, giữa cơn giông tố, giữa sự chống đối giữa các dân tộc, xin Chúa ban cho Hội thánh được sự “tự do, hiệp nhất và bình an”.
TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN BERGAMÔ
27/9-3/10
Giảng phòng L.M. Marelli, kế vị ĐGM Radini
[32]
1. Ngày 10 tháng 8 vừa qua, nhân giáp 10 năm linh mục, tôi đã nghĩ ngay đến giai đoạn hai cuộc đời linh mục của tôi, nhiều việc có thể và phải thay đổi.
Ý Chúa thật nhiệm mầu! Ngày 22 tháng 8, Chúa gọi Đức Cha khả kính về trời: và kìa trước mắt tôi một chân trời mới đột nhiên mở rộng.
Nhưng tôi không mất can đảm. Tuy đau buồn, tôi vẫn rất bình tĩnh và tinh thần rất vững. Chắc chắn, linh hồn cao cả lành thánh của đấng mà tôi hằng yêu mến tôn kính đang ở trên trời, hằng cầu bầu, chúc lành, bảo vệ và nâng đỡ tôi. Ôi, làm sao con theo ngài lên đó, chỉ khi Chúa thương ban cho con cái chết; trong khi chờ đợi con, sẽ bắt chước những việc lành thánh của ngài.
2. Hiện nay tôi chỉ thuần là giáo sư ở trong Đại chủng viện thôi, tuy nhiên việc mục vụ tôi vẫn tiếp tục. Từ nay tôi được sống yên tịnh dễ tập trung hơn, đúng như nguyện vọng. Đó là ơn mới Chúa ban. Cám ơn Chúa và tôi quyết dùng ơn này. Tôi mến căn phòng và sự yên tịnh để chuyên cầu nguyện và tra cứu.
3. Đặc biệt tôi hứa thức năm giờ rưỡi sáng. Lập tức sẽ nguyện ngắm ngay trong phòng, sau đó đến bàn thờ Thánh Micae để dâng lễ và đôi khi xưng tội. Không cần nhắc lại những chi tiết trong ngày, những lời dốc lòng cũ đã đủ.
4. Trong mọi sự tôi muốn nên gương mẫu, khi dạy học hay khi liên lạc với đức ông giám đốc chủng viện, với đồng nghiệp hay với chủng sinh học trò của tôi. Phải khiêm nhường đối với tất cả, cố giúp mọi người thông cảm nhau, nêu gương cho nhau, đó là điều quan trọng cho những ai cùng có chung trách nhiệm trong một cộng đoàn. Nhất là tôi sẽ không phàn nàn hoặc chỉ trích ai, vì biết rằng tôi sẽ không ở nơi nào tốt hơn là sống trong chủng viện.
5. Nỗi lo chính của tôi là, dù sao đi nữa, đối với Đức Giám Mục hiện tại, tôi vẫn cung kính, vâng lời, yêu mến chân thành và quảng đại vui vẻ, như nhờ ơn Chúa tôi đã sống với Đức Giám Mục quá cố. Về điểm này tôi phải làm gương, vì xác tín rằng phải nhìn nhận và tôn kính Chúa Giêsu trong con người của giám mục.
Dĩ nhiên không còn là bí thư, tôi phải có thái độ khác hơn, dù sao vẫn phải tỏ thái độ cung kính, dè dặt, thật tế nhị cách đơn sơ, bởi thật tình mến Chúa. Đối với tân giám mục tôi phải ăn ở cho người hài lòng và được khích lệ, tôi sẽ không đóng vai trò viên đá làm ngài vấp ngã, nhưng là viên đá cho ngài dùng mà xây nhà. Tôn kính mến yêu giám mục bằng lời nói và việc làm, tha thiết xin Chúa Giêsu cho con trung thành với lời hứa này bằng bất cứ giá nào.
6. Tôi cố tránh mọi nỗi lo âu cho tương lai, dù có ai nói hay cho tôi, dù có vẻ đứng đắn và chân thành, tâm hồn tôi cũng phải an tĩnh. Vì tôi sinh nghèo, sẽ chết nghèo, như trong dĩ vãng Chúa vẫn cho tôi dùng đủ, trong tương lai Chúa Quan phòng sẽ cứ thế và tùy nhu cầu mà ban thêm! Khốn cho tôi nếu tôi để lòng vương vấn của cải trần gian dù chỉ là những vật nhỏ mọn.
7. Những ý nghĩ thoáng qua về vinh dự, chức vụ trong tương lai, tôi phải bỏ đi ngay. Nó chỉ làm cho tôi mất sự an tĩnh của tâm hồn, bớt nghị lực làm việc, mất sự vui vẻ hồn nhiên và mất công phúc của những việc lành. Tôi phải khiêm nhường, khiêm nhường để Chúa định liệu những gì còn lại.
8. Tôi là linh mục của Thánh Tâm. Những điều hứa trên đây có ý nghĩa đặc biệt, liên quan đến những điều tôi hứa riêng với tư cách là hội viên của Hội linh mục Thánh Tâm. Tôi cố gắng tham gia với hết mọi sinh hoạt của Hội đã đón nhận tôi, trước là nêu gương cho anh em giáo sĩ, sau là làm cho Hội được danh tiếng và đạt được mục đích của Hội.
N.B Thứ tư vừa qua tôi phải tạm gián đoạn cuộc tĩnh tâm để đi Milan xin chỉ thị của Đức Hồng Y TGM Milan về cách tôi phải ứng xử với Đức tân Giám mục giáo phận, về một hai điểm.
Lần gặp gỡ này đã khích lệ và làm cho tôi vui vẻ lại. Tôi đã đến cầu nguyện rất lâu nơi mồ Thánh Carôlô, nơi đây tôi đã lặp lại lời hứa tận hiến toàn thân cho Chúa, “sống chết” vẫn dâng xác hồn trọn vẹn để phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và các linh hồn, hoàn toàn vâng ý Chúa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ hy sinh, bây giờ và mãi mãi. Amen.
1905 – 1914
BÍ THƯ CHO
Đức Cha RADINI TEDESCHINI
Năm 1905, Lm Roncalli không dự tĩnh tâm có giảng, nhưng tham gia cuộc hành hương Lộ Đức mà ngài còn nhắc mãi nhiều kỷ niệm đẹp. Dịp này ngài viếng các đền thánh khác ở Pháp, đặc biệt Paray le Monial là nơi Thánh Tâm hiện ra, và nhà thờ họ Ars.
Ba ngày (19–21/4/1905) trước khi về làm bí thư ngài tĩnh tâm tại ẩn cốc Camalules Frascati. Nhưng không ghi lại cảm tưởng – khi làm Giáo hoàng ngài có trở lại Frascati để thăm Đức Cha Pappalardo đang nằm điều trị tại bệnh viện. Đức Gioan XXIII có trở lại viếng ẩn cốc này và các vị tu sĩ nơi đây có đặt bia đá ghi dấu cuộc thăm viếng này và cuộc tĩnh tâm trước kia của ngài.
Năm 1906, thay vì tĩnh tâm, ngài dự cuộc hành hương Thánh địa do Đức Cha Radini cầm đầu (từ 19/9 đến 22/10).
Ngài có viết về Thánh địa, và được tờ Tiếng dội Bergamô, cũng như đặc san của Ủy ban hành hương Palestina và Lộ Đức đăng tải. Đây xin trích hai đoạn văn.
Tôi rời thành Cana và không quên làm một lời khấn và dâng lời nguyện chúc chân thành. Cana nơi Chúa làm phép lạ đầu tiên, để minh chứng bản tính Thiên Chúa của Ngài. Cana với 1.300 dân đa số là Hồi giáo, còn lại là Hy Lạp ly khai, độ 50 người Công Giáo, và như đa số giáo dân ở Palestina, họ không tốt lắm, không sốt sắng mấy. Hôm nay có làm phép bàn thờ mới rất long trọng để ghi nhớ phép lạ đầu tiên, xin Chúa lôi kéo những kẻ xa lạ về hợp nhất trong một đức tin, sốt sắng và bền vững sống đời Kitô hữu (30/10).
TẠI GIÊRUSALEM, LỄ ĐẠI TRIỀU DO ĐGM RADINI TEDESCHI
Sau khi đối chiếu sự kinh hoàng của những phụ nữ xưa khi tảng đá đậy mộ bị đẩy sang bên, với cảm giác đau đớn bỡ ngỡ của anh em Công Giáo bốn phương trước cảnh mất trật tự của bao nhiêu người, bao nhiêu nghi lễ, bao nhiêu sự vật, tiếng nói, tín ngưỡng chống đối nhau quanh mộ thánh Chúa, Đức Cha đã kết thúc bằng lớn tiếng nài xin Chúa Kitô chiến thắng, hãy xuất hiện huy hoàng trên tảng đá của ngôi mộ này, không phải để đánh đuổi, nhưng để đoàn tụ gọi về, đặc biệt tại Giêrusalem này, tại Á Đông này, nơi các đồng bằng Nga sô, đến các vùng Phi châu, phải vang lên tiếng gọi về một ràn chiên với một chủ chăn… Đang khi đó, bao nhiêu con mắt, bao nhiêu trái tim của mọi người hiện diện như bị thôi miên, nghe kỹ từng lời của Đức Giám Mục, lòng mọi người cảm động đến tột độ, hoàn toàn có chung một tư tưởng với ngài để nguyện xin cho anh em ly khai trở về.
Làm gì mà lời ước nguyền hôm nay lại không biến thành sự thật với sự đóng góp đồng loạt của toàn thể Giáo Hội? Ngay lúc này chúng ta hãy nhận lấy và khai thác cái ước vọng đã được thốt lên cách đặc biệt hùng hồn hôm nay; tận nhân lực tri thiên mạng, Chúa sẽ kết thúc, và chắc chắn rằng lời Chúa Kitô sẽ được thể hiện, đặc biệt tại Giêrusalem này: “Một ràn chiên với một chủ chăn duy nhất” (4/10).
1907
TĨNH TÂM NĂM
MARTINEGO, 1-7/9
[24]
Từ lâu tôi chờ đợi ngày tĩnh tâm này và hôm nay tôi được yên trí. Tôi xem lại những lời dốc lòng xưa với những cảm giác ngày xưa. Đời sống tâm linh nổi bật với nhiều khuyết điểm của năm đầu trong đời linh mục, mà ba năm qua tôi không có giờ để nghĩ đến chính mình cho thật kỹ càng. Tâm hồn tôi như bị xâu xé vì bao nhiêu cái lo li ti và bất đắc dĩ, lắm lúc không đáng chi, nhưng nó cứ tới mãi, tới không thôi. Tôi cảm thấy cần cám ơn Chúa, không những vì Ngài đã không để tôi phạm tội trọng, mà còn vô vàn ơn Ngài ban tràn ngập hồn tôi, ơn thông thường có, ơn cao cả có, không đếm hết được. Thật là vô cùng, vô tả, độc nhất vô nhị! Nghĩ tới đã khích lệ tôi sốt sắng gấp đôi, với cuộc đời linh mục thực sự lành thánh mà tôi đã dốc quyết. Ôi Giêsu con đáp lại tiếng Chúa gọi phen này, phải chăng là phen cuối cùng, vì nào ai biết được ý Chúa định về cuộc sống mình ra sao? Con trở về trong đôi tay và cạnh trái tim từ ái Chúa.
Công việc làm bí thư cho ĐGM, và dạy chủng viện lấn chiếm hết cuộc sống tôi, cuộc sống trầm tư, cầu nguyện và học hỏi. Tôi như trở lại đời chủng sinh, và tôi muốn sống như thế. Xem lại tất cả những gì đã ghi lúc ở Đại chủng viện Rôma. Vẫn có những tư tưởng hữu ích và những cảm tưởng giá trị. Không cần thêm gì nhiều, đặc biệt không cần dốc lòng thêm, chỉ cần xét lương tâm đã thực hiện cách nào.
1. Việc tòa Giám mục vừa nhiều, vừa cấp bách đã khiến những việc đạo đức mất đi gần phân nửa. Cần phải đưa mỗi việc về lại vị trí của nó. Nhất định không chước giảm Nhật tụng. Kinh Sách và Kinh Sáng sẽ luôn đọc tối hôm trước. Nguyện ngắm trước khi dâng lễ bất cứ giá nào. Sau lễ, đọc các giờ nhỏ xong mới ra khỏi nhà thờ. Giờ ngủ phải được định rõ cho từng trường hợp, làm sao để mỗi việc có giờ riêng và đầy đủ cho nó. Cách chung thức dậy năm giờ rưỡi sáng; dù đi ngủ muộn gần 12 giờ đêm, vẫn còn sáu tiếng để ngủ kể cũng quá đủ.
2. Kỳ tĩnh tâm này, tôi thấy sốt sắng kính mến Thánh Thể và Thánh Tâm hơn. Hồi là chủng sinh, đó là tất cả sự tôn sùng của tôi, thì nay làm linh mục rồi vẫn phải thế, tôi phải tập trung tất cả vào sự tôn sùng ấy. Tác giả Le Tasse viết về linh hồn say mê Chúa rằng: “Tâm hồn này đi với Chúa, đến với Chúa và ở mãi với Ngài”. Đấy, đời tôi phải thế, luôn quay về với Thánh Thể. Viếng Thánh Thể sẽ không bao giờ bỏ, trái lại trong ngày nếu rảnh sẽ năng trở lại, dù để chào Chúa một cái thôi. Đối với Giêsu tôi phải ân cần ít nhất như đối với vị khách quí trong nhà. Tôn sùng Thánh Thể và Thánh Tâm sẽ gợi hứng cho cuộc sống, cho tư tưởng, tình cảm hành động, cho đến đỗi tôi chỉ sống trong đó và vì lòng tôn sùng đó thôi. Đặc biệt nhấn mạnh về sự dọn mình và cám ơn sau khi dâng lễ. Mỗi Chúa Nhật đầu tháng, phải tĩnh tâm tháng, hoặc ngày nào thuận tiện liền đó, mỗi xế trưa phải cẩn thận xét mình riêng, sau khi đọc kinh Chiều.
3. Một trong các tật chính của tôi là chưa dùng thời giờ cho đúng mức. Vậy, đừng bao giờ mất đi một phút, ví dụ như để nói chuyện dong dài… Phải làm được nhiều việc trong thời gian kỷ lục. Sau khi ăn sáng là bắt tay vào việc ngay, giải quyết các việc theo bổn phận, thư từ v.v. Sau việc đó phải lo dọn bài dạy rất kỹ càng và dùng hết thời giờ. Báo chí sẽ coi ít, trong lúc chưa làm được việc gì khác, như khi đi dạo, tí chút sau bữa cơm, cách khoảng giữa hai công việc. Mỗi chiều, đặc biệt trước khi đi ngủ, sẽ đọc vài trang sách làm ích nhiều cho mình.
Nhiệm vụ bí thư của ĐGM đòi buộc tôi phải làm nhiều bổn phận nặng nề và phải để ý nhiều việc đặc thù. Tôi có bổn phận tôn kính ĐGM thật lòng, trong tư tưởng, cảm tình, hành động, khi ở riêng hoặc trước công chúng; bổn phận vâng lời hoàn toàn và đồng tâm nhất trí với ngài; bổn phận nêu gương về tư cách linh mục trước mặt mọi người; bổn phận bác ái niềm nở trong mọi lúc; rất cẩn thận trong lời nói, nói ít và nói hẳn hoi, biết thinh lặng, nhưng không cầu kỳ, không làm phiền ai, trái lại đối với mọi người phải đối xử cách ôn tồn, bình tĩnh, với cử chỉ, lời nói lịch thiệp, để đừng làm mất lòng một ai. Cố giữ lời Thánh Phaolô khuyên Titô: “Chính anh hãy làm gương về mặt đức hạnh” (Tt 2,7); tôi sẽ không quên lời Đức Thánh Cha Piô X, lúc ngài đến thăm ĐGM Bergamô đã nói với tôi: “Này cha Angelo, tôi tớ trung thành và khôn ngoan… đúng, khôn ngoan” (x. Mt 24,25). Dù người đời muốn nghĩ sao cũng “cứ mỉm cười và việc tốt cứ làm” (Gv 3,12). Chim sẻ líu lo mặc nó.
1909
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 19-25/9
[26]
1. Về đời sống cầu nguyện, không có gì thêm bớt trong lời dốc lòng như hai kỳ tĩnh tâm trước. Cứ phải nhận cùng một loại sơ suất, thật nhục, nhưng chịu vậy.
Sẽ vâng lời cha linh hướng để đi ngủ sớm hơn, để thức đúng năm giờ rưỡi sáng. Thức đúng giờ là điểm tốt cho trọn ngày. Tập thói quen đọc Nhật tụng trong nhà thờ, trước Thánh Thể.
2. Kỳ tĩnh tâm này, tôi thấy thích thú đọc Thánh Kinh, mấy hôm nay tôi đọc thư Thánh Phaolô. Tôi sẽ tiếp tục và lấy một đoạn Thánh Kinh, đặc biệt Tân ước để làm đề tài suy gẫm. Chiều tối, trước khi ngủ, sẽ đọc chậm rãi và sốt sắng một đoạn Sách Thánh.
3. Nhiều chuyện quá làm cho tôi bận rộn và mất bình tĩnh. Tuy sốt sắng lo tròn nhiệm vụ, nhưng không được mất sự ôn tồn, bình tĩnh. Tôi sẽ làm những gì phải làm. Cẩn thận không để vào phút chót mới làm việc chính yếu mà không thể bỏ qua.
4. Mấy hôm nay tôi dự định gia nhập Hiệp hội linh mục Thánh Tâm của giáo phận, mong sớm thực hiện ý định.
Gia nhập sẽ không thêm gì vào những điều tôi hứa cùng Chúa, tức “hoàn toàn phó thác trong tay Bề trên, không làm bất cứ gì có thể gây ảnh hưởng nơi người khác nhằm thủ lợi cho tôi”. Gia nhập sẽ khích lệ tôi giữ những gì đã dốc lòng, là nên thánh thực sự, làm gương cho bạn linh mục, đặc biệt đồng bạn trẻ. Gia nhập hội giúp tôi thêm tinh thần hoàn toàn vâng lời và khiêm nhường, không tìm ý mình, chỉ tìm ý Chúa trong mọi sự, qua ý của ĐGM. Xin Chúa và Đức Maria chúc lành cho sự dốc quyết này.
5. Không thêm nhưng hứa sẽ giữ điều đã dốc lòng từ trước, sau kỳ tĩnh tâm sẽ tổ chức lại đời sống, cách sao cho thấy có sự cải tiến.
Tôi hứa sẽ bớt về phần ăn, để nhắc tôi nhớ lời dốc lòng thêm tinh thần hãm mình, cũng để giữ thân xác vừa phải. Ăn ít đi sẽ có nhiều ích lợi. Chỉ ăn nửa phần, ít rượu nho và pha nhiều nước. Thấy cũng hơi quá, nhưng xin Chúa giúp con trung thành và mạnh sức giữ lời dốc lòng.
6. Năm sau, lễ trọng nhớ 300 năm phong thánh của Thánh Carôlô Bôrômêô ở Lombardia. Tôi dự định sẽ làm gì ở Bergamô để kính ngài, để làm sáng tỏ công đức hiển hách của vị Tổng Giám Mục mà ta có phận sự tri ân. Riêng tôi gắng học tư tưởng và tâm tình của thánh cả, năng cầu khẩn và noi gương ngài. Có lẽ, nhờ ơn Chúa, khi làm cho giáo sĩ để ý đến gương thánh Carôlô, sẽ gia tăng nơi họ tinh thần hăng say làm việc tông đồ, mức sống tinh thần của toàn giáo phận sẽ được tiến hơn. Tổ chức này đòi hỏi phải hy sinh, nhưng tôi sẵn sàng để kính Thánh Carôlô, và tin chắc rằng càng hy sinh càng đóng góp nhiều cho mục tiêu đã nhắm tới.
1910
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 2-8/10
[27]
1. Thêm một năm đã qua, năm đầy ơn thánh. Nhưng ít tiến bộ về đường lành thánh, khiến tôi xấu hổ hạ mình. Nhưng không nản chí. Tôi đọc lại từng chữ điều dốc lòng năm cũ, xin hứa lại sẽ trung thành chín chắn hơn trong việc đạo đức, ít chia trí vì làm nhiều công việc; bằng lòng với cái có thể đạt được. Trong mọi sự phải tỏ ra tế nhị, rất khiêm nhường vì mình là không, và thường xuyên phó thác cho Chúa vì Ngài là tất cả và làm được tất cả; kết hợp với Ngài tôi mới làm được đôi việc. Phải nhớ rằng Chúa để ý tất cả, từng lời tôi hãm mình không nói, hoặc hãm mình không nhìn xem, lời nguyện tắt, một cái thở ra không ai thấy. Cần chú ý đặt định mình trước mặt Chúa, Ngài thêm sức, khích lệ và làm cho tôi phấn khởi.
2. Chúa Giêsu đặc biệt soi sáng cho tôi trong kỳ tĩnh tâm này để tôi biết cần phải giữ cho tinh tuyền nguyên vẹn cụm từ “sensus fidei” (cảm thức đức tin) và cụm từ “sentire cum ecclesia” (đồng cảm với Hội Thánh). Chúa cho tôi thấy rõ hơn về sự khôn ngoan, thức thời và giá trị của những phương pháp mà các Đức Giáo Hoàng dùng để đặc biệt gìn giữ cho hàng giáo sĩ khỏi nhiễm độc do các thuyết sai lầm của thời đại, chúng rất khôn khéo xảo quyệt, cố đánh đổ nền tảng của giáo thuyết Công Giáo.
Những kinh nghiệm đó đây trong năm này, những mối lo âu rất lớn của Đức Thánh Cha, những lời kêu gọi của các vị chủ chăn cho tôi thấy rằng, ngọn gió của chủ nghĩa duy tân đang thổi cực mạnh chứ không phải thường thường như người ta tưởng, và nó có thể vật ngã và làm cho lạc hướng những kẻ ban đầu chỉ muốn cải tiến cho hợp thời sự đạo đức xa xưa của Giáo Hội. Nhiều người cả những người tốt, vô tình rơi vào chỗ nghi ngờ, và từ đó bị đưa sang sự lầm lạc. Tệ hại hơn nữa, là từ lãnh vực tư tưởng, người ta chuyển rất nhanh sang tính tự lập, tự do trong sự xét đoán mọi sự và mọi người.
Quì gối con tạ ơn Chúa đã gìn giữ con được an toàn giữa bao xáo động sôi sục của các bộ óc và miệng lưỡi.
Giữa lúc bao nhiêu người vấp ngã, tôi được ơn Chúa gìn giữ đến nay. Sự vấp ngã của người khác là lời cảnh cáo nhắc tôi cần kiểm soát tư tưởng, tâm tình, cảm giác, lời nói và tất cả những gì có thể làm cho tôi bị ngọn gió phá hoại ấy làm hỏng. Tôi phải luôn nhớ rằng Giáo Hội, đang mang trong mình một chân lý trẻ trung, một Chúa Kitô, người của mọi thời đại, giúp Giáo Hội cải tiến và cứu rỗi dân chúng mọi nơi và mọi thời, chứ không phải người đời cải tiến và cứu rỗi Giáo Hội đâu!
Kho tàng quý trọng nhất của tâm hồn tôi, là đức tin, đức tin lành thánh chân thực và đơn sơ mà tôi thừa hưởng của cha mẹ và tổ tiên của tôi, tôi sẽ thẳng nhặt với chính tôi để giữ đức tin được tinh tuyền không bị hư hỏng.
3. Do chức vụ nặng nề làm giáo sư chủng viện mà Bề trên giao phó, không những đòi tôi phải giữ đức tin vẹn tuyền mà còn phải cẩn thận khi giảng dạy các chủng sinh trẻ. Lời nói, hành vi của tôi phải chứng minh cho tinh thần liên kết chặt chẽ với Hội Thánh và Đức Giáo Hoàng, nên gương tốt cho chủng sinh và dẫn dắt cho họ cùng có tư tưởng như vậy. Tôi sẽ cẩn thận trong cách trình bày, chăm chú truyền thông tinh thần khiêm nhường và cầu nguyện trong các khoa học thánh, để giúp cho sự phán đoán được vững chắc và tâm hồn thêm quảng đại.
1911
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 1-7/10
[28]
1. Nhớ đến dĩ vãng, tôi vừa được khích lệ vừa xấu hổ. Tôi như đã bị trói tay chân để chỉ phục vụ Chúa Kitô trong sứ mạng lành thánh của Ngài. Tôi không nên tìm gì khác, cố gắng vui vẻ, bình tĩnh giữa bao thứ lo lắng, nhưng không thái quá hoặc bất cập, không dao động, hay quá lo nghĩ.
2. Phen này có lẽ chắc hơn, tôi muốn trung thành và tập trung trong việc đạo đức. Điều này rất cần đối với tôi. Đọc Kinh Sách và Kinh Sáng sau cơm tối. Năm giờ rưỡi sáng thức dậy, nguyện ngắm ngay, giúp lễ cho ĐGM và sau đó dâng lễ; cám ơn và đọc giờ nhỏ, sau giờ lớp viếng Thánh Thể, và viếng thêm lần nữa vào buổi chiều. Nghỉ trưa dậy là đọc kinh chiều, các việc khác có giờ riêng. Các việc trên phải giữ kỹ bằng mọi giá, khi nào sốt sắng hơn, cần gì nữa sẽ thêm sau.
Năm nay, tôi đã nhập hội linh mục chầu Thánh Thể. Tôi sẽ trung thành giữ giờ của tôi. Bình tĩnh trong mọi sự, trung thành và thật kỹ lưỡng.
3. Tôi xin lặp lại lời khấn trung thành đồng tâm nhất trí với Hội thánh và Đức Thánh Cha. Thánh Anphong trong ngày bối rối lo buồn đã nói: “Ý Giáo hoàng là ý Chúa”. Đây cũng là tôn chỉ lãnh đạo tư tưởng của tôi. Chúa ơi, xin bảo vệ, con chỉ muốn một Chúa tôi.
1912
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGO, 13-19/10
[29]
1. Sắp đầy ba mươi hai tuổi. Nghĩ về dĩ vãng tôi hạ mình xấu hổ; nghĩ đến hiện tại tôi thấy khích lệ vì là thời kỳ thương xót; nghĩ tới tương lai tôi thấy được can đảm, vì có thể chuộc lại thời gian đã mất. Nhưng tương lai dài hay ngắn? Có thế rất ngắn. Nhưng dài hay ngắn, con xin lặp lại thời giờ là của Chúa.
2. Hiện không cần tìm hay thực hiện thêm cách làm việc lành nào mới, tôi chỉ sống trong sự vâng lời, và vì vâng lời tôi đã gánh bao nhiêu thứ việc gần rã vai. Tuy nhiên, nếu Chúa muốn thêm vẫn được, tôi sẵn lòng gánh vác. Lên trời sẽ nghỉ ngơi. Các năm sau này rất mệt nhọc. Đức Giám Mục làm gương, ngài làm việc còn nhiều hơn tôi. Tôi cẩn thận không để mất một phút.
3. Thật xấu hổ, nhưng phải dốc lòng lại, để trung tín hoàn toàn với luật sống. Thức dậy năm giờ rưỡi và nguyện ngắm, giúp lễ ĐGM và dâng lễ, cám ơn và đọc giờ nhỏ; năng viếng Mình Thánh đôi phút; sau cơm tối sẽ đọc Kinh Sách và Kinh sáng, không thay đổi; rồi viếng Thánh Thể lâu giờ hơn; đọc sách thiêng liêng trước khi đi ngủ. Đó là những điển hình, và cũng là tấm ván cứu tôi khỏi chết đuối.
Chúa ơi, con biết con yếu hèn, xin Chúa giúp con trung thành giữ chương trình sống này. Xin giúp con để năm sau khỏi phải xấu hổ nhận ra rằng con thất tín.
4. Vì phải tôn trọng giờ cơm và phải nghĩ tới bao nhiêu việc phải làm, nên ít nghĩ tới việc ăn và không mê thích được ăn ngon đến tham ăn. Tốt. Nhưng còn phải đi xa hơn nữa. Vì thể xác khốn hèn của tôi đang béo ra và nặng nề. Tôi cảm thấy rõ, và hiện đang mất duyên dáng uyển chuyển rất cần để làm việc; cần chế ngự thể xác nếu không nó sẽ sinh chứng: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng” (1Cr 9,27).
Rất cần ăn chậm, không nên ăn mạnh, cách chung ăn ít đi, tối ăn chút thôi. Việc uống cũng vậy. Cần hãm mình về miếng ăn.
5. Vào dịp lễ Thánh Carôlô, tôi sẽ dâng lên ĐGM của tôi những lời hứa giúp tôi nên linh mục theo Thánh Tâm Chúa. Tôi thú thật: tôi đã gặp những khó khăn có thể lay chuyển lời dốc quyết của tôi. Nhưng đó chỉ là sự đoán xét theo con mắt thế tục, và những khó khăn đó phần lớn do sự tự ái tạo nên. Tôi vui lòng đạp nó dưới chân, để quảng đại chạy đến nơi mà Chúa Giêsu gọi và cho biết là Chúa muốn tôi đến đó. Ai xét sao tùy ý, dù anh em giáo sĩ có xét đoán tôi ra sao cũng mặc. Chúa biết lòng tôi ngay thẳng và trong sạch. Tôi muốn ĐGM đóng ấn vào tờ dốc lòng của những năm đầu đời linh mục, để nói lên rằng tôi hoàn toàn tùy thuộc ĐGM trong mọi sự, dù là việc rất nhỏ mọn. Điều dốc lòng này, tôi muốn là một lời tuyên bố công khai trước mặt Giáo Hội, tôi muốn được coi như không ra gì, bị bỏ rơi, khinh bỉ vì tình yêu Chúa Giêsu, vì ích lợi cho các linh hồn, và tôi muốn sống nghèo mãi mãi, dứt khoát với mọi tước lộc, của cải trần gian.
Mấy hôm nay Chúa Giêsu lại cho tôi thấy rõ hơn nữa về tinh thần tận hiến rất cần cho tôi, cho sự thành công của đời linh mục, do đó qua hành vi tôi sẽ còn tỏ ra mình “là nô lệ, là người tù của Chúa Kitô” (Ep 6,6; 3,1). Vì Chúa và trong Chúa, đó là biểu hiện của mọi sinh hoạt của tôi trong năm tới; làm việc thật hăng say, nhưng không mong kết quả dù rất nhỏ. Sẽ hành động như mọi sự đều tùy ở tôi, nhưng bởi tôi không ra gì, cho nên khi có lệnh của Bề trên là tôi tập bỏ ngay, không tiếc hối. Ôi Giêsu; dự định thì quá nhiều, nhưng lại yếu đuối vì đầy tự ái; nhưng hoàn toàn thiện chí và vì yêu. Xin Chúa giúp con và bảo vệ con.
6. Vì quá biết rõ mình không ra gì, nên cần phải làm nảy nở đầy đủ tính dịu dàng, rất hiền lành, nhẫn nại và tha thứ đối với mọi người, trong cách cư xử và phán đoán. Mới vừa hơn ba mươi, đã thấy phần nào mệt mỏi, nóng tính. Thôi, thôi, cho tôi xin! Nếu mất bình tĩnh, tôi sẽ nghĩ ngay mình là không, và có phận vụ phải tìm hiểu mọi người, không được xét đoán ai là trái. Như vậy sẽ giúp tôi bình tĩnh hơn.
7. Bề trên vừa giao loại công tác tế nhị và nguy hiểm (Giáo sĩ phó I Hiệp hội phụ nữ Ý). Tôi dốc lòng ăn ở hiền lành, nghiêm trang, khiêm nhường quên con người của mình để mưu nhiều lợi ích thiêng liêng. Kinh nghiệm ngày qua khích lệ cho ngày tới. Nhưng để giữ mình, tôi cần coi mình không ra gì, không quá tự tin, nâng cao tư tưởng và sau giờ công tác trở về trong tay của Chúa Giêsu ngay. Trong công tác này nếu có giây phút nào tôi tự cao là mang họa vào mình.
8. Hiện nay người ta nói nhiều chuyện vô căn cứ. Nguyên tắc của tôi quyết theo là, yêu mến, vâng lời, liên kết chặt chẽ với Đức Thánh Cha, tránh tất cả những gì có thể làm giảm tinh thần trên, không nghe và nhất là không xía vào những chuyện vô căn cứ.
Còn lắm công tác phải làm, như Đức Piô X đã nói, ngài mở ra cánh đồng bao la để linh mục sốt sắng hoạt động, thật lạ, việc làm không hết, giờ đâu đi bàn chuyện tào lao chỉ xứng cho hạng làm báo. Tôi đứng ngoài và đứng trên mọi thứ chuyện đó, tôi thấy mình có nhiệm vụ, và lấy làm vinh dự để nói cái tốt của Đức Thánh Cha, của Tòa thánh, và truyền thông cho kẻ khác lòng yêu mến tôn sùng đối với ngài mà tôi đang có. Đặc biệt tôi sẽ huấn luyện chủng sinh về điểm này.
9. Xin lặp lại những lời tôi đã từng dốc quyết, vì những điểm mà tôi đã nhiều phen lặp lại, vẫn đáp ứng với nhu cầu của tình thế hiện nay.
Ngoài ra, cứ tiến đầy tin tưởng. Sống đạo đức thật sự đúng nghĩa thần học: sống hy sinh. Luôn luôn hiền lành, mau mắn, bình tĩnh trong mọi sự.
Xin Thánh Tâm, xin Mẹ Maria khả ái, các thánh bổn mạng, các Đấng thấy rõ những gì chất chứa trong lòng mà con không sao viết ra hết được, xin giúp con luôn can đảm, hiền lành, trung thành, và xin chúc phúc cho con. “Chúa ơi xin nhận tôi tớ Chúa, để con sống, và con không thất vọng khi mong chờ Chúa”.
1913
TĨNH TÂM VỚI ĐGM
MARTINENGÔ, 19-25/10
[30]
1. Đây là lần thứ bảy tôi đến nơi thánh và đáng quí này để suy nghĩ về linh hồn tôi. Việc đầu tiên tôi vẫn phải làm là: chúc tụng Chúa đã tiếp tục thương yêu và gìn giữ tôi khỏi tội trọng, và cho tôi biết mình không ra gì.
Tưởng không có gì phải thêm vào những điều đã hứa và viết ra các năm trước. Chỉ thưa với Chúa: con sẵn sàng nhận tất cả, vui cũng như buồn. “Đối với tôi, sống là Chúa Kitô sống, và chết là một mối lợi” (Pl 1,21).
Tôi đã có ý định bớt công tác, và xin nhận cái gì hợp với khả năng. Nhưng tôi lại nhất định không làm thế. Bề trên biết rõ, thế là đủ, hơn nữa nếu không ai hỏi, tôi chẳng bao giờ tỏ ý mình thích việc này hơn việc nọ. Cha linh hướng hằng nói với tôi: “Ta cứ tiến tới, dầu là trong chiếc bị của Chúa Quan phòng”.
2. Phải chăng bảy năm qua là bảy năm được mùa đối với tôi, xét về phần Chúa. Và nếu bảy năm tới là bảy năm đói? Cũng đáng lắm, vì tôi đã không đáp ứng xứng với vô vàn ơn Chúa ban. Ấy vậy nếu có xảy ra cảnh đói khát để đền tội, có xảy ra sự muộn phiền, nhục nhã, đau đớn, tôi xin vui nhận, để minh chứng lòng này yêu Chúa Giêsu.
Xin hân hạnh và mê say cách lành thánh để nhận lấy tất cả những gì lớn bé, hằng ngày xảy ra nhằm làm nhục, để hạ bệ, để kiềm chế tính tự ái của tôi, tôi không có chút nào phản ứng, mà còn tỏ ra chút thích thú, như chiếc vỏ sò khô khan đang hứng sương trời để cải biến. Người ta nhục mạ tôi cách nào cũng được, miễn là mọi sự đều làm sáng danh Chúa, giúp ích thật sự cho tôi, và thánh hóa tinh thần tôi.
Phải cẩn thận, đừng bao giờ quên sự hèn mọn, bất xứng của mình, nếu có gì làm phiền tôi, lập tức tôi vui mừng tự nhủ rằng: “Mi làm nhục ta, như thế là làm ơn cho ta” (x. Tv 118,71).
3. Việc giữ lại và lặp lại những điều đã dốc lòng làm cho tôi e sợ. Thiện chí tôi không thiếu, nhưng giữ việc đạo đức cho điều hòa, là chuyện không bảo đảm, phần vì lắm công tác và chưa biết nó là thứ gì.
Dù sao, tôi vẫn chính thức và long trọng hứa với Maria Mẹ khả ái của tôi, là mỗi chiều, trong năm tới đây, tôi sẽ lần chuỗi Mân Côi. Trung thành với việc đạo đức này là điều nâng đỡ tôi rất nhiều, dù đôi khi tôi chỉ còn giờ để nguyện tắt. Mong rằng, sự tôi đặc biệt thề hứa với Mẹ hôm nay, sẽ được đền bù bằng sự Mẹ sẽ lấy đức khiết trinh của Mẹ mà bảo vệ tôi thật chặt chẽ trong nhiệm vụ đặc biệt khó khăn của tôi, và Mẹ cũng giúp tôi thực hiện các điều dốc lòng khác kể trên.
Nếu năm nay là năm cuối của đời tôi? Còn gì sung sướng hơn là được ra trình diện Mẹ tôi với tràng hoa Mân Côi chói ngời! Đó là giấy thông hành của tôi.
Xin Chúa nhận sự tự do của con dâng cho Chúa.
“Lạy Chúa, Chúa biết tất cả, Chúa biết con yêu mến Chúa” (Ga 21,16)
1914
GIÁP MƯỜI LĂM LÀM LINH MỤC
(10/8/1904 – 10/8/1914)
[31]
Groppino, 10/8/1914
Tâm tôi hôm nay đầy hai nỗi niềm: một mối tình dịu dàng mãnh liệt và một sự bối rối thẹn thùng.
Mười năm qua, bao nhiêu ơn chung, ơn riêng qua các bí tích tôi đã ban hoặc đã nhận, qua bao việc tôi đã thi hành theo chức vụ: hoặc bằng lời nói hay bằng hành động, công khai hay một mình; ơn qua lời cầu nguyện, qua sự học hành, qua những thánh giá, những khó khăn dù rất nhỏ, qua những thành công như thất bại; qua những kinh nghiệm mỗi ngày càng dồi dào và quí báu nhờ giao tiếp với các Bề trên, với giáo sĩ, với nhiều người thuộc mọi bậc, mọi tuổi. Chúa Giêsu đã trung thành giữ lời hứa với tôi hôm lễ truyền chức trong đền Đức Mẹ trên Núi thánh: “Thầy không gọi anh em là tôi tớ, nhưng là bạn hữu” (Ga 15,15). Chúa Giêsu đích thật là bạn đã mở toang nỗi thầm kín của Trái tim Ngài cho tôi. Chúa thấy, Chúa hiểu rằng con hết lòng mến Chúa, con nói thật. Trong cánh đồng đã cày bừa, đã gieo trồng, đã có vài bông lúa, tạm đủ để làm bó lúa bé dâng Chúa, xin Chúa nhận và chúc phúc, vì Chúa thương mới được vậy.
Riêng phần tôi, tôi xấu hổ vì đã không làm hơn được, gặt ít quá, bỏ đất khô khan hoang vu. Nếu các thánh mà được những ơn như tôi có, hay ít hơn, các thánh vẫn thánh hơn! Đang khi bao nhiêu tiếng gọi trong tôi, tôi đã từ chối không đáp lại! Lạy Chúa, con xin nhìn nhận sự yếu hèn, khốn cùng của con! Xin Chúa thương, tha thứ.
Lòng yêu mến và sự cần được tha thứ đã đem lại cho con tâm tình biết ơn Chúa. Chúa ơi mọi sự đã được thực hiện và sáng danh Chúa; xin cám ơn Chúa bây giờ và mãi mãi.
Một niềm vui khác tràn ngập hồn tôi; nhân ngày mười năm linh mục, là tôi chẳng thuộc về mình cũng không thuộc về ai khác; sống hay chết đều chỉ thuộc về một Chúa thôi. Phẩm chức linh mục và bao ơn lành đủ loại phủ ngập trong mười năm qua, đã giúp tôi biết mình là yếu hèn cùng cực, cần phải bỏ cái tôi, để dốc toàn lực vào một việc duy nhất là thiết lập nước Chúa Kitô thống trị trong tâm trí và trái tim mọi người một cách giản dị, không phô trương, cả đến phải chìm trong tăm tối, nhưng từ nay sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn trong các dự phóng, tư tưởng cũng như hành động.
Bản tính riêng của tôi, kinh nghiệm, tình thế đẩy đưa tôi vào công tác yên tĩnh, ôn hòa, cách xa các trận địa, không đấu bằng vũ khí hay bằng võ mồm. Tôi muốn nên thánh cách kín đáo, nếu không, những ai không có tính tình như tôi mà bắt chước kiểu của tôi, họ sẽ đi sai đường. Ôn hòa nhưng không đầu hàng tính tự ái, sự dễ dãi, yếu nhược trong tư tưởng, trong nguyên tắc, hoặc khiếp nhược khi hành động. Nụ cười trên môi che dấu sự chiến đấu trong tâm hồn, đôi khi quyết liệt với tính ích kỷ, và bao giờ tinh thần cũng phải thắng các đợt tấn công của tình cảm và tự ái, Chúa và anh em phải được phần hơn tôi.
Mười năm qua, ngày mai sẽ ra sao? Bí mật. Có khi không còn bao lâu là sẽ phải ra tòa Chúa phán xét. Xin Chúa cứ tự tiện đến rước con về. Nếu còn sống thêm ít năm, hay nhiều năm nữa, con muốn là những năm làm việc quyết liệt, với đức vâng lời lành thánh là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, không một tư tưởng nào đi ngoài sự vâng lời. Tự ái, lo xa, chỉ làm cản trở sự tiến triển của chương trình Đức Chúa Trời, và cũng không đem lại lợi ích vật chất nào cho tôi. Về điểm này, tôi phải cẩn thận hằng ngày, vì tôi đoán thế nào, vài năm nữa gần đây, tôi phải gặp trận chiến ác liệt với sự tự ái của tôi. Ai tiến, ai thắng mặc ai, tôi ở lại chỗ Chúa Quan phòng đặt để tôi, nhường đường trống cho kẻ khác tiến.
Tôi muốn được sự yên tĩnh là sự tự do của tôi; tôi sẽ năng nhớ đến bốn lời khuyên của sách Gương Phúc, bốn điều kiện để có sự an tĩnh và tự do thực thụ:
“1. Chú tâm làm theo ý kẻ khác hơn theo ý mình.
2. Luôn chọn cái kém, đừng chọn cái hơn.
3. Tìm chỗ rốt, dưới tất cả mọi người.
4. Hằng muốn và cầu xin ý Chúa được hoàn toàn thực hiện nơi con (x. Gp 3,23).
Với tâm trạng ấy, hôm nay con đến dâng lên Chúa chiếc bình quí báu là tâm hồn con đã được Chúa xức dầu thánh hóa. Xin đổ vào đó đầy sức mạnh mà Chúa đã từng dùng để thúc đẩy các thánh Tông đồ, Tử đạo, Hiển tu. Xin cho con nên hữu ích cho cái gì tốt, quảng đại, cao cả vì Chúa, vì Giáo Hội, vì các linh hồn. Con chỉ sống, chỉ muốn sống vì đó mà thôi.
Trong khi tôi ngồi ghi lại các tư tưởng sau một ngày lành thánh kỷ niệm mười năm linh mục, trong niềm cảm động êm đềm, thì cạnh bên tôi ĐGM khả kính đang nằm liệt giường sau nhiều ngày đau ốm; ngài đã sống tất cả cho tôi, cho Giáo Hội, cho Chúa Giêsu và Chúa Cha. Tôi đang đau khổ với ngài và vì ngài. Nếu đúng ý Chúa, xin Chúa mau chữa ngài khỏi bệnh, trả ngài lại cho việc Tông đồ, trả ngài lại cho Giáo Hội của Chúa, trả ngài lại cho những đoàn con đang quí yêu ngài.
Cơn đau đớn âm thầm và vui chịu của ĐGM đã xé nát lòng tôi, nhưng kinh hoàng hơn nữa là tiếng đồn về trận đại chiến đang tràn lan khắp Âu châu. Ôi Chúa Giêsu, con giơ tay linh mục của con lên Thánh Thể Chúa, và hết lòng sốt sắng lặp lại lời nguyện của Thánh Grêgôriô: “Lạy Chúa, xin cho chúng tôi được bình an trong những ngày ở trần gian”.
Và Giáo Hội giữa trận lụt! Xin Chúa cứu Giáo Hội. Đã mười năm qua, khi dâng lễ mở tay nơi mồ Thánh Phêrô – kỷ niệm rất êm đềm – con đã sốt sắng tưởng nhớ và cầu chúc cho Giáo Hội và Đức Thánh Cha, và qua mười năm con càng tưởng nhớ và cầu nguyện như trên.
Lạy Chúa, giữa cơn giông tố, giữa sự chống đối giữa các dân tộc, xin Chúa ban cho Hội thánh được sự “tự do, hiệp nhất và bình an”.
TĨNH TÂM LINH MỤC GIÁO PHẬN BERGAMÔ
27/9-3/10
Giảng phòng L.M. Marelli, kế vị ĐGM Radini
[32]
1. Ngày 10 tháng 8 vừa qua, nhân giáp 10 năm linh mục, tôi đã nghĩ ngay đến giai đoạn hai cuộc đời linh mục của tôi, nhiều việc có thể và phải thay đổi.
Ý Chúa thật nhiệm mầu! Ngày 22 tháng 8, Chúa gọi Đức Cha khả kính về trời: và kìa trước mắt tôi một chân trời mới đột nhiên mở rộng.
Nhưng tôi không mất can đảm. Tuy đau buồn, tôi vẫn rất bình tĩnh và tinh thần rất vững. Chắc chắn, linh hồn cao cả lành thánh của đấng mà tôi hằng yêu mến tôn kính đang ở trên trời, hằng cầu bầu, chúc lành, bảo vệ và nâng đỡ tôi. Ôi, làm sao con theo ngài lên đó, chỉ khi Chúa thương ban cho con cái chết; trong khi chờ đợi con, sẽ bắt chước những việc lành thánh của ngài.
2. Hiện nay tôi chỉ thuần là giáo sư ở trong Đại chủng viện thôi, tuy nhiên việc mục vụ tôi vẫn tiếp tục. Từ nay tôi được sống yên tịnh dễ tập trung hơn, đúng như nguyện vọng. Đó là ơn mới Chúa ban. Cám ơn Chúa và tôi quyết dùng ơn này. Tôi mến căn phòng và sự yên tịnh để chuyên cầu nguyện và tra cứu.
3. Đặc biệt tôi hứa thức năm giờ rưỡi sáng. Lập tức sẽ nguyện ngắm ngay trong phòng, sau đó đến bàn thờ Thánh Micae để dâng lễ và đôi khi xưng tội. Không cần nhắc lại những chi tiết trong ngày, những lời dốc lòng cũ đã đủ.
4. Trong mọi sự tôi muốn nên gương mẫu, khi dạy học hay khi liên lạc với đức ông giám đốc chủng viện, với đồng nghiệp hay với chủng sinh học trò của tôi. Phải khiêm nhường đối với tất cả, cố giúp mọi người thông cảm nhau, nêu gương cho nhau, đó là điều quan trọng cho những ai cùng có chung trách nhiệm trong một cộng đoàn. Nhất là tôi sẽ không phàn nàn hoặc chỉ trích ai, vì biết rằng tôi sẽ không ở nơi nào tốt hơn là sống trong chủng viện.
5. Nỗi lo chính của tôi là, dù sao đi nữa, đối với Đức Giám Mục hiện tại, tôi vẫn cung kính, vâng lời, yêu mến chân thành và quảng đại vui vẻ, như nhờ ơn Chúa tôi đã sống với Đức Giám Mục quá cố. Về điểm này tôi phải làm gương, vì xác tín rằng phải nhìn nhận và tôn kính Chúa Giêsu trong con người của giám mục.
Dĩ nhiên không còn là bí thư, tôi phải có thái độ khác hơn, dù sao vẫn phải tỏ thái độ cung kính, dè dặt, thật tế nhị cách đơn sơ, bởi thật tình mến Chúa. Đối với tân giám mục tôi phải ăn ở cho người hài lòng và được khích lệ, tôi sẽ không đóng vai trò viên đá làm ngài vấp ngã, nhưng là viên đá cho ngài dùng mà xây nhà. Tôn kính mến yêu giám mục bằng lời nói và việc làm, tha thiết xin Chúa Giêsu cho con trung thành với lời hứa này bằng bất cứ giá nào.
6. Tôi cố tránh mọi nỗi lo âu cho tương lai, dù có ai nói hay cho tôi, dù có vẻ đứng đắn và chân thành, tâm hồn tôi cũng phải an tĩnh. Vì tôi sinh nghèo, sẽ chết nghèo, như trong dĩ vãng Chúa vẫn cho tôi dùng đủ, trong tương lai Chúa Quan phòng sẽ cứ thế và tùy nhu cầu mà ban thêm! Khốn cho tôi nếu tôi để lòng vương vấn của cải trần gian dù chỉ là những vật nhỏ mọn.
7. Những ý nghĩ thoáng qua về vinh dự, chức vụ trong tương lai, tôi phải bỏ đi ngay. Nó chỉ làm cho tôi mất sự an tĩnh của tâm hồn, bớt nghị lực làm việc, mất sự vui vẻ hồn nhiên và mất công phúc của những việc lành. Tôi phải khiêm nhường, khiêm nhường để Chúa định liệu những gì còn lại.
8. Tôi là linh mục của Thánh Tâm. Những điều hứa trên đây có ý nghĩa đặc biệt, liên quan đến những điều tôi hứa riêng với tư cách là hội viên của Hội linh mục Thánh Tâm. Tôi cố gắng tham gia với hết mọi sinh hoạt của Hội đã đón nhận tôi, trước là nêu gương cho anh em giáo sĩ, sau là làm cho Hội được danh tiếng và đạt được mục đích của Hội.
N.B Thứ tư vừa qua tôi phải tạm gián đoạn cuộc tĩnh tâm để đi Milan xin chỉ thị của Đức Hồng Y TGM Milan về cách tôi phải ứng xử với Đức tân Giám mục giáo phận, về một hai điểm.
Lần gặp gỡ này đã khích lệ và làm cho tôi vui vẻ lại. Tôi đã đến cầu nguyện rất lâu nơi mồ Thánh Carôlô, nơi đây tôi đã lặp lại lời hứa tận hiến toàn thân cho Chúa, “sống chết” vẫn dâng xác hồn trọn vẹn để phục vụ Chúa, phục vụ Giáo Hội và các linh hồn, hoàn toàn vâng ý Chúa, sẵn sàng chấp nhận mọi thứ hy sinh, bây giờ và mãi mãi. Amen.
Văn Hóa
Niềm tin Phục Sinh!
Nguyễn Trung Tây, SVD
16:17 10/06/2014
Nguyễn Trung Tây
Niềm tin Phục Sinh!
Dòng Ngôi Lời tỉnh dòng Úc Châu, ngoài những công tác mục vụ với người thổ dân Arrernte tại vùng sa mạc bát ngát Central Australia, tu sĩ Ngôi Lời Úc Châu còn có mặt tại Thái Lan chăm sóc những mảng đời bị bỏ rơi, hoặc bị hất bỏ gạt sang một bên lề xã hội: những bệnh nhân HIV/Sida. Tỉnh Nongbua Lamphu, đông bắc Thái Lan, một tỉnh nghèo sát biên giới với Lào là nơi có cơ sở truyền giáo Ngôi Lời Úc Châu. Nongbua Lamphu có nhà thờ St. Michael, nơi đây Ngôi Lời Úc Châu cùng với nhiều Linh Mục và tu sĩ truyền giáo của các dòng tu khác đã nhiều lần tổ chức trại hè cho giới trẻ.
Đặc biệt, Thái Lan cũng là vùng đất (của) nhiều bạn trẻ Việt Nam đến, sống, và làm việc siêng năng, sáng dậy sớm, khuya về trễ, góp từng đồng bạc dành dụm cho một tương lai của mình và gia đình nơi quê nhà.
Đất Thái, ngôn ngữ Thái, văn hóa Thái, mọi sự đều mới với các bạn trẻ. Tại Thái, bạn trẻ không còn gia đình và giáo xứ để nâng đỡ vào những giây phút đối diện với thứ thách và cám dỗ nơi đất khách quê người. Đặc biệt vào những giây phút yếu đuối với bơ vơ lạc loài trên đất lạ, bạn trẻ dễ bỏ cuộc hoặc buông xuôi theo dòng đời. Trên vùng đất Thái, bạn trẻ chỉ còn Niềm tin Việt Nam, vốn quý đã từng được ươm mầm và vươn cao trong ngôn ngữ Việt trên mảnh đất Việt. Nếu không được nâng đỡ, tiếp tục chăm sóc nơi đất khách, niềm tin có thể mai một, héo tàn, và chết đi vào một ngày. Do hoàn cảnh đặc biệt vừa sơ lược ở trên, cùng với các Linh Mục và tu sĩ truyền giáo của nhiều dòng tu khác, tu sĩ Ngôi Lời tại Thái Lan đã nhiều lần tổ chức những Trại Hè cho bạn trẻ Việt Nam. Nơi đó, nhà thờ trở thành một nơi để bạn trẻ cầu nguyện với Chúa trong ngôn ngữ Việt, chia sẻ với nhau (trong ngôn ngữ quê mẹ) về những khó khăn và thử thách nơi quê người. Cũng qua những Trại Hè, bạn trẻ ngồi cạnh nhau chia sẻ một chén nước mắm, một chén cơm thơm.
Trại Hè chủ đề YÊU NHƯ GIÊSU tại Thái năm 2014 lại đến như một thường lệ. Mọi chuẩn bị cho một trại hè đã sẵn sàng, nhiều Linh Mục và tu sĩ Việt Nam góp công, nhiều bạn trẻ góp mặt, bảng tên, áo trại hè, mọi người hân hoan chờ đợi giây phút.
Không ai ngờ! Sáng sớm ngày thứ Hai, 2 tháng 6, có lẽ chỉ vì một sự lơ đễnh, một cơn buồn ngủ, một giây phút lãng quên, một lần đôi mắt vô tình nhắm lại, tai nạn xảy tới!!! Chiếc xe minibus 15 chỗ ngồi đâm mạnh vào một chiếc xe vận tải loại lớn. Xe minibus phát nổ và bốc cháy!!! 13 sinh mạng nằm xuống trong đó có Linh Mục Vũ Hanh, Linh Hướng của Hiệp Hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan (HHCGVN-TL), và người tài xế Thái Lan. Riêng 3 bạn trẻ còn lại, thương tích khá nặng.
Linh Mục Lê Đức của Ngôi Lời Úc Châu (Thư Ký của HHCGVN-TL) viết trong trang “Nhật Ký Truyền Giáo: Thiên Chúa Thử Thách,”
...Suốt 8 năm trong đại chủng viện, trong đó có 4 năm học thần học, chẳng có một môn học nào dạy cho mình biết nên làm gì khi phải đối phó với tình trạng một linh mục bạn và 11 bạn trẻ của mình thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khủng khiếp đến nỗi cả thảy bị thiêu rụi mà không nhận ra hình dạng. Khi mình tới cái chùa nơi người ta mang xác của các nạn nhân đến, mình không thể tin vào điều mình thấy. Những khuôn mặt tươi vui mình mới gặp gỡ, mới trêu chọc, mới đùa giỡn giờ chẳng khác gì một đống than.
Trên đường đến hiện trường, mình và chị Fốn đã liên lạc với cha xứ ở nhà thờ thánh Gerard Khon Kaen, xin ngài tiếp nhận những thi hài ở nhà thờ của ngài. Mình cứ nghĩ rằng sau khi làm những thủ tục như đưa xác vào bệnh viện rồi thì sẽ liệm xác vào quan tài, rồi đưa quan tài về nhà thờ để dâng lễ. Ai ngờ, chuyện trở nên phức tạp ngoài mức tưởng tượng. Vì là một tai nạn liên quan đến nhiều người nước ngoài nên cảnh sát phải vào cuộc để điều tra. Việc hộ chiếu của tất cả những người thiệt mạng đã bị cháy làm cho cảnh sát có nhiều câu hỏi. Việc có tới trên 60 người Việt Nam trong một chuyến đi lại làm cho cảnh sát còn có nhiều câu hỏi hơn...
LM Vũ Hanh, OP, cá nhân người viết đã từng gặp qua một số báo Dân Chúa Úc Châu, chủ đề Truyền Giáo tại Thái Lan... LM Hanh và tôi đã từng chia sẻ với nhau những khó khăn và thử thách về cánh đồng truyền giáo. Nhưng giờ này, ngài đã nằm xuống ngủ yên giấc ngủ thiên đàng. LM Hanh ra đi, một bất ngờ! Cánh đồng truyền giáo vẫn còn cần nhiều bước chân truyền giáo… Nhưng sáng sớm thứ Hai 2/6, một trong những bàn tay của thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng đã biến tan vào trong thinh không!
Riêng 11 người bạn trẻ còn lại. Những đôi mắt mở lớn! Những tiếng cười thanh xuân! Những chăm chỉ siêng năng! Những mơ ước cho tương lai! Gia đình bên Việt Nam đã từng tiễn họ cất bước rời làng quê xứ đạo với những hy vọng. Tất cả đã cháy tan theo với ngọn lửa! Rất tiếc! Buổi sáng ngày 2 tháng 6 vừa qua đã thay đổi tất cả những trang sách tương lai.
LM Hanh còn trẻ! Đời sống truyền giáo của ngài nên tiếp tục những vòng xoay bình thường. Nhưng tiếc quá! Vòng xoay truyền giáo đã dừng lại!
11 bạn trẻ cũng thế, họ còn cả một tương lai thênh thang mở rộng trước mặt. Họ là hy vọng, là chén cơm của gia đình bên quê nhà. Nhưng hy vọng đã biến tan.
Nhìn những tấm hình của chiếc xe minibus và thi hài của những người vừa nằm xuống, thế gian thở một tiếng thở dài!
Trong thánh lễ tại thánh đường Sacred Heart của Cabramatta, Úc Châu (9/6) cầu nguyện cho linh hồn LM Vũ Hanh và 11 linh hồn vừa nằm xuống, tôi đọc bài Phúc Âm Gioan 11. Đứng trước ngôi mộ chôn vùi thân xác người thân, Martha than với Đức Giêsu, “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết…” (c.21).
Cuộc sống từ những ngày đầu tiên cho tới ngày hôm nay vẫn là một vòng xoay tròn đều của Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Đúng như Sách Giảng Viên đã từng nhận xét, “Dưới vòm trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời; một thời để sinh ra và một thời để chết đi…” (3:1-2).
Nhưng với những cuộc đời đã từng được nhận dòng nước thanh tẩy trong Đức Kitô, vòng xoay bình thường của trần gian không chỉ dừng lại ở sau chữ “Tử!”.
Đức Giêsu của mốc tuổi ba mươi cũng đã từng nhắm mắt lại, lặng lẽ chết đi trong bùi ngùi thương tiếc của bao nhiêu người. Nhưng Ngài sống lại. Ngài trở thành một vòng quay mới của vòng xoay nhân gian. Trước Ngài, cuộc sống nối tiếp vòng xoay, Sinh, Bệnh, Lão, Tử! Sau Ngài, vòng xoay hóa thành Sinh, Bệnh, Lão, Tử, và Phục Sinh. Trong Đức Kitô, người tín hữu sẽ phục sinh dù đã chôn trong ngôi mộ. Với niềm tin vào Đức Kitô, LM Vũ Hanh và 11 bạn trẻ dù đã chết, nhưng sẽ phục sinh, một chuyện phải tới.
Trước lời than của Martha, Đức Giêsu đã nói, Ngài nói rõ, “Ta là sự sống lại! Ai tin ta sẽ không chết đời đời. Con có tin điều đó hay không?” (Gioan 11:25).
Vâng, thưa Thầy, con tin!
Chuyện xảy ra tại Thái Lan ngày 2/6, rất tiếc, cơn ác mộng sự thật. LM Vũ Hanh và 11 sinh mạng thanh xuân vừa nằm xuống nhắc nhở trần gian một sự thật (thông thường bị lãng quên): Cuộc đời này, trước sau vẫn là phù vân, có đó rồi mất đó! Cuộc sống này, trước sau vẫn là hoa quỳnh, sớm nở tối tàn! Ngày rồi cũng tới, xinh đẹp sắc sảo rồi cũng tới một ngày nằm xuống hóa ra nấm đất bên đường! Ai trên trần gian sẽ sống mãi? Ai dám chắc sáng mai mình còn cơ hội mở mắt chào đón bình minh? Ai dám chắc vợ chồng sẽ còn tiếp tục sánh bước bên nhau trên con đường đời?
Vâng, chuyện quá khứ đã qua! Chuyện hân hoan! Chuyện đau lòng!
Chuyện tương lai chưa tới! Trang giấy trắng vẫn mở rộng thênh thang chờ đợi những nét vẽ đẹp!
Bây giờ là hiện tại, một thực thể. Bây giờ vẫn còn có nhau! Bây giờ vẫn còn hơi thở sung mãn tràn đầy! Bây giờ vẫn còn thịt da, thịt da của Bố Mẹ, của Vợ Chồng, Con, và của bao nhiêu người thân!
Mời tôn trọng! Mời yêu thương!
Bởi ai biết đâu, ngày sẽ tới!
Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.com
Niềm tin Phục Sinh!
Dòng Ngôi Lời tỉnh dòng Úc Châu, ngoài những công tác mục vụ với người thổ dân Arrernte tại vùng sa mạc bát ngát Central Australia, tu sĩ Ngôi Lời Úc Châu còn có mặt tại Thái Lan chăm sóc những mảng đời bị bỏ rơi, hoặc bị hất bỏ gạt sang một bên lề xã hội: những bệnh nhân HIV/Sida. Tỉnh Nongbua Lamphu, đông bắc Thái Lan, một tỉnh nghèo sát biên giới với Lào là nơi có cơ sở truyền giáo Ngôi Lời Úc Châu. Nongbua Lamphu có nhà thờ St. Michael, nơi đây Ngôi Lời Úc Châu cùng với nhiều Linh Mục và tu sĩ truyền giáo của các dòng tu khác đã nhiều lần tổ chức trại hè cho giới trẻ.
Đặc biệt, Thái Lan cũng là vùng đất (của) nhiều bạn trẻ Việt Nam đến, sống, và làm việc siêng năng, sáng dậy sớm, khuya về trễ, góp từng đồng bạc dành dụm cho một tương lai của mình và gia đình nơi quê nhà.
Đất Thái, ngôn ngữ Thái, văn hóa Thái, mọi sự đều mới với các bạn trẻ. Tại Thái, bạn trẻ không còn gia đình và giáo xứ để nâng đỡ vào những giây phút đối diện với thứ thách và cám dỗ nơi đất khách quê người. Đặc biệt vào những giây phút yếu đuối với bơ vơ lạc loài trên đất lạ, bạn trẻ dễ bỏ cuộc hoặc buông xuôi theo dòng đời. Trên vùng đất Thái, bạn trẻ chỉ còn Niềm tin Việt Nam, vốn quý đã từng được ươm mầm và vươn cao trong ngôn ngữ Việt trên mảnh đất Việt. Nếu không được nâng đỡ, tiếp tục chăm sóc nơi đất khách, niềm tin có thể mai một, héo tàn, và chết đi vào một ngày. Do hoàn cảnh đặc biệt vừa sơ lược ở trên, cùng với các Linh Mục và tu sĩ truyền giáo của nhiều dòng tu khác, tu sĩ Ngôi Lời tại Thái Lan đã nhiều lần tổ chức những Trại Hè cho bạn trẻ Việt Nam. Nơi đó, nhà thờ trở thành một nơi để bạn trẻ cầu nguyện với Chúa trong ngôn ngữ Việt, chia sẻ với nhau (trong ngôn ngữ quê mẹ) về những khó khăn và thử thách nơi quê người. Cũng qua những Trại Hè, bạn trẻ ngồi cạnh nhau chia sẻ một chén nước mắm, một chén cơm thơm.
Trại Hè chủ đề YÊU NHƯ GIÊSU tại Thái năm 2014 lại đến như một thường lệ. Mọi chuẩn bị cho một trại hè đã sẵn sàng, nhiều Linh Mục và tu sĩ Việt Nam góp công, nhiều bạn trẻ góp mặt, bảng tên, áo trại hè, mọi người hân hoan chờ đợi giây phút.
Không ai ngờ! Sáng sớm ngày thứ Hai, 2 tháng 6, có lẽ chỉ vì một sự lơ đễnh, một cơn buồn ngủ, một giây phút lãng quên, một lần đôi mắt vô tình nhắm lại, tai nạn xảy tới!!! Chiếc xe minibus 15 chỗ ngồi đâm mạnh vào một chiếc xe vận tải loại lớn. Xe minibus phát nổ và bốc cháy!!! 13 sinh mạng nằm xuống trong đó có Linh Mục Vũ Hanh, Linh Hướng của Hiệp Hội Công Giáo Việt Nam tại Thái Lan (HHCGVN-TL), và người tài xế Thái Lan. Riêng 3 bạn trẻ còn lại, thương tích khá nặng.
Linh Mục Lê Đức của Ngôi Lời Úc Châu (Thư Ký của HHCGVN-TL) viết trong trang “Nhật Ký Truyền Giáo: Thiên Chúa Thử Thách,”
...Suốt 8 năm trong đại chủng viện, trong đó có 4 năm học thần học, chẳng có một môn học nào dạy cho mình biết nên làm gì khi phải đối phó với tình trạng một linh mục bạn và 11 bạn trẻ của mình thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khủng khiếp đến nỗi cả thảy bị thiêu rụi mà không nhận ra hình dạng. Khi mình tới cái chùa nơi người ta mang xác của các nạn nhân đến, mình không thể tin vào điều mình thấy. Những khuôn mặt tươi vui mình mới gặp gỡ, mới trêu chọc, mới đùa giỡn giờ chẳng khác gì một đống than.
Trên đường đến hiện trường, mình và chị Fốn đã liên lạc với cha xứ ở nhà thờ thánh Gerard Khon Kaen, xin ngài tiếp nhận những thi hài ở nhà thờ của ngài. Mình cứ nghĩ rằng sau khi làm những thủ tục như đưa xác vào bệnh viện rồi thì sẽ liệm xác vào quan tài, rồi đưa quan tài về nhà thờ để dâng lễ. Ai ngờ, chuyện trở nên phức tạp ngoài mức tưởng tượng. Vì là một tai nạn liên quan đến nhiều người nước ngoài nên cảnh sát phải vào cuộc để điều tra. Việc hộ chiếu của tất cả những người thiệt mạng đã bị cháy làm cho cảnh sát có nhiều câu hỏi. Việc có tới trên 60 người Việt Nam trong một chuyến đi lại làm cho cảnh sát còn có nhiều câu hỏi hơn...
LM Vũ Hanh, OP, cá nhân người viết đã từng gặp qua một số báo Dân Chúa Úc Châu, chủ đề Truyền Giáo tại Thái Lan... LM Hanh và tôi đã từng chia sẻ với nhau những khó khăn và thử thách về cánh đồng truyền giáo. Nhưng giờ này, ngài đã nằm xuống ngủ yên giấc ngủ thiên đàng. LM Hanh ra đi, một bất ngờ! Cánh đồng truyền giáo vẫn còn cần nhiều bước chân truyền giáo… Nhưng sáng sớm thứ Hai 2/6, một trong những bàn tay của thợ gặt nhiệt thành trên cánh đồng đã biến tan vào trong thinh không!
Riêng 11 người bạn trẻ còn lại. Những đôi mắt mở lớn! Những tiếng cười thanh xuân! Những chăm chỉ siêng năng! Những mơ ước cho tương lai! Gia đình bên Việt Nam đã từng tiễn họ cất bước rời làng quê xứ đạo với những hy vọng. Tất cả đã cháy tan theo với ngọn lửa! Rất tiếc! Buổi sáng ngày 2 tháng 6 vừa qua đã thay đổi tất cả những trang sách tương lai.
LM Hanh còn trẻ! Đời sống truyền giáo của ngài nên tiếp tục những vòng xoay bình thường. Nhưng tiếc quá! Vòng xoay truyền giáo đã dừng lại!
11 bạn trẻ cũng thế, họ còn cả một tương lai thênh thang mở rộng trước mặt. Họ là hy vọng, là chén cơm của gia đình bên quê nhà. Nhưng hy vọng đã biến tan.
Nhìn những tấm hình của chiếc xe minibus và thi hài của những người vừa nằm xuống, thế gian thở một tiếng thở dài!
Trong thánh lễ tại thánh đường Sacred Heart của Cabramatta, Úc Châu (9/6) cầu nguyện cho linh hồn LM Vũ Hanh và 11 linh hồn vừa nằm xuống, tôi đọc bài Phúc Âm Gioan 11. Đứng trước ngôi mộ chôn vùi thân xác người thân, Martha than với Đức Giêsu, “Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết…” (c.21).
Cuộc sống từ những ngày đầu tiên cho tới ngày hôm nay vẫn là một vòng xoay tròn đều của Sinh, Bệnh, Lão, Tử. Đúng như Sách Giảng Viên đã từng nhận xét, “Dưới vòm trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời; một thời để sinh ra và một thời để chết đi…” (3:1-2).
Nhưng với những cuộc đời đã từng được nhận dòng nước thanh tẩy trong Đức Kitô, vòng xoay bình thường của trần gian không chỉ dừng lại ở sau chữ “Tử!”.
Đức Giêsu của mốc tuổi ba mươi cũng đã từng nhắm mắt lại, lặng lẽ chết đi trong bùi ngùi thương tiếc của bao nhiêu người. Nhưng Ngài sống lại. Ngài trở thành một vòng quay mới của vòng xoay nhân gian. Trước Ngài, cuộc sống nối tiếp vòng xoay, Sinh, Bệnh, Lão, Tử! Sau Ngài, vòng xoay hóa thành Sinh, Bệnh, Lão, Tử, và Phục Sinh. Trong Đức Kitô, người tín hữu sẽ phục sinh dù đã chôn trong ngôi mộ. Với niềm tin vào Đức Kitô, LM Vũ Hanh và 11 bạn trẻ dù đã chết, nhưng sẽ phục sinh, một chuyện phải tới.
Trước lời than của Martha, Đức Giêsu đã nói, Ngài nói rõ, “Ta là sự sống lại! Ai tin ta sẽ không chết đời đời. Con có tin điều đó hay không?” (Gioan 11:25).
Vâng, thưa Thầy, con tin!
Chuyện xảy ra tại Thái Lan ngày 2/6, rất tiếc, cơn ác mộng sự thật. LM Vũ Hanh và 11 sinh mạng thanh xuân vừa nằm xuống nhắc nhở trần gian một sự thật (thông thường bị lãng quên): Cuộc đời này, trước sau vẫn là phù vân, có đó rồi mất đó! Cuộc sống này, trước sau vẫn là hoa quỳnh, sớm nở tối tàn! Ngày rồi cũng tới, xinh đẹp sắc sảo rồi cũng tới một ngày nằm xuống hóa ra nấm đất bên đường! Ai trên trần gian sẽ sống mãi? Ai dám chắc sáng mai mình còn cơ hội mở mắt chào đón bình minh? Ai dám chắc vợ chồng sẽ còn tiếp tục sánh bước bên nhau trên con đường đời?
Vâng, chuyện quá khứ đã qua! Chuyện hân hoan! Chuyện đau lòng!
Chuyện tương lai chưa tới! Trang giấy trắng vẫn mở rộng thênh thang chờ đợi những nét vẽ đẹp!
Bây giờ là hiện tại, một thực thể. Bây giờ vẫn còn có nhau! Bây giờ vẫn còn hơi thở sung mãn tràn đầy! Bây giờ vẫn còn thịt da, thịt da của Bố Mẹ, của Vợ Chồng, Con, và của bao nhiêu người thân!
Mời tôn trọng! Mời yêu thương!
Bởi ai biết đâu, ngày sẽ tới!
Nguyễn Trung Tây
www.nguyentrungtay.com
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Chiều Một Mình
Joseph Nguyễn Tro Bụi
21:39 10/06/2014
Ảnh của Joseph Nguyễn Tro Bụi
Chiều về soi nước ngắm hình
Thương tình chiếc bóng một mình chong chiêng,
Chiều về chất chứa niềm riêng…
(Joseph Nguyễn Tro Bụi)