Ngày 12-04-2014
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:28 12/04/2014
MẶT TRỜI CẦU HÔN
N2T

Mặt trời sinh hoạt ngày nào cũng như ngày nấy, nó thở dài nói:
- “Ngày nào tôi cũng chỉ làm có một công việc, thật quá chán ! Khi tôi đơn thân độc mã treo trên không trung nhìn thấy trên mặt đất nhân loại và các động vật kết bạn hợp quần, khiến cho người ta ngưỡng mộ vô cùng, có ai có thể đến làm bạn với tôi không nào ?”
Đám mây trắng đứng bên cạnh liền nói:
- “Chuyện đó không dễ đâu nhé, tôi có quen biết một quả cầu lửa lớn ở trong vũ trụ rất thích hợp với anh, anh có thể cầu hôn với cô ta, thì không sợ không có người kết bạn với anh.”
Qua sự giúp đỡ làm mai mối nhiệt tình của đám mây trắng, không lâu sau đó truyền lại sự cầu hôn thành công của mặt trời, mặt trời rất vui vẻ, lập tức tuyên bố với các động vật trong rừng tin vui này, tất cả các động vật đều vui mừng, chỉ có một con nhái mặt mày ủ rủ nói:
- “Một mặt trời cũng đủ làm cho nước trong hồ khô cạn rồi, bây giờ kết hôn, rồi lại sinh ra mặt trời con, tôi e rằng chúng ta sẽ bị chết khô như thịt nướng vậy mà thôi.”
Lập tức, tất cả các động vật lâm vào cảnh sống trong sự khủng hoảng.

Suy tư:
Mặt trời có một trách nhiệm rất là vĩ đại, đó là đem ánh sáng của mình chiếu soi khắp mặt địa cầu, trách nhiệm này rất vừa vĩ đại vừa cao quý, bởi vì nếu không có ánh sáng của mặt trời, thì con người và các loài trên mặt đất đều không thể sống được.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng và khôn ngoan, Ngài chỉ tạo dựng có một mặt trời mà thôi, vậy là đủ ánh sáng cho thế gian rồi, chỉ một mặt trời thôi và nó mãi mãi chiếu sáng cho đến khi Thiên Chúa có kế hoạch khác cho vũ trụ này, tức là trời mới đất mới.
Mỗi người có một bổn phận phải làm, làm tròn bổn phận của mình là đã làm đẹp lòng Thiên Chúa rồi. Đừng so sánh mình với địa vị của người khác để rồi bỏ bê bổn phận của mình, nhưng nổ lực tìm kiếm điều hay trong bổn phận và thăng hoa nó với ơn thánh của Chúa ban.

Lời cho phụ huynh:
Dùng phương pháp từ từ tiệm tiến mà dẫn dắt gợi mở sự cần thiết của con cái, chứ đừng một mực làm thỏa mãn sự ham muốn của chúng nó, như thế mới không có một kết cục hối hận sau này.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch và viết suy tư

----------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa (Chúa nhật Lễ Lá)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:34 12/04/2014
Chúa Nhật LỄ LÁ
N2T


Tin mừng : Mt 26, 14- 27, 66.
“Cuộc thương khó của Đức Chúa Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta”.


Anh chị em thân mến,
Hôm nay là Chúa Nhật Lễ Lá, và cũng là ngày mở đầu tuần Thương Khó của Đức Chúa Giê-su đã chịu vì tội lỗi của nhân loại và của chúng ta. Trong tuần này Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng nhau chia sẻ những đau khổ của Đức Chúa Giê-su từ khi vào thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi Ngài trút hơi thở cuối cùng trên thập giá.

Có câu chuyện nhỏ này:
Một hôm mùa xuân hỏi:
- “Có cái gì so với sự chết càng đau khổ hơn không ?”
Đấng tạo hóa trả lời :
- “Có, giữa chết và không chết”.
- “Nghĩa là sao ?”
- “Thể xác thì sống nhưng tâm hồn thì đã chết rồi” .

Ai đã từng bị hiểu lầm, ai đã từng bị kết án cách bất công, ai đã từng nếm mùi nhục nhã trước những người đã chịu ơn mình bây giờ lại đấu tố mình, thì mới thấy những đau khổ trong tâm hồn của Đức Chúa Giê-su là chừng nào.

Ngồi trên mình lừa và được tung hô “vạn tuế, vạn tuế”, được dân chúng cởi áo lót đường đi, được tuyên xưng “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến...” thì còn gì hãnh diện và oai cho bằng! Nhưng Đức Chúa Giê-su thì lại khác, tâm hồn của Ngài đang đau khổ, đau khổ vì biết rằng chính những con người cầm lá tung hô vạn tuế Ngài ngày hôm nay, thì ngày mai cũng chính họ vung nắm tay la hét đấu tố và khống cáo Ngài trước tòa án Phi-la-tô: đóng đinh nó vào thập giá.

Quan tổng trấn Phi-la-tô đang sống nhưng tâm hồn đã chết trước những quyền lợi cá nhân; đám đông dân chúng đang hò hét la mắng Đức Chúa Giê-su, thế là họ đang sống nhưng tâm hồn đã chết trước những vô ơn bội nghĩa.

Những hình ảnh đó vẫn còn đậm nét trong tâm hồn chúng ta, khi chúng ta, ngày hôm nay, cũng cầm lá trong tay để tung hô Đức Chúa Giê-su là vua, là Đấng nhân danh Chúa mà đến, nhưng rồi cũng chính chúng ta, ngày mai, sẽ đóng đinh Ngài vào thập giá vì những tội lỗi của chính mình, Đức Chúa Giê-su thật sự đang đau khổ khi tiến vào thành Giê-ru-sa-lem, bởi vì Ngài biết chúng ta đang sống nhưng tâm hồn đã chết trước những cám dỗ của ma quỷ và thế gian.

Trong cuộc sống hằng ngày với biết bao là công việc phải lo toan, tiếp xúc nhiều hạng người, có những lúc chúng ta ôm một mối hận trong lòng vì những phản bội, những “ăn cháo đái bát” của người anh em chị em, chúng ta đau khổ, chúng ta oán trời, chúng ta than vãn vì lòng người đen bạc thay trắng đổi đen. Nhưng còn Đức Chúa Giê-su, Ngài không một lời oán trách, không một thái độ thù nghịch, Ngài hiền lành như con chiên bị đem đi làm thịt, dù rằng tâm hồn Ngài đau khổ có thể chết được, như lời của tiên tri I-sai-a đã nói về người Tôi Tớ của Thiên Chúa :
“Phần tôi, tôi đã nói :
Tôi vất vả luống công, phí sức mà chẳng được gì”.

Vâng, Đức Chúa Giê-su chẳng được gì cả khi thi ân giáng phúc cho những người Do Thái, Ngài đã phí công vô ích, vì những người mà Ngài đã hết lòng yêu thương, ban ơn, giờ đây đang kết án tử cho Ngài. Nhưng Chúa Giê-su tin chắc rằng với máu Ngài đổ ra, với những cực hình mà Ngài phải chịu, và với cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ cứu chúng ta là những người đang sống nhưng tâm hồn thì đã chết, cũng được sống lại với Ngài.

Anh chị em thân mến,
Bài Thương Khó của Đức Chúa Giê-su mà chúng ta vừa nghe, đã khiến cho nhiều tâm hồn tội lỗi trở lại con đường ngay nẻo chính, nó cũng đã đánh động nhiều tâm hồn kiêu ngạo chỉ biết kết án tha nhân chứ không biết kết án mình. Đây không những là bài tường thuật lịch sử về cuộc khổ nạn của Đức Chúa Giê-su vì yêu thương mà chịu khổ hình và chịu chết, nhưng còn là một bán án kết tội nhân loại và chúng ta, bởi vì nhân loại và bản thân mỗi người trong chúng ta, đang từng giây từng phút đóng đinh Ngài vào thập giá vì tội của mình.

Chia sẻ với những đau khổ trong tâm hồn của Đức Chúa Giê-su chính là việc mà ba thánh tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan đã làm khi ở trong vườn Cây Dầu, nhưng hơn thế nữa, chúng ta chia sẻ những đau khổ trong tâm hồn của Đức Chúa Giê-su, bằng những đau khổ trong tâm hồn của mình: khi chúng ta âm thầm chịu đau khổ vì sự phản bội của anh em, vì sự lừa lọc trắng trợn của người khác, vì sự vô ơn bội nghĩa của người mà mình đã hết lòng thương yêu giúp đỡ...

Không oán trách người hiểu lầm mình, không trả thù người vô ơn, không giận ghét người bạc nghĩa, không nói xấu người chỉ trích mình.v.v... đó là việc làm tích cực nhất của chúng ta, để chia sẻ nổi đau với Đức Chúa Giê-su trong cuộc sống của mình, đó chính là cuộc thương khó nối dài của Ngài trên con người chúng ta, và đó cũng chính là tâm tình của một người bạn trung tín vậy !

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
-------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:37 12/04/2014
N2T

13. Tinh thần của người có đức tin, thì không lấy con mắt xác thịt để nhìn tất cả thế giới, cũng không lấy mục quang đơn thuần của con người để phán đoán tất cả, cũng không lấy một mặt của tín ngưỡng để giải quyết tất cả, nhưng là lấy cách nhìn, cách quan sát, cách thẩm lượng, cách phê phán của Đức Chúa Ki-tô để quyết định tất cả.

(Cha Vincent Lebbe)
------------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Mỗi tuần một “Chuyện Rất Ngắn”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
02:41 12/04/2014
CÁ LỚN
Lễ xong, cha sở đang đọc kinh sáng thì chuông điện thoại reo, có người xin xưng tội, ngài bắt máy và nói:
- “Được rồi, tôi đợi ông.”
Cho giải tội xong nét mặt ngài rất vui, tinh thần sảng khoái, bởi vì ngài vừa mới đánh bắt được con cá nặng ba mươi hai kí lô về cho Chúa. (bỏ xưng tội đã 32 năm).
Cha sở tạ ơn Chúa, vì mùa chay năm nay thật có ý nghĩa.
-----------
http://nhantai.info
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
http://www.vietcatholic.net/nhantai
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư
LM. Trần Đức Anh OP
11:05 12/04/2014
VATICAN. Trong buổi tiếp kiến 120 bác sĩ tham dự Hội nghị về giải phẫu ung thư, sáng hôm 12-4-2014, ĐTC kêu gọi chú ý đến con người toàn diện và có tinh thần chia sẻ huynh đệ với các bệnh nhân.

Hội nghị do Đại học La Sapienza ở Roma cùng với bệnh viện thánh Andrea tổ chức.

Lên tiếng trong buổi tiếp kiến, ĐTC đề cao vai trò của các bác sĩ như một sự dấn thân có giá trị cao cả, để mang lại câu trả lời cho những mong đợi và hy vọng của nhiều bệnh nhân trên toàn thế giới. Và ngài nói:

”Để có thể nói về sức khỏe trọn vẹn, cần để ý rằng con người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, gồm thể xác và tinh thần. Hai yếu tố này có thể phân biệt, nhưng không tách rời nhau, vì con người là đơn nhất. Vì thế, cả bệnh tật, kinh nghiệm đau khổ, không phải chỉ liên quan đến chiều kích thân xác, nhưng liên hệ tới con người toàn diện.”

ĐTC nhận xét rằng ”cần có một sự chăm sóc chữa trị toàn diện, cứu xét trong người trong toàn bộ và liên kết sự chữa trị y khoa với sự nâng đỡ nhân bản, tâm lý và xã hội, tháp tùng tinh thần và nâng đỡ thân nhân người bệnh. Vì vậy, điều tối cần thiết là các nhân viên y tế ”được hướng dẫn nhờ một quan niệm nhân bản toàn diện về bệnh tật và biết thực hiện một lối tiếp cận thực sự là nhân bản đối với bệnh nhân đang chịu đau khổ” (Gioan Phaolô 2, Tự sắc Dolentium hominum, 11-2-1985).

ĐTC cũng nhắc đến Tuần Thánh bắt đầu với cao điểm là Tam Nhật Thánh cử hành cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Ngài nói: ”Chỉ có Chúa Kitô mang lại ý nghĩa cho cái cớ vấp phạm là sự đau khổ của người vô tội. Anh chị em cũng có thể nhìn lên Chúa chịu đóng đanh và sống lại, khi chu toàn công việc hằng ngày. Dưới thân thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta cũng gặp người Mẹ đau khổ của Chúa. Người là Mẹ của toàn thể nhân loại và luôn gần gũi những người con đau yếu bệnh tật của Mẹ” (SD 12-4-2014)
 
Top Stories
Oxford 2014: Healing the past and hopes for the future
Vatican Radio
12:29 12/04/2014
2014-04-11 Vatican - Theologians from different countries and different Christian traditions are gathered in the English university city of Oxford for the 8th international conference of the Ecclesiological Investigations research network. Their three day meeting is exploring the theme of new hope in ecumenical and interfaith relations, with a particular focus on the English context of Anglican-Catholic dialogue.

From the soaring spires of the medieval Oxford colleges to the brand new, prize winning chapel of the seminary at Cuddesdon where we’re staying, participants in this conference are being constantly challenged by memories of the past as they search for hope in the modern ecumenical movement.

Ripon theological college was built in the mid- 19th century by prolific English architect George Edmund Street who’s best known as the designer of the Royal Courts of Justice in London. A leading practitioner of the Victorian Gothic revival, he also designed the two Anglican churches of All Saints and St Paul’s in Rome . Built in the idyllic and peaceful setting of rural Oxfordshire, just a few miles from the city centre, Ripon is today the largest training institution for Church of England clergy with around 70 men and women currently being prepared for ministry.

On the first evening of the conference, we gathered in its ultra-modern chapel for a liturgy drawn up by the ecumenical Iona Community famed for its new inspirational music and styles of worship. Standing beneath the pale, slender, interlacing timber columns of the chapel’s stark, light filled interior, we remembered the great Lutheran theologian Dietrich Bonhoeffer on the day he was executed in a concentration camp for his defiant resistance to the Nazi regime.

The following day we were taken for a whirlwind tour of some of the oldest Oxford colleges – Christchurch, with its ancient cathedral, stunning stained glass windows but also some surprisingly modern art works designed to make visitors pause and consider the role and place of religion in contemporary society.

Then Oriel college, the birthplace of the Oxford Movement which sought to reclaim the Catholic heritage of the Church of England. At the top of a narrow staircase near the entrance, we visited the small oratory where John Henry Newman prayed and worked before being received into the Catholic Church, while in the grassy graveyard outside his companions John Keble and Edward Pusey are buried.

Finally we finished the day with evening prayer at St John’s college, passing on the road the place where three Anglican bishops Cranmer, Latimer and Ridley, known as the Oxford martyrs, were burnt at the stake under the Catholic Queen Mary in 1555.

Such vivid reminders of past divisions and efforts at reconciliation make a fitting backdrop for this conference. How can we effectively heal bitter memories that continue to hinder the work of reconciliation between the different Christian Churches? How can we recover our shared spiritual heritage from the centuries before the Reformation or the schism between East and West? Participants here are hoping that their discussions, in some small way, can help on that journey of bringing new hope to the ecumenical future
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Người Công giáo Việt Nam mong chờ Lễ Phong Thánh cho ĐGH Gioan Phaolô II
LM Trần Mạnh Duyệt
09:58 12/04/2014
Tiếp theo bài đã đăng "Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với Việt Nam" nay tôi thêm bài này trong khung cảnh sát Lễ Phong Thánh cho Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Chắc có nhiều điểm trùng hớp với các bài viết khác nhưng bạn đọc sẽ thấy có những chi tiết mà chưa ai để cập.

Trong Giáo Hội Công Giáo, để phong thánh cho ai, phải chứng minh được 2 điều: một là nhân đức anh hùng, hai là có được phép lạ. Xem ra giản dị, nhưng vì việc tuyên phong đó, đối với người Công Giáo, như một tiến trình không thể sai sót lỗi lầm nên phải rất cẩn thận chú đáo. Vì vậy việc này rất lớn và quyết định cuối cùng, sau khi tra cứu kỹ càng với nhiều nhân chứng trực tiếp, với kết luận của 2 ủy ban chuyên viên về y học và thần học, Đức Giáo Hoàng đương đại với thẩm quyền tối cao mới khẳng định "Vị Thánh" cho mọi người tôn kính.

Việc tôn kính không có nghĩa chỉ là kính trọng, cầu kinh,"khấn vái", nhưng đặc biệt là noi gương và nêu gương đó cho mọi người noi và bắt chước.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II là gương mẫu sáng lạn về Đức Tin, Đức Ái, Đức Cậy.

Ngài rất đạo đức. Đức Ông Thụ, thư ký riêng của ngài đã kể: cứ sau mỗi giờ làm việc, ngài rời bàn giấy, sang nhà nguyện riêng bên cạnh và quỳ cầu nguyện sốt sắng trước Mình Thánh Chúa; cũng từ bàn giấy nhìn ra cửa sổ thì thấy tại bục cạnh đó, tượng Đức Mẹ lớn hơn một mét, lúc nào cũng có hoa hồng đỏ tươi (là quà tặng của các Hội Dòng chia phiên dâng kính); một buổi tối nọ, đã muộn, nhưng có việc khẩn cấp cần chính Đức Giáo Hoàng tự ý quyết đình, thư ký riêng tìm ngài khắp nới không thấy, cuối cùng khám phá ra ngài đang nằm phủ phục cầu nguyện dưới áo choàng đen trước hang đá Đức Mẹ Lộ Đức trên sân thượng, trong khí đông lạnh buốt...

Về Đức Ái, xin trưng vài sự kiện nhỏ: ngài rất thương Việt Nam, như người cha người mẹ gia đình, biểu hiện tình yêu bằng cả những việc nhỏ bé. Mỗi lần các Đức Cha VN tới Roma là nhà Foyer Phát Diệm, nơi các đấng cư ngụ, nhận được qua Đức Ông Thụ, quà bánh, rượu vang, đủ thứ, do Đức Giáo Hoàng gửi cho; đó là các tặng phẩm du khách biếu ngài; thường thì ngài đem cho Casa Dono di Maria, nằm sát Vatican do các Sơ của Mẹ Teresa Calcutta chăm sóc, để phân phát cho dân nghèo vô gia cư đến ăn tối và ngủ đêm, chỉ giữ lại phần nhỏ để ngài xử dụng và dịp này giao cho Đức Ông Thụ một ít đem về. Vị thư ký nhanh nhẹn đây cũng chú thích ngay cho các linh mục sinh viên Việt Nam "tinh quái" rằng, Đức Thánh Cha bữa nào cũng chỉ có nửa ly rượu trắng và đổ nước cho đầy, tục gọi là "battezzare il vino" (rửa tội cho rượu), chứ không cạn ly như nhiều người Ba Lan quen nốc Vodka... Vì vậy các đấng Việt Nam dù không ưa rượu chè cũng thích bắt chước Đức Thánh Cha để hưởng ơn lộc...

Và thêm một chuyện vui nhỏ nữa làm quà cho đọc giả. Tương tự Thánh Phanxico Assisi đối với chim câu và chó sói, Đức Gioan Phaolô II cũng có chuyện liên quan tới hai loài vật là gà tây và chiên cừu. Một lần rất nhọc mệt sau lễ Giáng Sinh, ngài ra nghỉ tại Castelgandolfo; từ đó, mặc áo thâm chùng như linh mục thường, bảo cha thư ký lẻn lái xe lên núi Mentorella cách Roma 60 km, nơi có ngôi đền cổ, tôn kính Đức Mẹ Hồng Ân, do các cha Ba Lan Dòng Chúa Phục Sinh coi sóc, mà hồi còn là linh mục sinh viên cũng như khi làm giám mục có việc về Roma ngài vẫn thường tới viếng. Vì không báo trước gì cả mà đã hai ngày sau đại lễ, nên chẳng còn gì đáng ăn, cha quản lý nhớ là trong vườn sườn núi của tu viện, còn con gà tây để dành. Thế là cả nhóm các cha Dòng ra áo le bắt con vật quý hiếm. Rồi cả tu viện huyên náo vặt lông, giết thịt và tăng củi than để "tế vật" chóng lên bàn tiệc thượng khách. Đức Thánh Cha sau giờ phút thở than với Đức Mẹ, khi vào lại tu viện chào về thì bị ép buộc ngồi vào bàn ăn và cùng vui vầy với đồng bào thưởng thức lại buổi tiệc Giáng Sinh với những thánh ca truyền thống dân tộc.

Cha quản lý kể chuyện này cho người viết với sự vui mừng và lòng thần phục biết ơn...

Đó là đối với người Ba Lan còn đối với Việt Nam thì Đức Thánh Cha sai Đức Ông Thụ đem tới tặng con chiên nhỏ hiền hòa, quà lễ Phục Sinh của một nhóm hành hương dâng lên trong phần "Dâng Của Lễ". Ai thấy con vật xinh xinh cũng mừng, thích ngắm nhìn nó gặm cỏ trong vườn Foyer Phát Diệm. Nhưng tội một nỗi, nó kêu "be be" suốt đêm làm ai nấy không ngủ được yên giấc; nên quyết định của "toàn dân" là phải ngả thịt sớm.

Công việc này giao phó cho ông già làm vườn, người chỉ vì vâng lời thôi, tay run run mắt rướm lễ phải cắt tiết, làm lông và mổ bụng con vật. Cả nhà hôm đó được bữa "tái chiên" khó quên, khác hẳn, nhưng đối với ta là tốt hơn, ý nghĩ "chiên nướng rô ti" của Người Cho. Đó là những cái nhỏ, nhưng cũng có những thứ giá trị hơn.

Các linh mục Việt Nam ở Roma có lần cười vui với nhau trước Đức Tổng Nguyễn Văn Bình, khi người cho xem hình chụp với Đức Giáo Hoàng: "Đức Tổng không hôn tay Đức Thánh Cha, mà hôn phong bì...". Số là, đối với các giám mục từ các xứ nghèo khó, Đức Thánh Cha vẫn cho một, hai ngàn đôla để trang trải tiền vé máy bay và vài tốn phí lặt vặt, do tiền lương của ngài và bạn hữu gần xa tặng riêng.

Những món quà nhỏ bé đó tượng trương cho những món quà vĩ đại: ngày ngày từ sớm tới khuya chuyên cần chăm sóc Đoàn Chiên Chúa trong sứ vụ điều hành Giáo Hội với việc cầu nguyện, các buổi lễ lớn nhỏ, các bài viết, ngôn từ, gắp gỡ, hội họp và hành động; vô số các cuộc du hành mục vụ nhọc mệt gần xa trên toàn thế giới, nỗ lực kiến tạo hòa bình và thực thi bác ái cho các nước Nam Mỹ, Trung Đông và Phi Châu; tích cực góp phần chính yếu cho việc giải phóng nhiều dân tộc Đông Âu khỏi ách độc tài và sự nghèo đói, bắt đầu từ Quê Hương Ba Lan, dẫn qua việc làm sụp đổ Bức Tường Bá Linh (tháng 11/1989) nhưng đặc biệt là tha thứ cho Alì Agca kẻ mưu sát bắn trọng thương ngài (ngày 13/05/1981) và làm ngài chịu hậu quả nặng nề cho tới chết.

Còn về Đức Cậy, tức niềm hy vọng, thì nơi ngài quả là bao la và thấm nhập mọi ngày mọi giờ phút trong triều đại 27 năm Giáo Hoàng (1978-2005) của ngài.

Lời công bố của ngài với toàn thế giới từ ngày đăng quang: "ĐỪNG SỢ ! HÃY MỞ TUNG CỬA ĐÓN CHÚA KITÔ !" ngài đã sống trọn vện. Hai sự kiện sau đây làm chứng: sau khi bị ngã trong phòng tắm phải băng bó tay phải, không giơ cao được, trong buổi đọc kính truyền tin trưa Chúa Nhật với đại đoàn dân chúng dưới Quảng Trường Thánh Phêrô, ngài dõng dạc lên tiếng: "Anh chị em hôm nay có Giáo Hoàng "deficiente" (khuyết tật)" và giơ TAY TRÁI lên làm dấu thánh giá. Sự kiện thứ hai là ngài khẩn khoản mời ĐHY Thuận của chúng ta giảng cấm phòng cho Giáo Triều mùa chay Năm Thánh 2000. Trong khi giảng, ĐGH ngồi một mình bên trong nhìn ngang thẳng mặt ĐHY và cứ hay tủm tỉm gật gù đắc ý. Sau tuần phòng, chính ĐGH đã giục ĐHY Thuận cho in ra sách các bài giảng của ngài để nhiều người được hưởng nhờ. Thế là cuốn sách "best seller" liền ra đời và mang tên "Chứng Nhân Hy Vọng".

Các giám mục Việt Nam mà than thở với ngài rằng không có tiếng nói, không có phương tiện để rao giáng Phúc Âm thì ngài đã trấn an: "Để cha nói cho ! Cha sẽ nói giúp! "

Tiếng nói của ngài đã, nếu không trực tiếp thì gián tiếp, tới nơi đối tượng.

Do vậy Gioan Phaolô II được ví như kẻ trồng cây: vững mạnh và vui mừng trong hy vọng.

Ngài nằm xuống ngày 02/04/2005. Trong đại lễ an táng có giăng một biểu ngữ lớn do dân tự phát bằng tiếng Ý "SANTO SUBITO !" (Thánh Ngay). Cả triệu dân đắc ý với câu viết đó, nhưng Giáo Hội đòi phải có phép lạ đã. Ngay khi còn sống và nhất là sau khi băng hà, người ta nói tới nhiều ơn lạ, nhiều giúp đỡ huyền bí do sự bầu cử của ngài, nhưng Giáo Hội vẫn dè dặt mọi chuyện.

Cuối cùng phép lạ đòi hỏi đã có: Một nữ tu người Pháp được chứng minh rõ ràng là do xin ngài bầu cử với Thiên Chúa mà được lành bệnh Parkinson trong giai đoạn chót khi các bác sĩ chữa trị phải chịu bó tay: các vị đó cũng như Ủy Ban Y Học đã khẳng định sự khỏi bệnh một cách lạ lùng. Vậy nên tiếp sau kết luận lạc quan của Ủy Ban Thần Học nữa, Đức Thánh Cha Phanxico đương đại sẽ phong thánh cho ngài ngày 27/04/2014. Ngày đó sẽ là ngày vĩ đại tại Roma như nói trên.

Là người VN, xa xôi khó đến, nhưng chúng ta hãy biết rằng ĐGH Gioan Phaolô II rất thương VN (xin đọc bài tôi đã viêt trong www.vietcatholic.net), vậy chỉ cần sốt sắng cầu khấn ngài thì chắc chắn chúng ta sẽ được giúp đỡ tự Trời, như ngày 22/06/1980 ngài đã thân thương đến nhà Foyer Phát Diệm, Roma tìm thăm chúng ta (Để xem nhiều hình ảnh, hãy mở: www. foyerphatdiem.com).
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Quốc tế yêu cầu Việt Nam ngừng sử dụng tù chính trị làm con tin
Người Việt
11:29 12/04/2014
VIỆT NAM (NV) - “Nhà cầm quyền Việt Nam nên ngưng bắt giữ những nhân vật đối lập, sau đó sử dụng họ như con tin để đổi lấy sự nhượng bộ của cộng đồng quốc tế về kinh tế hay quân sự.”

Ủy Ban Bảo Vệ Nhà Báo Quốc Tế (CPJ) vừa đưa ra lời kêu gọi này sau khi nhà cầm quyền Việt Nam phóng thích ông Cù Huy Hà Vũ, một nhân vật bất đồng chính kiến, để ông Vũ sang Hoa Kỳ chữa bệnh.

Trong cuộc trao đổi với VOA, ông Bob Dietz, điều phối viên chương trình Châu Á Của CPJ, cho biết, CPJ hoan nghênh việc trả tự do cho ông Cù Huy Hà Vũ nhưng hết sức lo ngại khi nhà cầm quyền Việt Nam vẫn tiếp tục thi hành chính sách đàn áp, tống giam, ngược đãi những nhân vật bất đồng chính kiến, hoạt động cho dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, sử dụng tù chính trị như những con tin để đem ra đổi chác với cộng đồng quốc tế.

Theo ông Dietz, tuy cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ đều chưa thông tin chính thức về trường hợp ông Cù Huy Hà Vũ được trả tự do nhưng có thể suy đoán là giữa hai bên đã đạt được một số thỏa thuận trong vụ này.

Ông Cù Huy Hà Vũ không phải là trường hợp đầu tiên bởi trong quá khứ, Việt Nam vẫn thường xuyên hành sử như vậy.

Việc ông Cù Huy Hà Vũ được trả tự do diễn ra trong bối cảnh nhà cầm quyền Việt Nam đang cần Hoa Kỳ hỗ trợ về nhiều mặt. Từ nhu cầu tăng cường “hợp tác quân sự” với Hoa Kỳ để đối phó với tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên biển Ðông, đến sự ủng hộ của Hoa Kỳ để trở thành một thành viên trong Hiệp Ðịnh Ðối Tác Tự Do Thương Mại Xuyên Thái Bình Dương (TPP) để kinh tế Việt Nam có thể hồi phục. Hoa Kỳ đã nhiều lần khẳng định, chỉ đáp ứng những nhu cầu này nếu Việt Nam đạt được những tiến bộ cụ thể về “nhân quyền.”

Ông Dietz dẫn trường hợp ông Ðinh Ðăng Ðịnh, một trong những người tù chính trị từng liên tục được cộng đồng quốc tế yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam phóng thích, cuối cùng được chính quyền Việt Nam trả tự do như một sự đáp ứng yêu cầu này, khi ông trong tình trạng “thập tử, nhất sinh” và trên thực tế, ông Ðịnh đã qua đời chỉ hai tuần sau khi được trao “quyết định đặc xá” là vô nhân đạo.

Ðến nay, nhiều người tù chính trị như ông Nguyễn Văn Hải (blogger Ðiếu Cày) được cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm, đòi nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do từ lâu vẫn đang bị cầm giữ. Ðiều đó cho thấy, nhà cầm quyền Việt Nam vẫn cố tình thực hiện chính sách bất khoan dung đối với những người bất đồng chính kiến.

Ðây cũng là lý do ông Dietz kêu gọi cộng đồng quốc tế tỉnh táo khi thảo luận với Việt Nam về vấn đề nhân quyền.

Theo ông Dietz, khi Việt Nam đã là một thành viên của Hội Ðồng Nhân Quyền Quốc Tế thì vấn đề mà cộng đồng quốc tế cần quan tâm, không nên là bao nhiêu tù chính trị đã được thả mà cần là bao giờ chính quyền Việt Nam chấm dứt đàn áp, không tận dụng việc đàn áp như một phương tiện để đạt đến nhiều mục tiêu khác nhau.

Ông Dietz cảnh báo nhà cầm quyền Việt Nam rằng, chính sách “xuất cảng tù chính trị để đổi chác quyền lợi” không phải là phương thức phát triển, mà cần chấm dứt chính sách này. (G.Ð)

(Nguồn: http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=186248&zoneid=1#.U0l20mdOV9A)
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Lễ Lá : Từ miền thấp lên cao
Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long
10:07 12/04/2014
Từ miền thấp lên cao

Hằng năm người Công Giáo mừng Chúa Giêsu vào thành thánh Gierusalem ngày Chúa Nhật lễ Lá.

Nhưng đâu là ý nghĩa ngày lễ mừng này?

Lễ mừng này không chỉ có nguồn gốc nơi Kinh Thánh, lịch sử của đức tin, nhưng còn nói đến ý nghĩa về cuộc đời Chúa Giêsu, Đấng sáng lập Hội Thánh Chúa ở trần gian từ hơn hai ngàn năm qua.

Chúa Nhật lễ Lá theo nguyên ngữ tiếng Latinh Dominica in Palmis de passione Domini,. Chúa Nhật này là Chúa Nhật thứ sáu và cũng là Chúa Nhật cuối cùng mùa chay, cùng là Chúa Nhật trước lễ Chúa Giêsu phục sinh. Từ Chúa Nhật lễ Lá bắt đầu Tuần Thánh, theo tập tục nếp sống đức tin của Hội Thánh Công gíao và Giáo Hội Chính Thống.

Ngày Chúa Nhật lễ Lá nhắc nhớ lại biến cố Chúa Giêsu tiến vào thành Thánh Giêrusalem như một vị Vua. Khi Ngài vào tới thành Thánh được dân chúng hoan hô vạn tuế Hosanna đón chào như một vị Vua ( Ga 12,13-15; Mt 21,1-11; Lk 19, 28-40.)

Dân chúng đón chào Vua Giêsu đang cỡi con lừa đi vào không chỉ qua lời tung hô vạn tuế Hosanna, nhưng họ còn cầm cành lá vạn tuế chiến thắng vẫy chào, cùng trải khăn áo ra ngoài đường phố đón mừng Ngài nữa.

Cành lá vạn tuế chiến thắng xưa kia ở nhiều nơi là „ cây thánh thiêng“. Ở vùng biển Địa trung hải cành lá vạn tuế chiến thắng là hình ảnh của sự sống, của chiến thắng vinh quang. Với người Do Thái còn mang ý nghĩa đặc biệt về hình ảnh nói lên sự độc lập và của Vua chiến thắng khải hoàn (1 Maccabe 13,51, 2 Maccabe 14,4). Vì thế, cuộc tiến vào thành Giêrusalem với cành lá vạn tuế tung hô, dưới mắt người Roma là một hình thức đe dọa thách thức quyền uy thống trị đế quốc của họ.

Cành lá vạn tuế theo Thánh Vịnh trong Kinh Thánh mang ý nghĩa chỉ về sự công chính: Người công chính của Thiên Chúa xanh tươi như cánh là vạn tuế (Tv 92,13). Cây cành vạn tuế có rễ ăn sâu trong dòng nước sự sống. Nơi đó người công chính cũng bắt nguồn đời sống mình.

Trong Lễ Lều Trại của người Do Thái, cành lá vạn tuế là hình ảnh của sự vui mừng. Lễ Lều Trại nhắc nhớ đến cuộc xuất hành đi trong sa mạc của dân Do Thái từ Ai Cập trở về quê hương đất nước Do Thái. Trong thời gian đi trong sa mạc họ cư ngụ trong các lều trại.

Con lừa theo sách Tiên tri Sacharia 9,9 là hình ảnh của vị Vua hòa bình không có quyền hành sức mạnh, là hình ảnh của sự khiêm nhường, của sự nghèo khó.

Chúa Giêsu cỡi lừa vào thành Giêrusalem nói lên hình ảnh mang ý nghĩa: Ngài không xây dựng nước Thiên Chúa trên quyền hành sức mạnh, Ngài không dùng sức mạnh quân sự làm cách mạnh chống lại người Roma. Quyền hành của Người là một hình thái khác: Đó là sự nghèo khó của Thiên Chúa, nền hòa bình của Thiên Chúa, là sức mạnh ơn cứu chuộc phần linh hồn con người.

Lời tung hô Hosanna dân chúng gào thét đón mừng Vua Giêsu, theo nguồn gốc là lời kêu xin: Xin hãy cứu giúp! Vào lễ Lều Trại (Laubtenhuettenfest) của người Do Thái, vị Tư Tế khi tiến vào nơi bàn thờ tế lễ nói lời kêu xin „Hosanna“ xin cho được nước mưa từ trời cao rơi xuống trên trần gian. Và lời cầu xin Hosanna từ đó biến thành lời thố lộ sự mừng rỡ hân hoan.

Lời tung hô Hosanna dân chúng gào thét ngày Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem nằm trong ý nghĩa lời vui mừng ca tụng Thiên Chúa đang tiến vào thành Giêsrusalem. Đồng thời cũng còn mang ý nghĩa nói lên niềm hy vọng vào thời giờ của vị cứu thế đang đến, cùng xin vương quốc của vua David và vương quốc của Thiên Chúa thể hiện mới lại trên dân Israel.



Để kỷ niệm cuộc tiến vào thành Giêrusalem của Chúa Giêsu ngày xưa, từ thế kỷ thứ 4. Giáo Hội Chính Thống đã có truyền thống rước cành lá ngày Chúa Nhật lễ Lá.

Truyền thống lễ nghi rước Lá ngày Chúa Nhật lễ Lá nơi đạo Công Giáo có muộn hơn từ thế kỷ thứ 8.

Ngày nat, cuộc rước kiệu Lá mang ý nghĩa cảm động rất đặc biệt hằng năm diễn ra ở Giêsusalem. Vào ngày này hàng ngàn người hành hương với cành lá trên tay cùng nhạc cụ do Dòng Phanxico tổ chức rước kiệu từ Vườn Cây Dầu đi qua cổng thành tiến vào phố cổ thành Giêrusalem.

Các Thánh sử viết phúc âm Chúa Giêsu tường thuật chi tiết cuộc hy sinh khổ nạn Chúa Giêsu và sự phục sinh sống lại vào dịp lễ mừng Vượt Qua của người Do Thái. Thánh Luca Thánh sử diễn tả con đường của Chúa Giêsu như con dường hành hương leo lên cao từ miền Galile lên Giêrusalem.

Theo phương diện hình thể địa lý, biển hồ Galile miền Nazareth ở vị trí 200 mét thấp hơn mặt nước biển, còn Giêrusalem nằm ở vị trí trung bình 760 mét cao hơn mặt nước biển. Như thế, Chúa Giêsu từ nơi ngài sinh sống ở miền Galile dưới thấp vượt đường leo lên Giêrusalem trên vùng cao nói lên ý nghĩa: sự đi lên cao của Ngài nơi đền thờ Giêrusalem là địa điểm, mà Thiên Chúa cho danh tính Ngài được cư ngụ, như trong sách Dân số 12, 11, 14,13 đã nói đến.

Cuộc hành hương leo lên đền thờ thành Giêrusalem là cao điểm sự hy sinh chịu chết được dương lên cao treo trên thập gía của Chúa Giêsu mở đầu với biến cố cỡi con lừa tiến vào thành Giêrusalem ngày lễ Lá.

Chúa Nhật lễ Lá 2014

Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu
Vũ Văn An
15:22 12/04/2014
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu

Linh mục Victor Hoagland, Dòng Khổ Nạn (Passionist), đã mở cả một trang mạng (www.cptryon.org/xpipassio) để nói đến Cuộc Khổ Nạn Của Chúa Giêsu về mọi phương diện.

Chia sẻ sự an ủi của tình yêu Thiên Chúa

Theo ngài, cái chết khổ nhục đau đớn và công khai của Chúa Giêsu qua hình phạt đóng đinh là một câu truyện được các Kitô hữu kể lại vì nó hết sức chủ yếu đối với đức tin của họ. Đây là câu truyện chính Chúa Giêsu đã thuật lại trước hết, Đấng đã sống lại từ cõi chết.

Như ta thấy ngày nay, Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ được truyền tụng qua các thế kỷ, nếu chính Chúa Giêsu không biến nó thành một phần trong mặc khải Phục Sinh của Người. Các sử gia thời Người không bao giờ nhắc đến nó; Chúa Giêsu quá vô nghĩa không đủ để họ chú ý. Mà giả dụ Người có đáng để ý chăng nữa, thì câu truyện đóng đinh vẫn khó mà được thuật lại. Rải rác lắm mới có một vài lời nhắc tới việc đóng đinh trong các trước tác của người đương thời với Chúa Giêsu; tất cả những người này đều tởm gớm hành vi man rợ này.

Cả các môn đệ của Chúa Giêsu nữa, để mặc họ, không ai kể lại cho ta câu truyện này cả. Thực thế, các tin mừng mô tả các môn đệ của Người hoàn toàn thất vọng bởi các biến cố diễn ra tại Giêrusalem trong những ngày định mệnh kia; họ không muốn thuật lại sự thất bại ê chề ấy, cũng là sự thất bại của chính họ. Ta hãy đọc lại trình thuật nói về hai môn đệ rời thành phố vào ngày Phục Sinh để trẩy đi Emmau (Lc 24:13-35). Họ là những môn đệ muốn vứt lại phía sau cái ký ức khủng khiếp của Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Không, tự ý họ, họ sẽ không bao giờ để lại cho chúng ta câu truyện về những gì chính họ được chứng kiến.

Chính Chúa Giêsu, khi sống lại từ cõi chết, đã dẫn khởi việc thuật lại câu truyện khổ nạn và cái chết của Người, và Người đã thay đổi ý nghĩa của nó mãi mãi.

Các tin mừng Phục Sinh đều mô tả về nó. Hiện ra với các môn đệ vào hôm đó “Chúa Giêsu đến đứng giữa họ và nói: ‘Bình an cho các con’. Khi nói điều đó, Người giơ tay và cạnh sườn Người cho họ thấy. Lúc ấy, các môn đệ rất vui mừng vì được thấy Chúa” (Ga 20:19-21). Cuốc bộ với hai môn đệ trên đường Emmau cùng ngày này, Chúa Giêsu nói: “Há không cần thiết sao việc Chúa Kitô phải chịu những sự việc ấy mới vào được vinh quang của Người?’ Rồi bắt đầu với Môsê và mọi tiên tri, Người giải thích cho họ mọi điều Thánh Kinh nói liên quan tới Người” (Lc 24:26-27). Các trình thuật Khổ Nạn như ta có hiện nay trong các tin mừng đã phát triển từ việc kể lại đầu tiên bởi Chúa Kitô Sống Lại.

Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu là một câu truyện Phục Sinh, và do đó, nó đem lại niềm hy vọng. Sống lại từ cõi chết, Chúa Giêsu không dấu diếm các thương tích của Người; Người giơ chúng ra cho các môn đệ xem thấy. Chúa Giêsu không bác bỏ các đau khổ và cái chết của Người như một thất bại đáng xấu hổ; Người mặc khải quyền năng Thiên Chúa nơi chúng. Và thay vì là một câu truyện lên án họ, Chúa Giêsu đã làm trái tim các môn đệ bừng cháy lên bằng cách tưởng nhớ tới nó, và đem họ tới niềm vui khôn tả.

Và do đó, chúng ta lưu giữ trong tâm trí Cuộc Khổ Nạn của Người như một câu truyện Phục Sinh. Không nên mổ xẻ nó bằng con mắt sử gia, dù nó bắt nguồn từ lịch sử. Đúng hơn, giống các môn đệ Emmau, ta nên nhìn nó từ viễn tượng đau khổ và nan đề của chính ta. Và cũng như đối với các môn đệ xưa, Chúa Kitô Phục Sinh cũng sẽ giúp ta tái giải thích đời ta dưới ánh sáng đời Người. Từ mầu nhiệm này, ơn phúc mênh mông sẽ tuôn chẩy ra: ơn hân hoan, kiên vững và cảm thương.

Các trang này được viết ra để ta lưu giữ mầu nhiệm vĩ đại trên trong tâm trí. Nó là câu truyện cứu rỗi của ta, câu truyện hy vọng của ta. Như một cuốn sách khôn ngoan và dịu dàng, nó cho ta hay phải suy nghĩ ra sao về cuộc đời, phải sống như hế nào, phải sử dụng thế giới này ra sao, phải chờ mong điều gì, phải hy vọng những gì.

Mệnh phụ Julian thành Norwich từng nói: “Cuộc Khổ Nạn của Chúa Kitô là niềm an ủi cho ta. Người an ủi ta cách sẵn lòng và nhân hậu và cho hay: mọi sự sẽ đâu vào đó, và mọi loại sự vật đều sẽ đâu vào đó cả”.

Mục tiêu của trang mạng này là chia sẻ niềm an ủi của tình yêu Thiên Chúa, như đã được tỏ hiện nơi cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu.

Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu: Lịch Sử và Ký Ức Sống Động

Theo Cha Donald Senior,C.P., cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu vừa là một biến cố lịch sử bắt nguồn từ quá khứ vừa là một ký ức sống động đầy năng lực đem lại ý nghĩa cho hiện tại.

Là một biến cố quá khứ, cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu diễn ra đâu đó khoảng năm 30 CN trong thế giới đầy biến động của Do Thái Giáo tại Palestine thế kỷ thứ nhất. Chúa Giêsu, lúc ấy đang là một vị thầy tôn giáo đầy thuyết phục, bị bắt ở Giêrusalem và bị xử đóng đinh công khai, một hình thức tử hình của người Rôma. Các tin mừng mô tả cái chết của Chúa Giêsu như đỉnh cao sứ mệnh của Người, hành vi yêu thương và phục vụ vô vị lợi cuối cùng dùng để niêm ấn cho một cuộc đời hoàn toàn dấn thân cho người khác. Cái chết của Chúa Giêsu làm chứng một cách tiên tri cho chính nghĩa công lý của Thiên Chúa. Bất chấp chống đối và thù nghịch nhắm vào mình và sứ mệnh của mình, Chúa Giêsu vẫn trung thành đến tận cùng và cuối cùng đã được tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu mạnh hơn sự chết, làm cho sáng tỏ.

Nhưng đối với đức tin Kitô Giáo, cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu không đơn thuần chỉ là một cái chết anh hùng và thương tâm bị giới hạn vào lịch sử đã qua. Cuộc khổ nạn này tiếp tục sống mãi trong đức tin và cảm nghiệm của cộng đồng Kitô Giáo. Qua hiệp thông huyền nhiệm của Thiên Chúa với nhân loại, các đau khổ của Chúa Giêsu tiếp tục nơi sự đau khổ của mọi con cái Thiên Chúa, cho tới tận thời khắc hiện nay. Người già lắng lo và đơn côi trong viện dưỡng lão hướng mặt về phía tượng chịu nạn treo trên tường. Bậc cha mẹ đớn đau khôn lường vì mất đứa con thân yêu đang khụyu đầu gối như Chúa Giêsu trong Vườn Diệtsimani. Người tị nạn mất nhà mất cửa, mất hết vợ con, vì bạo lực bất nhân và không bút nào tả xiết đang kêu cầu như Chúa Giêsu “Lạy Chúa, Lạy Chúa, tại sao Chúa bỏ rơi con?”. Nhà lãnh tụ dưới sự đe dọa của cái chết vẫn cứ nói sự thật về chế độ bạo tàn vì nhớ lại rằng tiên tri Giêsu vẫn cứ hướng mặt mình về Giêrusalem. Người y tá lau mồ hôi khỏi trán một bệnh nhân AIDS mà nhận ra gương mặt của Chúa Giêsu chịu đóng đinh.

Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu quả là một biến cố lịch sử cuối cùng đã đem ý nghĩa và sức mạnh lại cho toàn bộ sứ mệnh của Người và là một ký ức sống động, một ơn thánh mạnh mẽ đem ý nghĩa và hy vọng lại cho mọi đau khổ của con người. Các trình thuật tin mừng về khổ nạn gồm tóm cả hai chiều kích vừa nói, nghĩa là vừa bén rễ các trình thuật của mình trong các lưu truyền lịch sử về những ngày sau hết của Chúa Giêsu vừa mời gọi người đọc tìm thấy nơi cuộc khổ nạn này ý nghĩa tối hậu cho kiếp người và cho dấn thân Kitô Giáo.

Những bài trình bày ở đây vì thế chứa đựng cả hai chiều kích trong cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu. Chúng không dành cho các nhà chuyên môn mà dành cho các Kitô hữu và những người suy tư nào muốn biết nhiều hơn về câu truyện đầy cảm kích này. Qua việc nhắc lại cách mô tả khác biệt sự đau khổ của Chúa Giêsu trong mỗi tin mừng, trang mạng này muốn mời gọi độc giả bước sâu vào mầu nhiệm khổ nạn và đem các trải nghiệm riêng của mình vào cuộc tiếp xúc sinh tử với điều cốt lõi này của sứ điệp Kitô Giáo. Việc này từng được mọi thế hệ Kitô hữu thực hành bằng lời nói, bằng nghệ thuật và bằng thực hành đạo đức, như chất liệu lòng sùng kính cuộc khổ nạn từng gợi lên cho ta. Đồng thời, việc thông tri có tính lịch sử phát sinh từ việc nghiên cứu các bản văn tin mừng sẽ nhắc ta nhớ rằng cái chết của Chúa Giêsu không phải là một bịa đặt do trí tưởng tượng Kitô Giáo tạo ra mà là một biến cố bắt nguồn từ các phức tạp và căng thẳng của thế kỷ thứ nhất trong lịch sử.

Dẫn vào các chú giải Tin Mừng Khổ Nạn

Linh mục Donald Senior, C.P., cho rằng các trình thuật khổ nạn cung cấp đỉnh điểm cho cả bốn sách tin mừng bằng cách nắm được các chủ đề xuyên suốt toàn bộ việc mô tả cuộc đời Chúa Giêsu cho tới lúc được hoàn tất cách đầy cảm kích. Với những nét khéo léo, các phúc âm gia đã kể lại cho ta những giờ phút sau cùng của đời Chúa Giêsu: bữa ăn cuối cùng của Người với các môn đệ; việc Người bị bắt tại Diệtsimani; việc Người bị các lãnh tự tôn giáo tra vấn; việc Người bị Philatô xử án; và cuối cùng khung cảnh nát lòng của đóng đinh, chết và an táng.

Các hoài niệm lịch sử, các nơi thánh

Các trình thuật khổ nạn bắt nguồn từ những ký ức có tính lịch sử của Giáo Hội sơ khai và chắc chắn rất phản ảnh thế giới Do Thái Giáo mà Chúa Giêsu vốn biết và yêu thương. Không như phần lớn câu truyện tin mừng được định vị ở miền bắc Galilê nơi Chúa Giêsu thi hành phần lớn thừa tác vụ công khai của Người, các trình thuật khổ nạn diễn ra ở Giêrusalem, thủ đô của tỉnh Giuđêa phía nam và, đối với phần đông người Do Thái kể từ thời Vua Đavít thế kỷ thứ 9 trước CN, là trung tâm có tính bản sắc của đời sống Do Thái.

Tại đây có Đền Thờ, địa điểm thánh thiêng nhất tại Israel nơi thánh nhan Thiên Chúa tỏ tường hơn cả. Cung thánh phía trong Đền Thờ có chứa Hòm Bia Giao Ước, tức chiếc hòm lưu động chứa hai tấm bảng lề luật mà dân Do Thái đem theo trong hành trình sa mạc từ Ai Cập tới đất hứa. Không ai được bước quá tấm màn che cung thánh phía trong này mà bước vào nơi tuyệt đối thánh thiêng, ngoại trừ vị thượng tế, là người mỗi năm một lần vào ngày Lễ Yom Kippur, tức ngày xá tội, được vào để thanh tẩy cung thánh này một cách biểu tượng khỏi tác dụng của tội lỗi có thể đã lọt vào nơi đây.

Phụng vụ đền thờ là các tư tế và các thầy Lêvi, là những người bảo quản nền phụng vụ đền thờ và trợ giúp các khách hành hương từ Israel và các nước trong thế giới Địa Trung Hải tới dâng hy lễ và cầu nguyện trong các ngày đại lễ của niên lịch Do Thái Giáo. Thời Chúa Giêsu, đền thờ là một cấu trúc nguy nga, do Hêrốt Đại Vương xây dựng, người đã để lại cả một di sản đồ sộ gồm nhiều dự án xây dựng ồ ạt khắp Israel: thành phố cảng Xêdarêa, thủ đô phía bắc Samaria, các lâu đài kiên cố tại Masada và Herodium… Nhưng đền thờ Giêrusalem là công trình tuyệt hảo hơn hết của vị vua này với những bức tường đồ sộ, trang trí tinh xảo và nhất là những quảng trường bao la. Khi Chúa Giêsu tới đây vào khoảng năm 30 CN để hoàn tất sứ mệnh của Người, thì ngôi đền đang ở giai đoạn xây dựng cuối cùng của nó.

Giêrusalem, trung tâm chính trị của một bi kịch tôn giáo

Từ thời Vua Đavít, Giêrusalem vốn cũng là một trung tâm chính trị; là thủ phủ của nền quân chủ thống nhất dưới quyền Vua Đavít và Vua Salômôn. Rồi sau đó là thủ phủ của Vương Quốc Giuđêa phương Nam trog nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, vào thời Chúa Giêsu, Giêrusalem và các tính Giuđêa và Samaria dưới quyền cai trị trực tiếp của Rôma. Đây là những vùng duy nhất của Israel chịu một số phận như thế. Ác-ki-laô, một trong các con trai của Đại Vương Hêrốt, người được Rôma chỉ định làm vua Do Thái chư hầu, là người tàn ác và bất tài, cuối cùng bị người Rôma hạ bệ vào năm 6 CN. Từ đó, một loạt các tổng trấn Rôma thay nhau đảm nhiệm việc cai trị trực tiếp Giuđêa và Samaria, sử dụng thành phố duyên hải Xêdarêa Maritima làm thủ đô cai trị và chỉ tới Giêrusalem trong những ngày lễ lớn, nhất là dịp đại lễ theo niên lịch Do Thái Giáo. Năm 30 CN, tổng trấn Giuđêa lúc đó là Phông xiô Philatô và, theo tập tục, ông phải tới Giêrusalem dự lễ Vượt Qua của Do Thái Giáo.

Thế là sân khấu cho vở bi kịch khổ nạn đạ được xếp đặt. Chúa Giêsu, vị tiên tri quê Galilêa, người chữa bệnh và vị thầy ngoại thường, sẽ đem sứ mệnh của Người tới Giêrusalem. Vài ngày trước ngày lễ, quây quần bởi những người ái mộ và tò mò, Người vào thành phố và đền thờ nguy nga. Ở đấy, đúng theo phong cách một tiên tri, Người thực hiện hàng loạt hành động cảm kích và táo bạo, dám cắt đứt các dịch vụ giúp khách hành hương đổi tiền “dơ” Rôma lấy tiền “sạch” của đền thờ và ngăn cản những ai vào đó để thực hành việc đạo đức. Tất cả các cử chỉ này dường như đều được tính toán như những lời tuyên bố tiên tri rằng đền thờ này, dù tráng lệ nguy nga, cũng sẽ được phá hủy trong thời đại Kitô đang đến.

Tiếng tăm của Chúa Giêsu như một bậc thầy đầy khiêu khích và một người chữa bệnh đáng nể sợ hình như đã tới Giêrusalem trước Người, ta không biết chắc điều này, nhưng chắc chắn hành động tại đền thờ của Người hẳn bị cả người Do Thái lẫn người Rôma coi là nguy hiểm. Dù người Rôma nắm giữ quyền lực tối hậu tại Giuđêa, họ vẫn phải trông nhờ các thẩm quyền Do Thái địa phương: đó là các tư tế hàng đầu và những trưởng lão khác, để duy trị trật tự công cộng. Các lãnh tụ tôn giáo chẳng ưa gì người Rôma và thẩy đều là những người tha thiết đối với việc giải phóng Israel, nhưng họ cũng rất thận trọng đối với bất cứ ai làm cớ cho người Rôma can thiệp và đàn áp hơn, nhất là người nói ra nhiều chủ trương tôn giáo đầy khiêu khích về chính mình và về sứ mệnh của mình.

Các trình thuật khổ nạn không phải là các trình thuật kiểu cảnh sát

Các câu truyện về khổ nạn nhất trí với nhau về các giai đoạn căn bản trong những ngàysau cùng của Chúa Giêsu. Người tới Giêrusalem để cùng các môn đệ cử hành Lễ Vượt Qua, là lễ tưởng niệm hàng năm biến cố giải phóng Israel khỏi cảnh nô lệ của Ai Cập và lời khẳng định của họ vào sự giải thoát trong tương lai của Chúa. Đêm trước khi chết, sau bữa ăn sau cùng với các môn đệ, Người cùng với họ đi cầu nguyện ở vườn ôliu trên sườn đồi phía tây Núi Cây Dầu, đối diện với đồi đền thờ. Ở đây, Người bị bắt bởi một băng có vũ khí do các lãnh tụ tôn giáo ủy nhiệm, và rất có thể được cả các thẩm quyền Rôma hỗ trợ. Một trong các môn đệ của Người là Giuđa Iscariốt thông báo tung tích của Người cho các nhà cầm quyền. Khuya đêm đó, Chúa Giêsu bị tra vấn bởi một một cuộc hội họp của các lãnh tụ tôn giáo, có lẽ trong mưu toan lên công thức cho các cáo buộc chống lại Người. Ngày hôm sau, Người bị điệu tới Philatô để lấy khẩu cung chính thức, vì Philatô, hình như lúc đó đang ngụ tại dinh cũ của Hêrốt, có thẩm quyền pháp lý trong những trường hợp như thế này. Sau một chút do dự, Philatô kết án đóng đinh Chúa Giêsu, một hình thức xử tử công khải đầy kinh hãi của Rôma thường chỉ dành cho các trường hợp dấy loạn. Có lẽ Philatô nghĩ Chúa Giêsu là người hơi điên điên nhưng vẫn nguy hiểm, có tham vọng nắm quyền.

Như thường lệ, vụ xử tử diễn ra nhanh chóng. Chúa Giêsu bị đánh rồi bị diễu qua phố xá để tới một ngọn đồi dành cho các vụ xử tử công khai gần nghĩa địa bên ngoài một trong các cổng của Giêrusalem. Ở đấy, Người bị lột trần truồng rồi bị đóng đinh vào thập giá. Đóng đinh là một biến cố công cộng, nhằm nhục mạ nạn nhân bằng một cái chết từ từ và đau đớn và nhờ đó biến chính nghĩa của nạn nhân thành vô giá trị. Chúa Giêsu chết chỉ vài giời sau khi bị đóng đinh vào thập giá, có lẽ vì nhiều yếu tố hoà lẫn với nhau như sốc, kiệt sức, và bị nghẹt thở từ từ. Một người có thiện cảm với Chúa Giêsu, người dường như sở hữu một chiếc mộ kiểu hang đá tại nghĩa địa đá vôi gần đó, xin được phép tháo xác chúa Giêsu xuống khỏi thập giá và đã chôn Người trước lúc mặt trời lặn, theo phong tục Do Thái.

Đó là những “sự kiện” căn bản không chút tô điểm của những giờ phút cuối cùng của Chúa Giêsu tìm thấy trong các trình thuật khổ nạn. Ấy thế nhưng, nguyên các sự kiện thô sơ này mà thôi chưa lôi kéo được sự quan tâm của các soạn giả tin mừng. Đối với họ, điều quan trọng hơn nhiều là ý nghĩa của câu truyện đau thương và chết chóc này: đau khổ này là vì ai. Các trình thuật khổ nạn không phải là các trình thuật kiểu cảnh sát, tức là chỉ tường trình những sự kiện lạnh lùng của một vụ xử tử công cộng, nhưng là thành phần chủ yếu của câu truyện Kitô Giáo về Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, và việc Người chiến thắng sự chết cách hân hoan. Các sách tin mừng là lời công bố hay rao giảng, thuật lại bằng hình thức kể truyện ý nghĩa đời sống, sự chết và sự sống lại của Chúa Giêsu đối với chúng ta.

Tưởng nhớ câu truyện

Bởi thế, ngay từ thuở đầu của Giáo Hội, các Kitô hữu đã tụ họp nhau không những để tưởng nhớ câu truyện cái chết của Chúa Giêsu mà còn để hiểu sự chết này dưới ánh sáng việc Người sống lại và dưới cái phông lời Thiên Chúa, tức Cựu Ước, vốn là Thánh Kinh của Giáo Hội sơ khai. Khi thuật lại câu truyện cái chết của Chúa Giêsu từ vọng nhìn đức tin phục sinh, các Kitô hữu sơ khai hy vọng hiểu rõ hơn không những về Chúa Giêsu mà cả ý nghĩa của chính việc họ gặp gỡ đau khổ và cái chết. Câu truyện nguyên khởi về khổ nạn mà sau này gây ảnh hưởng cho trình thuật khổ nạn của Thánh Máccô có lẽ đã được lên khuôn trong khung cảnh thờ phượng, không khác Tam Nhật Tuần Thánh khi các Kitô hữu tụ họp nhau hàng năm để cử hành trong cầu nguyện bữa tiệc ly của Chúa Giêsu với các môn đệ, cuộc khổ nạn, cái chết và sự sống lại vinh hiển của Người. Cũng thế, các cộng đồng Kitô hữu tiên khởi nhất cũng đã tụ họp nhau trong tinh thần cầu nguyện và suy gẫm để nhắc lại các biến cố chủ chốt của những ngày định mệnh tại Giêrusalem nhưng cũng để đọc các thánh vịnh và suy gẫm về các tiên tri và các đoạn văn vĩ đại nào trong sách thánh của họ có thể đem lại ý nghĩa cho các biến cố ấy. Với thời gian, việc đọc có tính lịch sử này kèm theo các lời nguyện và các bài đọc sách thánh đã được hòa lẫn với nhau một cách không thể nào tách biệt nhau được nữa trong các trình thuật khổ nạn được các sách tin mừng truyền lại cho ta.

Khi lãnh nhận trách vụ soạn thảo sách tin mừng của mình, thánh Máccô hẳn đã có sẵn trình thuật khổ nạn như trên, có thể là một trình thuật được truyền tụng qua ký ức và được trân quí trong việc thờ phượng tại cộng đồng Kitô hữu của chính ngài. Khi Thánh Máccô thuật lại câu truyện về cuộc đời Chúa Giêsu, trình thuật khổ nạn này hẳn đã tạo nên tận điểm và đỉnh cao của nó, một khuôn mẫu sẽ được mỗi sách tin mừng khác rập theo.

Tinh thần trong đó các trình thuật khổ nạn được viết ra

Do đó, mục đích của loạt bài này là đọc các truyện kể về khổ nạn trong tinh thân chúng được viết ra, với ý hướng không hẳn nhằm chép lại lịch sử đứng đàng sau các bản văn này nhưng đúng hơn để thấm nhập cái hiểu đức tin về sự chết của Chúa Giêsu là điều đã tràn ngập các bản văn này. Mất hút trong sự thân quen đối với các câu truyện mà phần đông chúng ta từng được nghe suốt cả đời này, có thể là sự kiện: mỗi soạn giả tin mừng kể lại trình thuật đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu một cách khác nhau hẳn. Vì mỗi soạn giả tin mừng viết cho một cộng đoàn Kitô hữu khác nhau và vì mỗi vị được phú cho một văn phong kể truyện độc đáo và một quan điểm đặc thù, nên bốn trình thuật đã ra khác nhau. Giống như bốn nghệ sĩ vĩ đại, mỗi soạn già tin mừng sản xuất ra bức chân dung tuyệt hảo về Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Điều này đúng đối với trọn bộ tin mừng của họ và cũng đúng đối với cách các vị trình bày cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu.

________________________________________

In Search of the Passion of Jesus Christ: History, Archeology, Devotion by Victor Hoagland, C.P.

Jerusalem After Jesus by Victor Hoagland, C.P.

Besides the gospel stories, do other sources shed light on the events of Jesus' Passion?

The city of Jerusalem itself, where Jesus' Passion took place, is a likely place to look. What makes our search difficult, however, is the almost complete devastation the city suffered in the Roman siege that leveled most of its walls and buildings during the Jewish revolt in 70 A.D.. With brutal thoroughness, the legions of the Roman general Titus destroyed the city, killing or enslaving its inhabitants. Some of the fiercest fighting took place around the traditional place of Calvary. The city was completely rebuilt by the Emperor Hadrian in the late second century.

After the Roman period, Persian, Moslem, and Crusader armies swept through the Holy Land, destroying or rebuilding on the sacred sites. For almost two thousand years, the land has suffered more than its share of wars, earthquakes and other natural disasters. The city is hardly a place one expects to find many traces of the past. Yet traces remain.

Jerusalem Rebuilt by Hadrian

After a second Jewish revolt in 135 A.D. the Emperor Hadrian sought to obliterate all trace of the ancient city by completely rebuilding Jerusalem as a Roman city, using the plan followed by Roman builders for constructing a colony. The plan resulted in a city smaller in size than before, which can still be seen in the street-plan of present-day Jerusalem. Renaming it "Aelia Capitolina", Hadrian repopulated his new city with foreign colonists and prohibited Jews from entering the city under pain of death. Statues of Roman gods and goddesses replaced sacred Jewish sites. Little remained, at least visibly, of Jerusalem's Jewish past except the desolate foundation of the temple.

he Jewish-Christian Community

Even so, there is some evidence that a small Jewish-Christian community continued to meet on Mount Sion in the southern outskirts of the city, though its activities were restricted. They cherished certain sites associated with the memory of Jesus: a cave at Bethlehem marking his birth, a cave near the summit of Mount of Olives marking his last teachings to his disciples and his ascension, and the site of his death and resurrection which they placed alongside the forum in Hadrian's new city, where the Romans had raised a statue of Venus. Their traditions, which we can categorize as pre-Constantinian (before 313 A.D.), provided the basis for later Christian identification of some key sites.

Constantine's Jerusalem

The face of Jerusalem dramatically changed when the Emperor Constantine began a era of toleration and favor toward the Christian church in 313 A.D. Constantine initially built three basilicas on the ancient Christian locations pointed out by tradition: Calvary, the Mount of Olives and Bethlehem. As Christians flocked to the Holy City these locations became the principal sites of liturgical life for Jerusalem's growing Christian church, which soon influenced Christian liturgical practices and devotion throughout the world.

From the 4th to the 7th century, the Holy Land became a Christian land, a land of pilgrims, a great visual bible. Almost 500 Christian churches and shrines were built, many over places thought to commemorate incidents in the Old or New Testaments. One must recognize, however, that many sites were chosen overzealously. Scholars like St. Jerome (+ 420), who took up permanent residence near the holy places in order to study the scriptures in detail and practice the Christian life, complained about the tendency of the "monstratores", the guides, to multiply places and relics so that the multitude of eager pilgrims who craved to touch and see he places mentioned in the bible could be satisfied.

In great detail, the gospel stories acquired a concrete setting. As early as 333 A.D. an anonymous pilgrim from Bordeaux in Gaul was shown on the Mount of Olives "a vineyard where there is the rock where Judas Iscariot betrayed Christ and the palm-tree from which the children took branches and strewed them in Christ's path, the rock on which Christ was laid to prepare for burial."

Among the remains of Jerusalem's long history, then, are cult sites like these, still to be seen and held in veneration. They are places of prayer hallowed by a long tradition of devotion, but with only a tenuous connection to the historical site and event. For original historical value one generally looks for sites based on Pre-Constantinian traditions (before 313 B.C.) rather than on traditions from the Byzantine or medieval periods.

The Church of the Holy Sepulcher

The present church stands on the site of an earlier church constructed in 335 A.D. by the Emperor Constantine who, relying on ancient Christian traditions, built it over the tomb of Jesus. Pilgrimage to the site was so instantly popular that St.John Chrysostom (+407) remarked "The whole world runs to see a tomb that has no body."

Fire, earthquake, and numerous structural changes have damaged the present church which replaced the Constantinian church destroyed in 1009 A.D. Beneath its dome is the traditional location of the tomb of Christ. Underneath the church's smaller dome is the traditional site of Calvary.

The Jerusalem Temple by Victor Hoagland, C.P.

The temple in Jerusalem, brilliantly restored and expanded by Herod the Great (+ 4 B.C..) played a key role in Jewish religious, political and economic life at the time of Jesus. Its massive walls and buildings dominated the city itself; during the great Jewish feasts it was a magnet drawing Jews from beyond the city and from all over the world, who tripled Jerusalem's existing population.

Ever sensitive to possible danger from a volatile mix of religious fervor and revolutionary politics at such times, Pontius Pilate, the Roman procurator, left his administrative center at Caesarea Maritima and came to Jerusalem with extra troops to maintain order and act quickly in case of trouble. Some of those troops were stationed at the Fortress Antonia adjacent to the temple.

The gospels report that Jesus came to Jerusalem to celebrate the feast of the Passover. He taught regularly in the temple area, and his teaching gravely concerned the rulers of the city. On one occasion, he upset the tables of the temple vendors which further provoked the city's religious leaders. Those actions were a major factor leading to his condemnation and death.

Today nothing remains of the temple and its surrounding buildings which were destroyed by the Roman legions of Titus in 70 A.D. except some broken pieces and the great platform created as the site for the temple by Herod the Great. Now that site is dominated by the impressive Moslem shrine, the Dome of the Rock, built after the Moslem conquest of Palestine in the 7th century, which presides over Jerusalem's skyline today.

[The Temple as Reconstructed: Its innermost room was the Holy of Holies. In the surrounding porticoes, people congregated and listened to teachers and rabbis. Jesus and the apostles taught there. On the left, the Royal portico where the moneychangers' tables stood and animals and birds were sold for sacrifice. On the right, the towers of the Antonia fortress, rebuilt by Herod the Great and used by the Romans to control Jerusalem, especially the temple area. (Model of Jerusalem: Holyland Hotel.)]

The Temple Steps: The Southern side of the Temple

Excavations begun on the southern side of the temple platform in 1967 revealed parts of the original great stairway of thirteen steps leading to the southern entrances of the temple as well as ritual baths for purification that vistors used before they went to worship. Since this entrance was the main entrance for pilgrims, it is likely Jesus and his disciples walked these steps.

Gethsemani by Victor Hoagland, C.P.

Approach to Gethsemani

On a path such as this, Jesus and his disciples, according to the gospels, descended from the city after the meal into the Kidron Valley and walked to the garden called Gethsemani to the northeast.

The Kidron Valley, filled with tombs today as in the time of Jesus, offered a stark reminder of death. It was a favorite burial place for pious Jews, not only because of its proximity to the temple area (at left in picture), but also because of the belief that the Valley of Jehoshaphat, the place where the Lord will judge the nations according to the Prophet Joel (Jl 3,2) was identical with the Kidron ravine.

The Mount of Olives

Part of the two-and-a-half- mile -long mountain ridge that faces Jerusalem and the Kidron Valley from the east, the Mount of Olives attracted Christians both in pre-Constantinian times and later because of its many associations with Jesus. Approaching from Jericho in the east, Jesus must have had his first view the city of Jerusalem from here. He stayed with friends at nearby Bethany on a southeastern portion of this mountain range (Jn 12,1; Mt 21, 17-18; Mk 11,11-12), and there he raised Lazarus from the dead.(Jn 11). He taught his disciples on the Mount of Olives (Mt 24,1-26,2) and riding on a colt he entered Jerusalem from here (Mt 21,1-9). According to the Acts of the Apostles (Acts 1, 6-12), Jesus ascended into heaven from here.

On the western slope of the Mount of Olives, Jesus fell into an agony, prayed, and was arrested by the authorities.

Eusebius, the bishop of Caesarea, writing about 300 A.D. confirms the importance of the Mount of Olives to Christian pilgrims from earliest times:

"All who believe in Christ come here to Jerusalem from every part of the world, not as in the past to admire the splendor of the city or to pray at the temple, but to wonder at the effects of the conquest and destruction of Jerusalem and to pray on the Mount of Olives opposite the city...where the Savior's feet rested." (Dem V1, 18, 23)

By the end of the 6th century over twenty-four Christian churches were built on this mountain, which had become the home of thousands of monks and nuns.

The Church at Gethsemane

The Church at Gethsemani, called "The Church of All Nations" was built in 1924 on the site where from the 4th century three previous churches marked the place where Jesus prayed. An area of open bare rock within the church honors the place of Jesus' prayer.

Because it is located along the natural route from Jerusalem to Bethany, the present site, recognized by Christians from pre-Constantinian times, is a likely place for the events the gospels describe.

The Upper City and Pilate by Victor Hoagland, C.P.

The Upper City

After Jesus' arrest in the Garden of Gethsemani, where was he taken? The gospels say it was "to Annas, the father-in-law of Caiaphas"(Jn 18,12-13) "to Caiaphas" (Mt 26,57) or "to the high priest"(Mk 14, 53) or "to the high priest's house" (Lk 22,54). Most likely the place was somewhere in Jerusalem's Upper City, where influential Jews of Jesus' day lived in large splendid houses, many built during Herod the Great's massive reconstruction of the city.

Connected directly to the temple by a viaduct over the Tyropoean Valley, the Upper City was a convenient home for families and officials with temple duties. Recently archeologists have excavated some of these homes, constructed in the style of 1st century Roman villas, with courtyards and elegant furnishings. Like the rest of Jerusalem, the Upper City was destroyed by fire in the Roman siege of 70 A.D.

After the city was rebuilt on a smaller scale by Hadrian in the 2nd century, there is evidence of a small Jewish-Christian church located in the southerly outskirts of Aelia Capitolina, called by Christians, "Mount Sion." Early Christian traditions mark this as the place of Pentecost, the upper room, where the Holy Spirit descended on the apostles after Jesus' resurrection. Somewhat later it was honored as the Cenacle where Jesus ate the Last Supper. By the 4th century the house of Caiaphas was also located in this vicinity. Today the modern church of the Dormitian is the most prominent Christian shrine marking the ancient Christian "Mount Sion."

Where was Jesus judged by Pilate?

Jesus "was crucified under Pontius Pilate," the Roman Procurator. The credal statement summarizes the gospel report: Jesus, while in Jerusalem to celebrate the Passover, was condemned to death by Pontius Pilate, who represented Roman authority in Judea.

Traditions point out three sites where this judgment may have taken place. All three were major administrative and military locations built or renovated by Herod the Great (+ 4 A.D.) in his massive reconstruction of the city. During the time of Jesus they were used by the Roman authorities.

Herod's Upper Palace, the most magnificent of the three, and perhaps the most likely place for Pilate to reside in Jerusalem, was built around 24 B.C. on the strategic southwestern hill of the city protected by the city wall to the west and three large towers on its northern flank. A large wall separated the opulent palace from a city forum to the east.

Entering the forum of the Upper Palace, Pilate set up his judgment seat and sentenced Jesus to death before the crowd, which would not enter the palace precincts for fear of incurring ritual impurity. Afterwards, he gave Jesus to the soldiers, whose barracks probably adjoined the palace to the north. They scourged him and then led him through the nearby gate to Calvary.

Herod's Lower Palace, formerly the Hasmonean Palace, was located near the bridge connecting the Upper City with the Temple enclosure. Many early Christian traditions point it out as the place where Jesus was judged.

The Fortress Antonia, was built by Herod in the northwestern corner of the temple area to provide security in that important place. From the time of the Crusaders (12th century) this site was usually considered the place of judgment, but today a better understanding of the topography and times of Ist-century Jerusalem has led experts to favor Herod's Upper Palace as the place where Pilate sentenced Jesus.

Pontius Pilate

In 1961 Italian archeologists discovered in Caesarea Maritima, a fragmentary inscription carrying the name of Pontius Pilate. Caesarea Maritima was the usual residence of the Roman authorities in Judea. They would come to Jerusalem only on occasions, such as a religious feast.

In full, the inscription states that Pilate, the Procurator of Judea from 26-36 A.D., dedicated a temple in honor of Tiberius.

Calvary by Victor Hoagland, C.P.

Crucifixion, called by ancient writers the harshest of deaths, was commonly employed by the Romans at the time of Jesus to punish and execute slaves and rebels.

After being sentenced, the victim usually was made to carry to the place of execution either the crossbeam or the cross itself. Flogging and other forms of torture added by the executioners were part of the cruel process. The unusually swift death of Jesus, which the gospels report, may have been caused by the severity of these preliminary punishments.

The Romans used various methods of crucifixion. Following a common method, which Jesus probably experienced, the victim was first stripped of his clothes and then fixed to the crossbeam with nails that passed through the bones of his arm below the wrist Then his body was seated to a small wooden peg jutting from the upright beam to which his heals were nailed. As his body weight closed his breathing passages, the victim died of suffocation, sometimes after days of bitter pain. Hanging close to the ground the victim sometimes was the prey of dogs and birds.

Calvary (hypothetically reconstructed below), the skull-shaped mound, was located in the northwest section of the city near the gate, adjacent to a limestone quarry where Jesus was buried in a tomb after his crucifixion. Some years later an extension of the city walls brought the site within the city itself and burials ceased.

Herod's palace and the towers dominating the city from their high position are seen right foreground. Near the entrance to the palace area, Jesus was judged by Pilate, who made his residence at the palace during important Jewish feasts. From there he was led to Calvary, a short distance away.

The Tomb of Jesus by Victor Hoagland, C.P.

A good number of tombs from the time of Jesus have been discovered around Jerusalem, and so burial practices of the day can be described with some accuracy. It was customary then to place the body, washed, anointed with oils and spices and wrapped in a shroud, in the family tomb where it was placed either in a shaft cut into the rock, or on a shelf cut laterally into the rock (see illustration above). Then, after the flesh had decayed, the bones were gathered and placed in a stone box called an ossuary.

The entrance to the tomb was often sealed with a heavy rolling stone to prevent animals from invading the tomb.

According to the gospels, Jesus' body was buried hurriedly before the Sabbath by Joseph of Arimathea in a tomb close by the place of crucifixion. Some women followers of Jesus, knowing where he was buried, were intent on returning after the Sabbath to complete the burial process. When they did, they found the tomb empty.

The tomb of Christ, in the Church of the Holy Sepulcher

Tradition points to the limestone shelf, covered with a marble shelf, as the resting place of the body of Jesus. For more than 1600 years, Christians have revered this as a sacred place of pilgrimage.

The Stations of the Cross and Other Devotions by Victor Hoagland, C.P.

One Christian tradition well known to generations of Jerusalem pilgrims is the devotion to the Stations of the Cross. The devotion likely began, according to some historians, with the practice of early Byzantine pilgrims who on Holy Thursday went in procession from Gethsemani on the eastern side of Jerusalem westward to the church of the Holy Sepulcher. By the 18th century, the route became known as the Via Dolorosa.

From the 14th century, pilgrims under the guidance of the Franciscans commemorated the journey of Jesus to Calvary along this route, with specific locations gradually marked for incidents of the journey. From Jerusalem the devotion of the Stations of the Cross spread to churches and shrines in western Christianity where it influenced popular Christian reflection on the Passion of Jesus.

The Via Dolorosa in Jerusalem today begins at the remains of the fortress Antonia and proceeds westward through the streets of Jerusalem to the church of the Holy Sepulcher. Archeologists, however, generally place Jesus' judgment by Pilate at Herod's palace on the other side of the city rather than at the Antonia. From Herod's palace Jesus was led to Calvary nearby.

Whatever the archeological judgments may be, the devotion of the Stations of the Cross remains a powerful form for meditating on the passion of Jesus Christ. Based substantially on St. Luke's account of Jesus final journey, it provides a simple symbolic framework for following in the steps of Jesus.

Devotional writings

St. Bridget of Sweden (1303-1373), one of the most influential devotional writers on the the Passion of Jesus in the western church, is often shown writing her "Revelations." These writings describe her visions of the life, death and resurrection of Jesus. Etchings or drawings of St Bridget often show her surrounded by symbols of pilgrimages she made to Rome and the Holy Land.

Along with other devotional writings such as the 13th century Meditations on the Life of Christ, Bridget's writings had enormous influence on the Passion story in medieval art, devotion and popular religion and even today affect the way western Christians imagine the Passion of Jesus. Her writings, often adding details and visual dimensions of the Passion story not found in the gospels, invited Christians to be eye-witnesses of gospel events like the Passion of Jesus. She writes about the sacred events "as they occurred or as they might have occurred according to the devout belief of the imagination and the varying interpretation of the mind." (Meditations) Her purpose was not primarily to give an accurate historical account but rather to engage her readers spiritually in the mystery of their Lord. Like her, other spiritual and devotional writers have written with warmth, imagination and insight about this mystery.

The church views Bridget's writings and the writings of other devotional writers with a cautious respect, neither accepting them as a totally true in every detail, nor denying their power to move hearts and minds. The words of Pope Benedict X1V probably best sum up the Church's position on writings like Bridget's: "Even though many of these revelations have been approved, we cannot and ought not give them the assent of Catholic faith, but only that of human faith, when the rules of prudence present them as probable and worthy of pious credence."

Suggestions for Further Study and Bibliography

The passion of Jesus has held the attention of the Christians throughout the ages. The Gospels themselves testify to this--each of them makes the passion the climax of their narrative and devote an extraordinary amount of attention to this singular event. So, too, has Christian piety, art and theology throughout the centuries probed the meaning of the passion.

Contemporary scholarship is no exception. The unspeakable horror of the holocaust and the devastation of the Second World War gave new impetus to studies of the passion. Those who encouraged anti-Semitism and paved the way for genocide often appealed to Jewish responsibility for the death of Jesus as a spurious justification for their evil. Too often other Christians were mute when the gospels were used for such a demonic purpose. It was time for Christian scholars to examine their consciences and to see to what extent their portrayals of Jews at the time of Jesus and their ways of interpreting the death of Jesus had contributed to this toxic atmosphere.

In the past half century there has been a remarkable and constructive reappraisal of the Jewish roots of Christianity by Christian and Jewish scholars alike, and this has had an impact as well on the study of the gospels and the passion narrative. Extraordinary archaeological discoveries have also helped us understand better the social, political and religious circumstances of Jesus' day. Jesus was thoroughly Jewish and revered his religious heritage. Not all Jews were opposed to him and there could be no collective Jewish responsibility for his death. Much of the tension between Jesus and some of the Jewish leaders in the gospels reflect not only conflicts between Jesus and his contemporaries but later conflicts between the emerging Christian community and its Jewish counterpart at the time the gospels were being composed. These and other observations represent important gains in our understanding of history.

Modern biblical scholarship has also been attuned to the literary quality of the gospels themselves. These narratives draw on historical traditions but shape them in a manner designed to move the reader and trigger reflection. The evangelists naturally used the literary methods specific to their culture and time. The more we know about the literary structure and style of the gospels the better we are equipped to read them with deeper understanding.

The study of the four passion accounts in this book has taken a more literary and theological approach to the gospel texts. We have probed these passion stories not so much for what they can tell us about the precise historical circumstances of Jesus' passion but what the meaning of the suffering and death of Jesus might be in the light of Christian faith. The section on the history and archaeology of the passion obviously moves in a more historical fashion, while the segment on devotion to the passion gives some leads on the way different periods of Christianity have reflected on the death of Jesus.

For the reader who is not a specialist and yet wants to explore further some of these directions in their study of the passion, the Bibliography contains some useful leads.

Bibliography

1. The Historical Setting of the Passion
Martin Hengel, Crucifixion (Philadelphia: Fortress, 1977). Studies the function and meaning of this form of capital punishment in Roman law.
Frederick J. Murphy, The Religious World of Jesus (Nashville: Abingdon, 1991). A fine introduction to the Judaism of Jesus' day.
Donald Senior, Jesus: A Gospel Portrait (New York: Paulist, rev. ed., 1992). A study of the historical Jesus, including the circumstances of his death.

2. Archaeological studies
Dan Bahat, "Does the Holy Sepulcher Church Mark the Burial of Jesus?" Biblical Archaeology Review 12 (1986) 26-45. A good survey of this much debated question.
Gabriel Barkaky, "The Garden Tomb - Was Jesus Buried Here?" Biblical Archaeology Review 12 (1986) 40-57.
Jack Finegan, The Archaeology of the New Testament (Princeton University Press: Princeton, 1992). A fine presentation with copious illustrations.
Joseph Fitzmyer, "Crucifixion in Palestine, Qumran, and the New Testament," The Catholic Biblical Quarterly 40 (1978) 493-513.
Jerome Murphy-O'Connor, O.P. The Holy Land: An Archaeological Guide from Earliest Times to 1700 (New York: Oxford University Press, 3rd ed., 1992). A guidebook and a good succinct summary of the archaeological facts about different sites.
Hershal Shanks, Jerusalem: An Archaeological Biography (New York: Random House, 1995). A beautifully illustrated summary of the archaeological evidence for each period of Jerusalem's history, including a chapter on Jerusalem at the time of Jesus.
Robert L. Wilkin, The Land Called Holy: Palestine in Christian History and Thought (New Haven: Yale University Press, 1992). A historical and theological reflection on the phenomenon of Christian pilgrimage, particularly to the site of Jesus' death and burial.
John Wilkinson, Jerusalem as Jesus Knew It: Archaeology as Evidence (London: Thames and Hudson, 1978). Especially good on the question of whether the Holy Sepulcher was the actual site of Jesus' death and burial.

3. On the Passion in the New Testament
Raymond E. Brown, S.S., The Death of the Messiah (2 volumes; New York: Doubleday, 1994). A massive resource that studies the passion accounts from the Gethsemane scene to the burials. Although it is not intended as a major focus, the author also takes up many historical issues.
John T. Carroll and Joel B. Green, The Death of Jesus in Early Christianity (Peabody, MA: Hendrickson, 1995). Views the passion as reflected in all of the New Testament writings from both historical and theological points of view.
Frank J. Matera, Passion Narratives and Gospel Theologies (New York: Paulist, 1986). A study of the passion narratives in the Synoptic Gospels.
Donald Senior, C.P., The Passion of Jesus in the Gospel of Matthew (Collegeville: Liturgical Press, 1985); The Passion of Jesus in the Gospel of Mark (Collegeville: Liturgical Press, 1984); The Passion of Jesus in the Gospel of Luke (Collegeville: Liturgical Press, 1989); The Passion of Jesus in the Gospel of John (Collegeville: Liturgical Press, 1991). Each of these four volumes studies the passion narrative in the context of that gospel, concentrating on the meaning of the passion.
Gerard S. Sloyan, The Crucifixion of Jesus: History, Myth, Faith (Minneapolis: Fortress, 1995). Studies the passion in the context of the Scriptures and as it has been interpreted in subsequent Christian history.

www.cptryon.org/xpipassio/‎
 
Văn Hóa
Lá Dừa Mùa Chay
Nguyễn Trung Tây, SVD
00:51 12/04/2014
□ Nguyễn Trung Tây, SVD
Lá Dừa Mùa Chay




Mùa hè Úc Châu, xoài Darwin bán khắp nơi. Ăn xoài xong, tôi ơ hờ quẳng bỏ hột xoài. Bẵng đi một tháng, tôi nhìn thấy hột xoài vẫn nằm lẻ loi ngoài sân vườn. Nhìn hột xoài mốc meo, tôi không còn nhận ra hình dạng trái xoài Darwin to tròn thơm ngát ngày nào. Xót xa cho phận xoài, tôi cúi xuống đào lỗ làm đám tang chôn hột xoài. Rồi quên đi.

Thứ Ba trước ngày thứ Tư Lễ Tro, cha Giám Đốc chủng viện hỏi tôi còn giữ lại những lá dừa Lễ Lá năm ngoái hay không? Cha nhờ tôi đốt lá dừa lấy tro cho ngày Lễ Tro. Tôi đi vô phòng, cầm những lá dừa năm ngoái mang ra sân vườn. Nhìn những cánh lá khô quắt cong queo trên tay, tôi thấy lại lá dừa xanh năm ngoái. Hôm đó tôi mặc áo đỏ Lễ Lá vẩy nước phép lên những cành lá dừa xanh màu lá mạ. Màu xanh năm ngoái tươi vui giờ này đổi sang màu lá úa. Sợi lá dầy cứng năm xưa giờ này gầy ốm khẳng khiu. Nhìn đến là thương cho một kiếp thảo sinh. Tự nhiên tôi mơ ước nếu lá dừa đừng biến đổi màu sắc và hình thể. Tự dưng tôi thương tiếc cho đời lá ngắn ngủi. Bỗng nhiên tôi ngần ngại không muốn nổi lửa đốt lá dừa cháy ra tro.

Cách đây mấy tháng vào lúc nửa đêm bạn tôi gọi điện thoại báo tin thân phụ vừa qua đời. Bác trai tôi vẫn thường xuyên ghé vào thăm hỏi. Bác sinh ra tại phố Hàng Đào Hà Nội, di cư vào Ông Tạ Sài Gòn, sinh viên Sĩ Quan Đà Lạt, bay sang California tu nghiệp hai năm, tham dự hội chợ quốc tế Osaka tại Nhật rồi ở lại tu nghiệp thêm một năm, sau năm 75 quay lại về Bắc cải tạo Hoàng Liên Sơn mười năm, tái định cư tại Melbourne Úc Châu năm 90. Có lần tôi nói,

— Bác sinh ra bọc vải điều, lại có sao Thiên Mã. Cho nên bác đi từ Bắc vào Nam, bốn vùng chiến thuật dấu giầy ghi đậm. Mỹ bác cũng biết. Nhật bác cũng rành. Giờ lại đi Úc. Nhất bác.

— Ừ, bác thấy mình đi cũng nhiều thật. Mà lần nào cũng đi xa.

Nghĩ ngợi khoảng một giây, bác lại nói,

— Không biết lần này thì sao?

Tôi nhận ra ánh mắt đăm chiêu,

— Nghĩ đi nghĩ lại, thấy mình đúng là tro bụi…

Bác như đang nói với chính mình,

— Hành trình một đời người cũng đã xong. Hành lý cũng đã gọn gàng!

Tự nhiên bác buông lời gọn, âm tươi,

— Lần này thì lại đi…

Tháng trước tôi ghé vào bệnh viện thăm chồng cô em họ. Nhìn người nằm trên giường bệnh, tôi không nhận ra được khuôn mặt quen thuộc. Những sợi tóc đen dầy cứng giờ đã rụng hết, trơ lại bên trên vầng trán cao khoảng trống mênh mông. Màu da tuổi ba mươi giờ này không còn hồng hào nhưng bủng beo tai tái bởi căn bệnh hiểm nghèo. Dọc theo hai bên cánh tay bệnh nhân cắm sâu những ống chích, một bên dây máu đỏ và thuốc truyền vào, một bên dây nước biển. Tôi ngồi xuống bên giường bệnh muốn lắng nghe nhiều hơn. Nhưng bởi thuốc và bệnh, người bệnh cũng kiệt sức không nói nhiều. Tôi cầm quyển kinh, lúng túng chọn bài Phúc Âm. Cuối cùng, tôi chọn Tám Mối Phúc Thật,

— Phúc cho ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an (Matt 5:5).

Sáng Chúa Nhật thánh lễ xong, tôi mang Mình Thánh Chúa đến tư gia cho cụ. Đầu giường nơi cụ nằm có tấm hình cụ ông và cụ bà thời còn trẻ. Trong hình, cụ quấn khăn nhung đen, cần cổ cao thon tròn đều kiềng vàng, má lúm đồng tiền để lộ hàm răng trắng đều, đôi mắt mở lớn long lanh, nhìn đẹp quá. Thấy tôi chăm chú nhìn bức hình, cụ nói,

— Cái hình thời mới di cư vào Nam đấy mà. Khi đó tôi sinh được cháu đầu lòng mới non một tháng. Đấy, cái đứa bé đang ẵm trên tay là nó đấy.

Nói chuyện một hồi, tôi mới biết “cháu đầu lòng mới non một tháng” giờ cũng đã có cháu nội,

— Đây hình mấy đứa chắt nội… Thằng nào giờ cũng lớn tướng cả rồi.

Nhìn hình cụ ngày xưa, tôi không cầm được, bật miệng khen,

— Cụ đẹp quá…

Cụ cười móm mém hai hàm răng,

— Cha cứ nói, thì cũng một thời hoa khôi trong xóm giáo nhà ta. Nhưng thôi, cũng chỉ là thế gian…

Vâng, thôi, cũng chỉ là thế gian, phận người cũng như phận lá, nhân sinh cũng như thảo sinh, tất cả cũng chỉ là bụi tro rồi sẽ quay về bụi tro. Tôi thôi tiếc xót cho một đời lá dừa, nhưng quyết định nổi lửa đốt lá. Ngọn lửa bừng bừng đốt cháy đổi màu lá úa sang màu nâu, rồi là xám tro, rồi đen tuyền, màu của đất lành dưỡng nuôi.

Thân phụ bạn tôi nhắm mắt lại. Theo lời yêu cầu của người chết, bạn tôi thiêu xác thân phụ. Sau nghi thức làm phép linh cửu tại nghĩa trang, nhân viên nhà quàn chuyển áo quan xuống lò đốt. Tôi đứng cạnh bạn chứng kiến ngọn lửa lem lẻm đốt cháy linh cửu. Gỗ quan cháy để lộ ra xác người bên trong cong oằn dưới ngọn lửa tưởng như người chết sống dậy dãy dụa đớn đau. Bạn tôi không cầm được nước mắt, ngã gục vào vai tôi khóc nức nở. Chúng tôi quyết định bỏ về. Hôm sau quay lại chỉ để nhận được hũ tro.

Tôi hốt tro đen của lá dừa vô chén. Mang vô nhà nguyện, tôi đặt chén tro giữa cung thánh, chuẩn bị cho nghi thức Lễ Tro ngày mai. Nhìn tro lá dừa, tôi nghĩ tới hũ tro thân phụ người bạn và hũ tro tương lai thật gần của chồng cô em họ. Ngày hôm qua, gia đình nước mắt ngắn dài bàn chuyện hậu sự cho người thân ba mươi tuổi. Mọi người quyết định hỏa táng xác người thân. Tôi ngồi bên giường bệnh, tiếp tục đọc Tám Mối Phúc Thật,

— Phúc cho ai hiền lành, vì họ sẽ được đất hứa làm gia nghiệp (Matt 5:4)…

Người bệnh hôm nay rất tỉnh,

— Xin cha cầu nguyện cho em…

Tôi lúng túng chọn lựa chữ nghĩa,

— Anh sẽ làm lễ… cầu bình an cho chú…

Tôi ngần ngại,

— Cho anh hỏi một câu có được không?

— Cha cứ hỏi…

— Anh cầu nguyện cho chú, nhưng chú có cầu nguyện cho mình hay không?

Người bệnh nói liền,

— Có chứ. Em cầu nguyện với Chúa nếu cho em làm lại, em sẽ sống khác…

— Khác như thế nào?

— Em sẽ thiết tha với cuộc sống nhiều hơn. Cha ơi, ba mươi năm trôi qua nhanh quá!

Ba mươi năm qua trôi nhanh thật. Tuổi ba mươi, có mấy người nghĩ hành trình trần thế sẽ chấm dứt, hành lý phải gọn gàng cho một chuyến đi xa.

Chiều ngày thứ Tư lễ Tro, tôi lại ghé vào nhà cụ, mang theo Mình Thánh Chúa để cụ rước lương thực thiêng liêng. Cụ nhìn tôi cười trơ hai lợi răng,

— Vất vả cha quá!

— Vậy là bác “nợ” cháu một lời kinh rồi nhé.

— Việc gì cứ phải một lời kinh. Tôi là tôi đọc cho cha ba tràng chuỗi mỗi ngày đấy.

Tôi xức dấu thánh giá tro lên đầu cụ,

— Hãy nhớ mình là bụi tro…

Rồi tôi cho cụ rước lễ,

— Lạy Chúa, con không đáng Chúa ngự vào nhà con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh.

— Mình Thánh Chúa Kitô,

— Amen.

Chuyện qua chuyện lại, cụ lật từng trang sách thời tây càn ngoài Bắc kể cho tôi nghe,

— Mỗi lần tây càn tổng bên cạnh, thầy u vội vàng đẩy tôi vào sâu trong hầm dưới sàn cung thánh nhà thờ họ giáo. Sống dưới chân Chúa có lần tới cả tuần lễ. Làm thân con gái thời loạn, thật khổ…

Tôi hỏi cụ,

— Tám mươi năm rồi, từ Bắc vô Nam, từ Nam qua Úc, bác có lời hay ý đẹp nào muốn truyền lại cho con cháu hay không?

Cụ mắng yêu tôi,

— Cha đến là khéo nói...

Nhìn thấy tôi ánh mắt thiết tha và thật thà, cụ chép miệng,

— Nhưng thôi, cha hỏi thì nói. Tám mươi năm rồi, tôi vẫn không có điều gì hối tiếc. Của thế gian thì thôi giả lại cho thế gian. Linh hồn của Chúa thì thôi giả lại cho Chúa. Cha thấy, mới tháng trước con cháu mừng sinh nhật linh đình lắm, hành trình tám mươi năm rồi, hành lý giờ đã gói ghém cẩn thận đâu ra đấy. Giá ngày mai Chúa có cất đi, tôi vẫn sẵn sàng. Còn cha, hành lý của cha đã bọc gói tới đâu rồi?

Tôi bước ra ngoài xe, tự hỏi nếu ngày hôm nay Chúa gọi tôi về, hành lý tu sĩ tôi đã sẵn sàng hay chưa?

Nhà dòng Ngôi Lời có phong tục xướng tên cha, hoặc thầy, hoặc nữ tu thuộc đại gia đình Ngôi Lời vào ngày lễ giỗ.

— Hôm nay chúng ta cầu nguyện cho linh hồn Cha Kevin, Thầy Sáu John, Sơ Mary…

Có những người tôi biết mặt, biết rõ.

Cha Kevin lớn tuổi, tính tình vui vẻ, bao dung. Gặp ai cũng cười mở miệng hỏi thăm. Nói chuyện với cha Kevin thì cười không dứt, bởi ngài có biệt tài kể chuyện tiếu lâm. Thế đấy! Buổi chiều vẫn thấy cha ngồi ăn cơm tối. Buổi tối trôi qua. Sáng không thấy cha đi lễ. Gọi điện thoại ngài không trả lời, ngoài lời nhắn văng vẳng từ trong máy. Mở cửa bước vào phòng chỉ để thấy cha Kevin nhắm mắt ngủ yên trên giường, chấm dứt hành trình bẩy mươi hai năm. Một người yêu đời, yêu người, luôn luôn rộng rãi với nhân gian qua nụ cười ân sủng, tôi tin cha Kevin hành lý ngài đã sẵn sàng.

Thầy Sáu John trẻ măng, đụng xe, mang vào bệnh viện, hai tuần sau nhắm mắt từ trần. Từ khi đụng xe cho tới khi mất đi, thầy Sáu John không bao giờ tỉnh lại. Cái tang của thầy Sáu John là một cái sốc dữ dội cho mọi người. Mọi người tham dự tang lễ hoặc sụt sùi hoặc nức nở thương tiếc cho một đời tu sĩ quá ngắn. Chỉ còn mấy tháng nữa thôi, thầy Sáu sẽ bước lên cung thánh. Nhưng chỉ bởi lơ đãng, một mạng người bị bôi xóa để lại bao nhiêu thương tiếc cho người còn sống. Hành trình hai mươi tám năm của thầy Sáu chấm dứt khi xe lật tung, quay mấy vòng trước khi đâm đầu vào lề đường xa lộ. Tôi không biết hành lý thầy Sáu John đã sẵn sàng hay chưa. Nhưng lần ghé thăm thầy trong phòng Cấp Cứu, tôi không thấy trên khuôn mặt nét đau đớn. Thầy nằm đó trên giường bệnh, đôi mắt nhắm lại như người đang ngủ mơ, một giấc mơ về cõi trời nơi đó thầy Sáu với hành lý gọn gàng đang bước tới.

Sơ Mary của tuổi năm mươi thì đặc biệt hơn. Có lần sơ kể tôi nghe,

— Lần đó thật là vớ vẩn, chẳng đâu vào với đâu. Hôm đó thứ Tư ăn chay. Buổi tối, đang dậy Giáo lý Lớp Tân tòng, tự nhiên toát mồ hôi, người lạnh toát, lao đao xiêu vẹo trên đôi bàn chân. Nhìn xuống lớp học, miệng muốn kêu cứu nhưng thở không ra… Thế là ngã té bất tỉnh… Mở mắt ra, thấy mình nằm trong phòng Cấp Cứu. Tưởng bị tim? Hóa ra tại người thiếu nước...

Sơ nói nho nhỏ vào tai tôi,

— Cũng tại hôm đó thứ Tư ăn Chay, Sơ lại không ăn không uống chi nguyên cả ngày. Hèn chi quỵ ngã! Lúc đang nằm trên băng ca xe cấp cứu, Sơ lại lẩn thẩn nghĩ ngợi nếu còn được sống để trở về với cõi trần gian, mình sẽ sống khác, sống thiết tha với mọi người và với mình nhiều hơn…

Vẫn lại cụm từ sống thiết tha mà tôi đã nghe từ miệng chồng cô em…

Yêu người Phi Châu, Sơ Mary xin đổi sang Sudan làm việc với người thổ dân. Trong một lần mắc kẹt giữa hai lằn đạn. Sơ nằm xuống kết thúc hành trình năm mươi năm. Nhà dòng đốt xác Sơ ra tro rải từ trên núi xuống đồng bằng theo lời yêu cầu của người nữ tu Dòng Chúa Thánh Linh. Tôi nhớ hôm tiễn Sơ tại phi trường bay sang Sudan, tôi thấy Sơ chỉ xách theo một vali hành lý. Sơ Mary lúc nào cũng vậy, hành lý nữ tu gọn gàng và sẵn sàng. Nhớ tới Sơ Mary, tôi hay đọc câu kinh,

— Phúc cho ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương (Matt 5:7).

Có lần chị tôi gọi điện thoại tới. Bà ấy than thở đứa con gái hư hỏng mất nết! Tôi buột miệng hỏi,

— Nó hư làm sao?

— Chị bảo nó học bác sĩ, nó cãi lại mẹ bỏ đi học ngành khác. Mà tưởng học ngành chi béo bổ, hóa ra nó đâm đầu vào ngành báo chí. Mà cậu biết rồi, con bé học giỏi nhất trường, năm nào cũng mang về bằng khen hạng nhất toàn trường. Con với cái, rõ là khổ!

Tiền điện thoại viễn liên không rẻ, nhưng tôi cứ phải tiếp tục nghe điệp khúc “học bác sĩ”, “cãi lại mẹ”, “ học báo chí”, “ơi là khổ” hơn cả tiếng đồng hồ. Tự nhiên tôi cũng thấy thật tình là khổ cho bà chị và cho mình,

— Chị ơi, con chị nó có hành lý của riêng nó. Còn chị, chị đã chuẩn bị hành lý cho mình hay chưa?

— Hành lý? Cậu nói hành lý nào?

Như phép lạ, người bệnh ba mươi tuổi hồi sinh. Sau một lần giải phẫu theo triết lý còn nước còn tát, cơn bệnh hiểm nghèo bị đẩy lui. Nhận được tin mừng, tôi ghé vào bệnh viện. Người vợ đứng ngay bên giường bệnh nghẹn ngào nói,

— Cô em ruột của anh ấy đang đi hành hương đất thánh. Ngày nào cũng gọi điện thoại về. Em nhờ cô ấy cầu nguyện cho. Cô ấy còn ghé vào cả chỗ Bức Tường Than Khóc nữa. Bệnh của nhà em chỉ có Chúa chữa. Thật đúng là phép lạ!

Tôi ngồi xuống bên cạnh giường người vừa nhận được phép lạ. Tôi lại giở cuốn kinh, đọc lại lời Tám Mối Phúc Thật,

— Phúc cho ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an (Matt 5:5).

Đọc kinh xong, thấy người hồi phục mắt nhắm lại như thiu thiu ngủ, tôi yên lặng đứng dậy, tính đi về. Nhưng người bệnh đã mở mắt ra, thần sắc rạng rỡ nhìn tôi nhoẻn miệng cười,

— Cám ơn cha đã cầu nguyện cho em…

— Cám ơn Chúa thì đúng nhất… Nhưng cũng đừng có quên, chính chú cũng đã cầu nguyện cho mình.

— Cha nói đúng, hồi xưa em mở miệng ra là nhờ vả người khác cầu nguyện. Riêng mình thì chẳng bao giờ chịu mở miệng cầu nguyện với Chúa.

— Anh nhớ có lần chú nói nếu Chúa cho cơ hội làm lại…

— Em nhớ chứ, em đã cầu nguyện với Chúa nếu cho con sống lại, con sẽ sống khác, sống thiết tha với đời và với mình hơn…

— Anh không hiểu sống thiết tha là sống như thế nào?

Người hồi phục nhìn lên trần nhà rồi nhìn qua khung cửa,

— Hồi trước em chỉ nghĩ tới tiền. Em muốn có thật nhiều tiền để vợ con hạnh phúc, thiên hạ phải nể phục, bởi em tin tưởng vào triết lý, “Miệng kẻ sang có gang có thép!”. Nhưng hai tháng vừa rồi nằm trên giường bệnh, ngày nào em cũng chỉ thấy bóng em một mình đổ dài trên vách tường. Em đau, một mình em chịu. Em khóc, một mình em hay. Nếu em nhắm mắt lại chết đi, vẫn chỉ một mình mình đi. Sáng sáng em thấy cảnh đời vẫn nhộn nhịp tấp nập bên khung cửa. Mặt trời vẫn rộn ràng, chim vẫn hót líu lo, xe bus vẫn dừng lại ngay trước cửa trạm. Tự nhiên em thấy tiếc cho một quãng thời gian ba mươi năm dài em sống không thiết tha với cuộc đời và với mình.

Người hồi phục kết luận,

— Giờ sống lại, em cũng sẽ làm lại hành lý cuộc đời.

Tôi nhận ra đôi mắt người hồi sinh long lanh.

Trời mùa hè Úc Châu tiếp tục thiêu đốt cư dân tiểu bang Victoria. Chiều hôm nay, bầu khí oi nồng ẩm thấp gọi mời tôi rời bỏ văn phòng bước ra sân vườn. Nhìn xuống, tôi khám phá ra lần đốt lá dừa lấy tro, mình đã làm rớt một cành lá dừa xuống đất. 40 ngày mùa Chay vừa qua, lá dừa bị bỏ quên vẫn nằm im lìm trên sân vườn, vẫn khô quắn cong queo. Tôi cúi xuống nhặt lên cành lá. Thật bất ngờ, tôi nhìn thấy cây xoài xanh non bé tí ti nhú cao được hơn một gang tay. Gió hè oi nồng thổi nhẹ rung rinh ba chiếc lá non mà tưởng như cây xoài bé con đang giơ tay vẫy chào. Nhìn cây xoài bé tí, tôi không nhận ra hình dạng của hột xoài mốc đen ngày nào. Nhìn cây xoài xanh non, tôi nhận ra trái xoài ngày nào đã đi hết hành trình thảo mộc. Bây giờ cây xoài con mới mở ra ba cánh lá lại đang chập chững những bước đi mới cho một cuộc hành trình mới.

Tôi nhìn lá dừa còn sót lại. Lá dừa đã đi hết hành trình thảo mộc. Giờ này lá dừa cũng đã sẵn sàng hành lý để được hóa thân. Tôi lại nổi lửa đốt lá dừa ra bụi tro. Lần này tôi không mang tro vô nhà nguyện nữa, nhưng rắc chung quanh gốc cây xoài con làm chất màu nuôi dưỡng cây non… Tôi vô nhà nguyện. Quỳ dưới cung thánh, tôi ngẩng lên nhìn Chúa chết lặng lẽ trên cây thập giá. Qua mái vòm trên cung thánh, nắng hè hoàng hôn tiếp tục xiên xiên chiếu sáng một khoảng thân xác loang lổ máu đỏ của Chúa. Chúa trên cây thập giá đã đi hết hành trình ba mươi ba năm. Hành lý Ngài lúc nào mà chẳng gọn gàng, cho nên có tới ba lần Chúa đã tiên đoán trước về cuộc tử nạn của mình. Hôm nay thứ Sáu Tuần Thánh. Chiều nay xác Ngài được tháo xuống, chôn sâu trong mộ. Lung linh trong tia nắng chiều tàn của ngày tử nạn trên đồi Golgotha, tôi nhận ra hình ảnh Phục Sinh của ngôi mộ trống. Tôi lật Phúc Âm thánh sử Mátthêu, đọc tiếp,

Sau ngày Sabát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mađalêna và một bà Maria khác, đi viếng mộ. Và kìa, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: “Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. Người không có ở đây, vì Người đã sống dậy như Người đã nói” (Matt 28:1-6).

Ơn trời tuôn đổ tôi hiểu, bởi Đức Giêsu đã chết đi, chôn trong mộ, hạt giống đức tin mới bắt đầu nứt vỏ nẩy ra một mầm sống mới, mầm sống Giáo Hội. Hai ngàn năm rồi mầm sống Giáo Hội tiếp tục vươn cao hóa ra cây Giáo Hội ngàn đời xanh tươi. Tự nhiên tôi lại nhớ tới trái xoài Darwin ngọt ngào, hột xoài mốc meo, và cây xoài xanh non ba lá trong sân vườn chủng viện. Ơn trời đổ xuống, tôi cảm nghiệm nhiều hơn về khái niệm và ý nghĩa của Mùa Chay và Mùa Phục Sinh.

□ Nguyễn Trung Tây, SVD
www.nguyentrungtay.com