Phụng Vụ - Mục Vụ
Suy niệm từ Sứ Điệp Mùa Chay 2010
Lm Giuse Nguyễn Hữu An.
17:19 01/03/2010
Chủ đề của Sứ điệp Mùa Chay năm 2010 là: sự công bằng, theo câu nói của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Rôma: “Sự công chính của Thiên Chúa được tỏ hiện qua đức tin vào Chúa Kitô” (Rm 3, 21-22).
Qua sứ điệp này Đức Thánh Cha Bênêđictô kêu gọi các tín hữu hãy “xây dựng các xã hội công bằng”, trong đó mọi người “nhận được những gì cần thiết để sống theo đúng phẩm giá con người” và trong đó “sự công chính được làm cho sống động bởi tình yêu”. Đó là các phận vụ cụ thể Đức Thánh Cha ủy thác cho con cái mình trong Mùa Chay Thánh này. Giáo Hội luôn bênh vực cho công lý, lưu ý tới việc thăng tiến nhân sinh, việc phân phát công bằng các tài nguyên tự nhiên và đưa ra các giáo huấn xã hội liên hệ tới các sinh hoạt này. Năm khái niệm: công bằng, bác ái, huynh đệ, tự do và liên đới luôn gắn liền với nhau. Việc tranh đấu cho công bằng có gốc rễ luân lý, đó là gốc rễ của giá trị liên đới và huynh đệ mà Kitô giáo gọi là bác ái.
Thiếu công bằng là hậu quả của một thái độ căn cốt bên trong con người. Sứ điệp viết: “Sự bất công từ đâu tới? Thánh sử Marco ghi lại những lời sau đây của Chúa Giêsu, được lồng vào trong cuộc tranh luận thời đó về những điều thanh sạch và những điều ô uế: “Không có gì từ bên ngoài con người vào nơi họ, có thể làm cho họ ra ô uế. Nhưng là những điều từ bên trong con người đi mới làm cho họ ra ô uế. Vật đi ra từ con người là điều làm cho con người ra ô uế. Quả vậy phát xuất ra từ bên trong, nghĩa là từ cõi lòng con người, từ đó phát xuất ra những ý định xấu xa.” (Mc 7, 14-15. 20-21). Từ đây, Đức Thánh Cha cho thấy, đối với những người Biệt phái, thì căn nguyên của sự dữ, sự ác, của bất công, đến từ một căn cớ bên ngoài con người. Theo quan điểm này, bao nhiêu ý thức hệ đã nhận ra một loại căn nguyên nào đó của sự bất công trong xã hội, và họ tìm mọi cách để loại bỏ, có khi dựng nên một chế độ, một ý thức hệ và một cơ cấu quyền lực để chống lại bất công và loại bỏ những áp bức xã hội. Một điều thật trớ trêu, đó là có khi con người lại dùng cả bạo lực nữa để chống lại cái mà gọi là bất công. Nhưng Sứ điệp Mùa Chay khẳng định ngay: “Cách thế suy nghĩ này, Chúa Giêsu đã cảnh cáo thật là ngây thơ và ảo tưởng. Sự bất công, hậu quả của sự dữ, không chỉ có nguyên nhân bên ngoài mà thôi; nó có nguồn gốc từ cõi lòng con người, từ đó nảy sinh mầm mống của một cung cách sống chung với sự dữ”. Sứ điệp nhắc lại kinh nghiệm đau thương sâu thẳm của tác giả Thánh vịnh 51: “Này đây, chính trong tội lỗi mà tôi đã sinh ra, chính trong tội mà mẹ tôi đã hoài thai tôi” (Tv 51, 7). Rồi Sứ điệp giải thích thêm về cái căn gốc bên trong của sự dữ và của mọi hành động bất công: đó là con người bị xô đẩy mạnh mẽ vào trong một thái độ làm mất đi khả năng hiệp thông với người khác, mà theo bản tính, con người hướng về sự chia sẻ, nhưng họ cảm thấy nơi mình một mãnh lực thật lớn lao, làm cho họ quay trở về với chính mình, khép lại sống cho mình, và có thái độ thật là nguy hiểm là muốn sống trên người khác và chống lại người khác.
Tôi đọc được câu chuyện trên tuoitre.com. Những kẻ vô lương tâm sống trên người già. Thật đau lòng! Thật bất công!
Chăn dắt người già
“Hàng chục ông cụ, bà cụ 70-80 tuổi lụ khụ ngồi lọt thỏm trong những chiếc xe lăn, trên tay là những xấp vé số, đằng sau họ là những người khỏe mạnh đẩy xe hoặc hình ảnh các cụ ngồi co ro, run rẩy bên lề đường ăn xin xuất hiện ở nhiều tuyến đường, cây cầu trên địa bàn TP.HCM... Mấy ngày qua, Sài Gòn trở lạnh, các cụ vẫn phải lê lết thân già dưới sương đêm, trong những đợt gió rét lạnh trên đường. PV Tuổi Trẻ đã lần theo ba đường dây chăn dắt người già tại Sài Gòn. Đường dây chăn dắt người già đi ăn xin do tên C. (quê ở Quảng Lưu, Quảng Xương, Thanh Hóa) cầm đầu. Cứ khoảng 20g, C. lại chở các cụ ông, cụ bà trên 70 tuổi tới các cây cầu Ông Lớn, Ông Bé... trên đại lộ Nguyễn Văn Linh (Q.7) để “hành nghề” ăn xin.
Suốt quá trình các cụ ngồi co ro xin tiền trên cầu, C. luôn di chuyển một cách bí mật để giám sát. Cứ khoảng vài giờ, C. lại chở các cụ thay đổi địa điểm từ cây cầu này qua cây cầu khác... Đến khoảng 0g, C. đảo xe một vòng đón các cụ về phòng trọ tại khu trọ gần sân bóng đá Kim Sơn (ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh).
Tương tự, đường dây chăn dắt người già yếu đi bán vé số do một người đàn ông cũng tên C., quê ở Phú Yên tổ chức. C. thường về Phú Yên gom các cụ già yếu tại địa phương có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn vào TP.HCM dẫn đi bán vé số. C. thuê một dãy phòng trọ trên đường Nguyễn Đình Chiểu (Q.3) làm nơi trú ngụ và điều phối hoạt động của các cụ già.
Một cụ ông trong nhóm cho biết: “Tụi tui già yếu rồi không làm được gì ở quê nữa, anh C. dẫn vào đây bán vé số. Cứ bán xong phải giao tiền ngay và vé số thừa cho chủ. Mỗi tháng chủ trả khoảng 1 triệu đồng”.
Nỗi đau, nỗi tủi của các cụ già bất hạnh này quả là quá lớn!
Và chính quyền ra tay: “Rạng sáng 2-12, Công an phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương) đã kết hợp với Câu lạc bộ phòng chống tội phạm Phú Hòa bắt quả tang một nhóm chuyên chăn dắt người già và trẻ em, trong đó có cụ hơn 80 tuổi và có cháu chỉ gần 10 tuổi.
Theo đó, nhóm này thuê năm phòng trọ tại khu phố 6, phường Phú Hòa để ở.
Hằng ngày Trịnh Viết Thuận (sinh năm 1978 tại Thanh Hóa) và vợ là Phạm Thị Hòa (1979, Hải Phòng) cùng chị ruột Phạm Thị Đạt thuê hai thanh niên chở chín người già và trẻ em đến các khu chợ, chùa và cây xăng để ăn xin, bán vé số.
Hằng ngày mỗi người phải đưa hết tiền xin được cho vợ chồng Thuận. Thời gian “ăn xin” được vợ chồng Thuận chia ra nhiều ca và phải làm việc đến tận 22 giờ.
Mỗi tháng Thuận sẽ trả cho các cụ già và trẻ em 600.000-700.000 đồng/người, trong khi đó trung bình mỗi ngày các cụ xin được khoảng 200.000 đồng, có ngày xin được 400.000 đồng. Hiện Công an phường Phú Hòa tiếp tục điều tra làm rõ vụ việc.” (tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=351007&ChannelID=6).
Đó mới chỉ là một vụ, một nơi. Còn nhiều vụ khác, nhiều nơi khác nữa khắp trên mọi nẻo đường đất nước. Hàng ngày ra đường, gặp người ăn xin, nhưng khó có thể xác định được đó là thật hay là giả. Người ta lợi dụng lòng tốt của người khác để sống hưởng thụ. Thật và giả đang len lỏi trong cuộc sống để rồi nhiều người sống thật rất ghét sự giả dối. Ăn mặc rách rưới, thấy khách bộ hành đi đến thì chìa tay ra, chìa cái mũ ra, dọn sẵn một bộ mặt bi thương, chuẩn bị một giọng nói thống thiết. Đó là diễn xuất của những người ăn xin thông thường. Khi lối diễn ấy không có hiệu quả, người ăn xin thường dùng cả thuật hóa trang. Dùng cả đạo cụ. Thuốc đỏ, bông gòn và băng dán có thể dễ dàng biến một cái chân lành lặn thành ghẻ lở, đầy thương tích. Khi bị công an rượt đuổi, họ có thể chạy rất nhanh nhưng sau đó lập tức biến thành một gã què, lê lết vỉa hè, đầu chợ, miệng hát nghêu ngao những lời ai oán. Người khó tính có thể lật tẩy họ bằng cách giật tung những bông băng để chứng minh với thiên hạ rằng họ đang đóng kịch, đang lừa bịp, nhưng người dễ tính thì nói: “Cứ coi như đó là một cái nghề. Họ cũng đóng kịch như ai, có điều tư thế của họ hèn kém hơn, họ không có sân khấu, không có bục diễn, họ chỉ có vỉa hè, xó chợ vì thế mà họ chỉ ‘lượm bạc cắc’.” Có kẻ đóng vai các nhà sư khất thực, lợi dụng sự mộ đạo của quần chúng. Ở nhà họ có thể là một bợm nhậu, buổi tối họ có thể là một tay xí phé có máu me nhưng đúng chánh ngọ họ khoác áo cà sa đi chân đất, tay cầm bình bát và…xuống đường. Cách ăn xin này đòi hỏi phải có ngoại hình nhưng không cần phải diễn xuất gì nhiều mà chỉ cần “ngậm miệng ăn tiền” là đủ. Đã có lần tôi rất xúc động trước hình ảnh một bà mẹ tả tơi bế đứa bé mắt đầy ghèn đang ngủ mê mệt, mặc cho ruồi bu đen kịt trên mặt. Bà mẹ run rẩy lê bước trên hè phố. Về sau có người bảo tôi rằng đó cũng là một màn kịch. Tôi cãi: “Nhưng đứa bé thì không thể đóng kịch được”. Người nọ giải thích rằng đứa bé đã được cho uống thuốc ngủ để nó ngủ suốt ngày.Trong các mùa thi, đi ngoài phố, chúng ta dễ bắt gặp một chàng trai trẻ ra dáng thư sinh, bước đến chào và nói: “Em ở miền Tây lên thi đại học, không may bị móc túi mất hết tiền bạc, giấy tờ. Em không biết làm sao trở về quê.”. Tình cảnh như vậy thật đáng ái ngại. Nếu bạn gặp một người như thế bạn có sẵn sàng móc ví của mình ra không? Có nghĩa là bạn có tin đó là sự thật? (x.daohieu.wordpress.com).
Xã hội con người ta kể ra cũng lắm chuyện độc ác, nhiều chuyện giả dối. Càng văn minh hiện đại, hình như lại càng độc ác thâm hiểm thủ đoạn bất công và lừa lọc hơn. Chữ Tâm bây giờ trong xã hội thiếu vắng quá.
Báo chí hằng ngày thông tin nhan nhản về những hiện tượng và vụ việc tiêu cực, như: tham ô, mại dâm, ma túy, buôn lậu, móc ngoặc, đâm thuê chém mướn, gian lận và dối trá không những trong thương mại hoặc trong các công trình xây dựng mà đến cả trong giáo dục, thể thao và ngành xét xử.
Một xã hội được quản lý trước nhất bằng luật pháp. Nhưng luật lệ phải hợp lý và chặt chẽ, vừa lý tưởng vừa sát thực tế, hữu hiệu, hết sức tiên liệu những trường hợp cụ thể có thể xảy ra để ngăn ngừa tối đa những sơ hở mà người dân có thể luồn lách, lợi dụng. Về mặt này thì nhiều luật lệ của Việt Nam, bất cứ trong ngành nào, cũng còn rất yếu kém. Song dù luật lệ có hoàn hảo tới đâu và các biện pháp trừng phạt có khắt khe đến mấy cũng không thể nào chi phối trọn vẹn con người được. Vả lại, đó cũng không phải là chức năng của luật lệ. Có một kẽ hở mà không luật lệ nào bít lại được, đó là lòng người là cái tâm. Xã hội chỉ quản lý bề ngoài của con người, không quản lý được và cũng không được phép quản lý bề trong,tư tưởng, tình cảm, lương tâm của họ.
Nền giáo dục nào cũng đều có ba mặt: thể dục, trí dục và đức dục. Giáo dục đạo đức liên quan tới cái tốt cái xấu, cái đúng cái sai, và trực tiếp nhằm vào cái tâm. Không một xã hội nào có thể tồn tại nếu lòng nguời không chịu tuân phục các chuẩn mực đạo đức luân lý. Những giá trị đạo đức như tôn trọng sự thật, lương thiện, nhân ái vị tha, công bằng chẳng hạn, là giá trị cho bất cứ ai sống trong bất cứ xã hội nào. Và những "phản giá trị" như gian dối, ích kỷ, bất công đều là xấu đối với mọi người.
Đức Thánh Cha khẳng định trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2010, điều con người thiếu, đó là tình yêu, đó là con người cần Thiên Chúa. Con người chỉ sống trọn vẹn và được hạnh phúc, khi họ sống với và sống nhờ cũng như sống trong tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho họ, khi tạo dựng nên họ. Con người chỉ sống hạnh phúc khi nhận ra Thiên Chúa ở bên cạnh mình và sống với mình: con người cần Thiên Chúa. Đó là tất cả cái làm thỏa mãn con người và làm cho cuộc sống của họ nên trọn vẹn và được hạnh phúc. Đức Thánh Cha trích dẫn câu nói của Thánh Augustinô như sau: “Nếu sự công bằng là nhân đức đem trả lại cho con người điều thuộc về họ... thì không thể gọi là công bằng, khi người ta kéo họ ra khỏi và xa Thiên Chúa chân thật” (De civitate Dei, XIX, 21). Như vậy thật là bất công khi không đem cho con người tình yêu và Thiên Chúa và khi làm cho con người không nhìn nhận tôn thờ Thiên Chúa. Làm như thế, là không trả lại cho họ “cái thuộc về họ”, mà lại là cái chính yếu. Trong việc chấn hưng đạo, thực thi công bằng, tôn trọng sự thật, rất cần đến vai trò của tôn giáo. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con người, vì thế có lẽ tôn giáo còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ dư luận hay luật pháp (vì còn có thề che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin vào Ðấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Ðấng họ thờ kính. Các nhà lãnh đạo tôn giáo và tín đồ các tôn giáo nghĩ gì về trách nhiệm của mình trước sự xuống dốc đạo đức hiện nay? Và chính quyền các cấp đã đủ tin tưởng để giúp các tôn giáo góp phần của họ cho xã hội trong lãnh vực này chưa? Người ta phải quay về với cái tâm của mình, phải tìm sự thật về mình không phải từ cái chúng ta có, như của cải, địa vị, học thức, quyền bính..., không phải từ cách mình thường nghĩ về mình (vì ai cũng thương mình nên dễ dàng nghĩ sai), cũng không phải từ dư luận của kẻ khác (hình ảnh mà xã hội có về ta cũng thường hời hợt và sai sót), song đối diện với Thiên Chúa. Thánh Phanxicô nói: "Con người trước mặt Thiên Chúa như thế nào thì chỉ là thế ấy, không hơn, không kém".(Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Sứ điệp Mùa Chay mời gọi dấn thân đóng góp vào việc kiến tạo các xã hội công bình:“Chính vì ý thức mạnh mẽ về cảm nghiệm này, người Kitô hữu được thúc đẩy để đóng góp vào việc kiến tạo những xã hội công bình, trong đó tất cả nhận được những gì cần thiết để sống theo phẩm giá riêng của con người và trong đó sự công chính được làm cho sống động bởi tình yêu”. Đức Thánh Cha cũng nhắc lại việc sống Mùa này trong cái nhìn về sự công chính: “Anh Chị Em thân mến, mỗi năm trong dịp Mùa Chay, Giáo Hội mời chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống chúng ta dưới ánh sáng của giáo huấn từ Tin Mừng. Năm nay Tôi muốn giới thiệu với Anh Chị Em một vài suy tư về chủ đề thật lớn lao rộng rãi là sự công chính, khởi đầu từ lời Thánh Phaolô gửi tín hữu tại Rôma: Sự công chính của Thiên Chúa được tỏ hiện qua đức tin vào Chúa Kitô”. Đó là việc phải làm trong Mùa Chay: kiểm điểm lại đời sống nhất là những lỗi phạm về đức công bằng.
Trong phần kết luận, Sứ điệp gợi lại cách vắn tất các việc làm thông thường trong Mùa Chay: “Anh Chị Em thân mến, Mùa Chay đạt tới tột đỉnh trong Tam Nhật vượt qua, trong đó cả năm nay nữa, chúng ta cử hành sự công chính của Thiên Chúa, đó là sự trọn vẹn của đức ái, của ơn huệ, của việc cứu rỗi. Chớ gì thời gian thống hối này trở nên cho mỗi kitô hữu thời gian của việc trở về đích thực và thời gian hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Chúa Kitô, đến để hoàn tất mọi sự công chính”.
Sống Mùa Chay đích thực là rèn luyện nội tâm để lớn lên trong tình yêu. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13, 1-3).
Qua sứ điệp này Đức Thánh Cha Bênêđictô kêu gọi các tín hữu hãy “xây dựng các xã hội công bằng”, trong đó mọi người “nhận được những gì cần thiết để sống theo đúng phẩm giá con người” và trong đó “sự công chính được làm cho sống động bởi tình yêu”. Đó là các phận vụ cụ thể Đức Thánh Cha ủy thác cho con cái mình trong Mùa Chay Thánh này. Giáo Hội luôn bênh vực cho công lý, lưu ý tới việc thăng tiến nhân sinh, việc phân phát công bằng các tài nguyên tự nhiên và đưa ra các giáo huấn xã hội liên hệ tới các sinh hoạt này. Năm khái niệm: công bằng, bác ái, huynh đệ, tự do và liên đới luôn gắn liền với nhau. Việc tranh đấu cho công bằng có gốc rễ luân lý, đó là gốc rễ của giá trị liên đới và huynh đệ mà Kitô giáo gọi là bác ái.
Thiếu công bằng là hậu quả của một thái độ căn cốt bên trong con người. Sứ điệp viết: “Sự bất công từ đâu tới? Thánh sử Marco ghi lại những lời sau đây của Chúa Giêsu, được lồng vào trong cuộc tranh luận thời đó về những điều thanh sạch và những điều ô uế: “Không có gì từ bên ngoài con người vào nơi họ, có thể làm cho họ ra ô uế. Nhưng là những điều từ bên trong con người đi mới làm cho họ ra ô uế. Vật đi ra từ con người là điều làm cho con người ra ô uế. Quả vậy phát xuất ra từ bên trong, nghĩa là từ cõi lòng con người, từ đó phát xuất ra những ý định xấu xa.” (Mc 7, 14-15. 20-21). Từ đây, Đức Thánh Cha cho thấy, đối với những người Biệt phái, thì căn nguyên của sự dữ, sự ác, của bất công, đến từ một căn cớ bên ngoài con người. Theo quan điểm này, bao nhiêu ý thức hệ đã nhận ra một loại căn nguyên nào đó của sự bất công trong xã hội, và họ tìm mọi cách để loại bỏ, có khi dựng nên một chế độ, một ý thức hệ và một cơ cấu quyền lực để chống lại bất công và loại bỏ những áp bức xã hội. Một điều thật trớ trêu, đó là có khi con người lại dùng cả bạo lực nữa để chống lại cái mà gọi là bất công. Nhưng Sứ điệp Mùa Chay khẳng định ngay: “Cách thế suy nghĩ này, Chúa Giêsu đã cảnh cáo thật là ngây thơ và ảo tưởng. Sự bất công, hậu quả của sự dữ, không chỉ có nguyên nhân bên ngoài mà thôi; nó có nguồn gốc từ cõi lòng con người, từ đó nảy sinh mầm mống của một cung cách sống chung với sự dữ”. Sứ điệp nhắc lại kinh nghiệm đau thương sâu thẳm của tác giả Thánh vịnh 51: “Này đây, chính trong tội lỗi mà tôi đã sinh ra, chính trong tội mà mẹ tôi đã hoài thai tôi” (Tv 51, 7). Rồi Sứ điệp giải thích thêm về cái căn gốc bên trong của sự dữ và của mọi hành động bất công: đó là con người bị xô đẩy mạnh mẽ vào trong một thái độ làm mất đi khả năng hiệp thông với người khác, mà theo bản tính, con người hướng về sự chia sẻ, nhưng họ cảm thấy nơi mình một mãnh lực thật lớn lao, làm cho họ quay trở về với chính mình, khép lại sống cho mình, và có thái độ thật là nguy hiểm là muốn sống trên người khác và chống lại người khác.
Tôi đọc được câu chuyện trên tuoitre.com. Những kẻ vô lương tâm sống trên người già. Thật đau lòng! Thật bất công!
Chăn dắt người già
“Hàng chục ông cụ, bà cụ 70-80 tuổi lụ khụ ngồi lọt thỏm trong những chiếc xe lăn, trên tay là những xấp vé số, đằng sau họ là những người khỏe mạnh đẩy xe hoặc hình ảnh các cụ ngồi co ro, run rẩy bên lề đường ăn xin xuất hiện ở nhiều tuyến đường, cây cầu trên địa bàn TP.HCM... Mấy ngày qua, Sài Gòn trở lạnh, các cụ vẫn phải lê lết thân già dưới sương đêm, trong những đợt gió rét lạnh trên đường. PV Tuổi Trẻ đã lần theo ba đường dây chăn dắt người già tại Sài Gòn. Đường dây chăn dắt người già đi ăn xin do tên C. (quê ở Quảng Lưu, Quảng Xương, Thanh Hóa) cầm đầu. Cứ khoảng 20g, C. lại chở các cụ ông, cụ bà trên 70 tuổi tới các cây cầu Ông Lớn, Ông Bé... trên đại lộ Nguyễn Văn Linh (Q.7) để “hành nghề” ăn xin.
Suốt quá trình các cụ ngồi co ro xin tiền trên cầu, C. luôn di chuyển một cách bí mật để giám sát. Cứ khoảng vài giờ, C. lại chở các cụ thay đổi địa điểm từ cây cầu này qua cây cầu khác... Đến khoảng 0g, C. đảo xe một vòng đón các cụ về phòng trọ tại khu trọ gần sân bóng đá Kim Sơn (ấp 4, xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh).
Tương tự, đường dây chăn dắt người già yếu đi bán vé số do một người đàn ông cũng tên C., quê ở Phú Yên tổ chức. C. thường về Phú Yên gom các cụ già yếu tại địa phương có hoàn cảnh khó khăn, neo đơn vào TP.HCM dẫn đi bán vé số. C. thuê một dãy phòng trọ trên đường Nguyễn Đình Chiểu (Q.3) làm nơi trú ngụ và điều phối hoạt động của các cụ già.
Một cụ ông trong nhóm cho biết: “Tụi tui già yếu rồi không làm được gì ở quê nữa, anh C. dẫn vào đây bán vé số. Cứ bán xong phải giao tiền ngay và vé số thừa cho chủ. Mỗi tháng chủ trả khoảng 1 triệu đồng”.
Nỗi đau, nỗi tủi của các cụ già bất hạnh này quả là quá lớn!
Và chính quyền ra tay: “Rạng sáng 2-12, Công an phường Phú Hòa, thị xã Thủ Dầu Một (Bình Dương) đã kết hợp với Câu lạc bộ phòng chống tội phạm Phú Hòa bắt quả tang một nhóm chuyên chăn dắt người già và trẻ em, trong đó có cụ hơn 80 tuổi và có cháu chỉ gần 10 tuổi.
Theo đó, nhóm này thuê năm phòng trọ tại khu phố 6, phường Phú Hòa để ở.
Hằng ngày Trịnh Viết Thuận (sinh năm 1978 tại Thanh Hóa) và vợ là Phạm Thị Hòa (1979, Hải Phòng) cùng chị ruột Phạm Thị Đạt thuê hai thanh niên chở chín người già và trẻ em đến các khu chợ, chùa và cây xăng để ăn xin, bán vé số.
Hằng ngày mỗi người phải đưa hết tiền xin được cho vợ chồng Thuận. Thời gian “ăn xin” được vợ chồng Thuận chia ra nhiều ca và phải làm việc đến tận 22 giờ.
Mỗi tháng Thuận sẽ trả cho các cụ già và trẻ em 600.000-700.000 đồng/người, trong khi đó trung bình mỗi ngày các cụ xin được khoảng 200.000 đồng, có ngày xin được 400.000 đồng. Hiện Công an phường Phú Hòa tiếp tục điều tra làm rõ vụ việc.” (tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=351007&ChannelID=6).
Đó mới chỉ là một vụ, một nơi. Còn nhiều vụ khác, nhiều nơi khác nữa khắp trên mọi nẻo đường đất nước. Hàng ngày ra đường, gặp người ăn xin, nhưng khó có thể xác định được đó là thật hay là giả. Người ta lợi dụng lòng tốt của người khác để sống hưởng thụ. Thật và giả đang len lỏi trong cuộc sống để rồi nhiều người sống thật rất ghét sự giả dối. Ăn mặc rách rưới, thấy khách bộ hành đi đến thì chìa tay ra, chìa cái mũ ra, dọn sẵn một bộ mặt bi thương, chuẩn bị một giọng nói thống thiết. Đó là diễn xuất của những người ăn xin thông thường. Khi lối diễn ấy không có hiệu quả, người ăn xin thường dùng cả thuật hóa trang. Dùng cả đạo cụ. Thuốc đỏ, bông gòn và băng dán có thể dễ dàng biến một cái chân lành lặn thành ghẻ lở, đầy thương tích. Khi bị công an rượt đuổi, họ có thể chạy rất nhanh nhưng sau đó lập tức biến thành một gã què, lê lết vỉa hè, đầu chợ, miệng hát nghêu ngao những lời ai oán. Người khó tính có thể lật tẩy họ bằng cách giật tung những bông băng để chứng minh với thiên hạ rằng họ đang đóng kịch, đang lừa bịp, nhưng người dễ tính thì nói: “Cứ coi như đó là một cái nghề. Họ cũng đóng kịch như ai, có điều tư thế của họ hèn kém hơn, họ không có sân khấu, không có bục diễn, họ chỉ có vỉa hè, xó chợ vì thế mà họ chỉ ‘lượm bạc cắc’.” Có kẻ đóng vai các nhà sư khất thực, lợi dụng sự mộ đạo của quần chúng. Ở nhà họ có thể là một bợm nhậu, buổi tối họ có thể là một tay xí phé có máu me nhưng đúng chánh ngọ họ khoác áo cà sa đi chân đất, tay cầm bình bát và…xuống đường. Cách ăn xin này đòi hỏi phải có ngoại hình nhưng không cần phải diễn xuất gì nhiều mà chỉ cần “ngậm miệng ăn tiền” là đủ. Đã có lần tôi rất xúc động trước hình ảnh một bà mẹ tả tơi bế đứa bé mắt đầy ghèn đang ngủ mê mệt, mặc cho ruồi bu đen kịt trên mặt. Bà mẹ run rẩy lê bước trên hè phố. Về sau có người bảo tôi rằng đó cũng là một màn kịch. Tôi cãi: “Nhưng đứa bé thì không thể đóng kịch được”. Người nọ giải thích rằng đứa bé đã được cho uống thuốc ngủ để nó ngủ suốt ngày.Trong các mùa thi, đi ngoài phố, chúng ta dễ bắt gặp một chàng trai trẻ ra dáng thư sinh, bước đến chào và nói: “Em ở miền Tây lên thi đại học, không may bị móc túi mất hết tiền bạc, giấy tờ. Em không biết làm sao trở về quê.”. Tình cảnh như vậy thật đáng ái ngại. Nếu bạn gặp một người như thế bạn có sẵn sàng móc ví của mình ra không? Có nghĩa là bạn có tin đó là sự thật? (x.daohieu.wordpress.com).
Xã hội con người ta kể ra cũng lắm chuyện độc ác, nhiều chuyện giả dối. Càng văn minh hiện đại, hình như lại càng độc ác thâm hiểm thủ đoạn bất công và lừa lọc hơn. Chữ Tâm bây giờ trong xã hội thiếu vắng quá.
Báo chí hằng ngày thông tin nhan nhản về những hiện tượng và vụ việc tiêu cực, như: tham ô, mại dâm, ma túy, buôn lậu, móc ngoặc, đâm thuê chém mướn, gian lận và dối trá không những trong thương mại hoặc trong các công trình xây dựng mà đến cả trong giáo dục, thể thao và ngành xét xử.
Một xã hội được quản lý trước nhất bằng luật pháp. Nhưng luật lệ phải hợp lý và chặt chẽ, vừa lý tưởng vừa sát thực tế, hữu hiệu, hết sức tiên liệu những trường hợp cụ thể có thể xảy ra để ngăn ngừa tối đa những sơ hở mà người dân có thể luồn lách, lợi dụng. Về mặt này thì nhiều luật lệ của Việt Nam, bất cứ trong ngành nào, cũng còn rất yếu kém. Song dù luật lệ có hoàn hảo tới đâu và các biện pháp trừng phạt có khắt khe đến mấy cũng không thể nào chi phối trọn vẹn con người được. Vả lại, đó cũng không phải là chức năng của luật lệ. Có một kẽ hở mà không luật lệ nào bít lại được, đó là lòng người là cái tâm. Xã hội chỉ quản lý bề ngoài của con người, không quản lý được và cũng không được phép quản lý bề trong,tư tưởng, tình cảm, lương tâm của họ.
Nền giáo dục nào cũng đều có ba mặt: thể dục, trí dục và đức dục. Giáo dục đạo đức liên quan tới cái tốt cái xấu, cái đúng cái sai, và trực tiếp nhằm vào cái tâm. Không một xã hội nào có thể tồn tại nếu lòng nguời không chịu tuân phục các chuẩn mực đạo đức luân lý. Những giá trị đạo đức như tôn trọng sự thật, lương thiện, nhân ái vị tha, công bằng chẳng hạn, là giá trị cho bất cứ ai sống trong bất cứ xã hội nào. Và những "phản giá trị" như gian dối, ích kỷ, bất công đều là xấu đối với mọi người.
Đức Thánh Cha khẳng định trong Sứ điệp Mùa Chay năm 2010, điều con người thiếu, đó là tình yêu, đó là con người cần Thiên Chúa. Con người chỉ sống trọn vẹn và được hạnh phúc, khi họ sống với và sống nhờ cũng như sống trong tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho họ, khi tạo dựng nên họ. Con người chỉ sống hạnh phúc khi nhận ra Thiên Chúa ở bên cạnh mình và sống với mình: con người cần Thiên Chúa. Đó là tất cả cái làm thỏa mãn con người và làm cho cuộc sống của họ nên trọn vẹn và được hạnh phúc. Đức Thánh Cha trích dẫn câu nói của Thánh Augustinô như sau: “Nếu sự công bằng là nhân đức đem trả lại cho con người điều thuộc về họ... thì không thể gọi là công bằng, khi người ta kéo họ ra khỏi và xa Thiên Chúa chân thật” (De civitate Dei, XIX, 21). Như vậy thật là bất công khi không đem cho con người tình yêu và Thiên Chúa và khi làm cho con người không nhìn nhận tôn thờ Thiên Chúa. Làm như thế, là không trả lại cho họ “cái thuộc về họ”, mà lại là cái chính yếu. Trong việc chấn hưng đạo, thực thi công bằng, tôn trọng sự thật, rất cần đến vai trò của tôn giáo. Tôn giáo nhắm trực tiếp vào nội tâm con người, vì thế có lẽ tôn giáo còn hữu hiện hơn xã hội rất nhiều trong việc chế ngự cái xấu, cổ vũ cái tốt. Bởi vì tôn giáo chân chính nào cũng đều kêu gọi, động viên, giáo dục con người làm lành lánh dữ, vươn lên làm chủ phần hạ đẳng nơi mình để thăng hoa phần cao thượng trong sáng. Người ta có thể không sợ dư luận hay luật pháp (vì còn có thề che dấu luồn lách), nhưng một khi đã tin vào Ðấng Linh Thiêng và nếu đó là một niềm tin sống động, người ta khó có thể không sợ sự phán xét của lương tâm và nhất là của Ðấng họ thờ kính. Các nhà lãnh đạo tôn giáo và tín đồ các tôn giáo nghĩ gì về trách nhiệm của mình trước sự xuống dốc đạo đức hiện nay? Và chính quyền các cấp đã đủ tin tưởng để giúp các tôn giáo góp phần của họ cho xã hội trong lãnh vực này chưa? Người ta phải quay về với cái tâm của mình, phải tìm sự thật về mình không phải từ cái chúng ta có, như của cải, địa vị, học thức, quyền bính..., không phải từ cách mình thường nghĩ về mình (vì ai cũng thương mình nên dễ dàng nghĩ sai), cũng không phải từ dư luận của kẻ khác (hình ảnh mà xã hội có về ta cũng thường hời hợt và sai sót), song đối diện với Thiên Chúa. Thánh Phanxicô nói: "Con người trước mặt Thiên Chúa như thế nào thì chỉ là thế ấy, không hơn, không kém".(Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Sứ điệp Mùa Chay mời gọi dấn thân đóng góp vào việc kiến tạo các xã hội công bình:“Chính vì ý thức mạnh mẽ về cảm nghiệm này, người Kitô hữu được thúc đẩy để đóng góp vào việc kiến tạo những xã hội công bình, trong đó tất cả nhận được những gì cần thiết để sống theo phẩm giá riêng của con người và trong đó sự công chính được làm cho sống động bởi tình yêu”. Đức Thánh Cha cũng nhắc lại việc sống Mùa này trong cái nhìn về sự công chính: “Anh Chị Em thân mến, mỗi năm trong dịp Mùa Chay, Giáo Hội mời chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống chúng ta dưới ánh sáng của giáo huấn từ Tin Mừng. Năm nay Tôi muốn giới thiệu với Anh Chị Em một vài suy tư về chủ đề thật lớn lao rộng rãi là sự công chính, khởi đầu từ lời Thánh Phaolô gửi tín hữu tại Rôma: Sự công chính của Thiên Chúa được tỏ hiện qua đức tin vào Chúa Kitô”. Đó là việc phải làm trong Mùa Chay: kiểm điểm lại đời sống nhất là những lỗi phạm về đức công bằng.
Trong phần kết luận, Sứ điệp gợi lại cách vắn tất các việc làm thông thường trong Mùa Chay: “Anh Chị Em thân mến, Mùa Chay đạt tới tột đỉnh trong Tam Nhật vượt qua, trong đó cả năm nay nữa, chúng ta cử hành sự công chính của Thiên Chúa, đó là sự trọn vẹn của đức ái, của ơn huệ, của việc cứu rỗi. Chớ gì thời gian thống hối này trở nên cho mỗi kitô hữu thời gian của việc trở về đích thực và thời gian hiểu biết sâu xa về mầu nhiệm của Chúa Kitô, đến để hoàn tất mọi sự công chính”.
Sống Mùa Chay đích thực là rèn luyện nội tâm để lớn lên trong tình yêu. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13, 1-3).
Cầu nguyện: Vũ khí mạnh nhất
Phó tế: GB. Maria Nguyễn Định
17:38 01/03/2010
* Chuyện kể: Ông bà Seamore ở Joneville không có con, họ đã cao tuổi, sống cuộc đời bình dị trong trang trại nhỏ biệt lập. Họ là những Kitô hữu chỉ biết đêm ngày đọc Lời Chúa và đọc kinh cầu nguyện.
Một đêm nọ, bà Seamore đang đọc kinh lần hạt, còn ông thì đọc và suy niệm Kinh Thánh. Thình lình một kẻ đeo mặt nạ nhảy vào phòng qua cửa sổ. Hắn hét to: “Đưa đây 500 đô, nếu không ta giết hết.!” Ông Seamore thật bình tĩnh đứng đậy, cầm quyển Kinh thánh Tân Uớc trong tay và nhè nhẹ nói: “Xin anh cho một phút để chúng tôi cầu nguyện” Rồi quay sang bà ông nói: “Mình ơi, chúng ta cùng cầu nguyện cho anh này.” Thế rồi hai ông bà quì gối bên nhau cầu nguyện cho tên cướp. Hắn đứng đấy bất ngờ và bối rối, chết lặng như tượng đá; nhưng vẫn nghe rõ ràng lời cầu nguyện của ông già, rồi hắn buông súng xuống, nức nở khóc. Ông già choàng tay lên đôi vai gầy guộc của hắn, nhẹ nhàng hỏi: “Sao anh ra nông nỗi này vậy?”
- Vợ tôi phải giải phẫu, nguy ngập lắm, tôi yêu nàng, sợ nàng chết; nhưng không có tiền. Đây là lần đầu tiên tôi phải đi ăn cướp!”- Ông già bảo: “Tin tưởng, Chúa sẽ giúp con nhé.”
Thế rồi ông bà Seamore quyết định cho anh ta mượn một số tiền để lo cho vợ, sau đó anh ta đến trang trại làm việc cho ông bà. Họ cùng nhau đi nhà thờ cầu nguyện. Câu chuyện này được rất nhiều người biết đến, thật là bằng chứng về “sức mạnh của sự cầu nguyện”.
* Một phút hồi tâm: Nhờ sự suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện liên tục hàng ngày, mà ông bà Seamore đã có sức mạnh, bình tĩnh và khôn ngoan của Chúa Thánh Linh trong thử thách đặc biệt này.
Đúng như việc Chúa Giêsu đã dạy bạn và tôi: “Khi lên núi cầu nguyện cùng với các mộn đệ, thì dung mạo Người đã biến đổi khác (x. Lc 9, 28-29) và Người còn dạy tôi là: “ Đây là Con Ta, hãy vâng nghe Lời Người.” (x. Lc 9, 35). Thánh Phaolô cũng đã dạy: “Anh em đừng lo lắng gì cả. nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.” (Pl 4, 6)
Tóm lại, sự cầu nguyện có thể làm biến đổi tất cả. Nếu bạn suy niệm Lời Chúa hàng ngày, vì: “Lời Chúa là đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118: 105)
Một đêm nọ, bà Seamore đang đọc kinh lần hạt, còn ông thì đọc và suy niệm Kinh Thánh. Thình lình một kẻ đeo mặt nạ nhảy vào phòng qua cửa sổ. Hắn hét to: “Đưa đây 500 đô, nếu không ta giết hết.!” Ông Seamore thật bình tĩnh đứng đậy, cầm quyển Kinh thánh Tân Uớc trong tay và nhè nhẹ nói: “Xin anh cho một phút để chúng tôi cầu nguyện” Rồi quay sang bà ông nói: “Mình ơi, chúng ta cùng cầu nguyện cho anh này.” Thế rồi hai ông bà quì gối bên nhau cầu nguyện cho tên cướp. Hắn đứng đấy bất ngờ và bối rối, chết lặng như tượng đá; nhưng vẫn nghe rõ ràng lời cầu nguyện của ông già, rồi hắn buông súng xuống, nức nở khóc. Ông già choàng tay lên đôi vai gầy guộc của hắn, nhẹ nhàng hỏi: “Sao anh ra nông nỗi này vậy?”
- Vợ tôi phải giải phẫu, nguy ngập lắm, tôi yêu nàng, sợ nàng chết; nhưng không có tiền. Đây là lần đầu tiên tôi phải đi ăn cướp!”- Ông già bảo: “Tin tưởng, Chúa sẽ giúp con nhé.”
Thế rồi ông bà Seamore quyết định cho anh ta mượn một số tiền để lo cho vợ, sau đó anh ta đến trang trại làm việc cho ông bà. Họ cùng nhau đi nhà thờ cầu nguyện. Câu chuyện này được rất nhiều người biết đến, thật là bằng chứng về “sức mạnh của sự cầu nguyện”.
* Một phút hồi tâm: Nhờ sự suy niệm Lời Chúa và cầu nguyện liên tục hàng ngày, mà ông bà Seamore đã có sức mạnh, bình tĩnh và khôn ngoan của Chúa Thánh Linh trong thử thách đặc biệt này.
Đúng như việc Chúa Giêsu đã dạy bạn và tôi: “Khi lên núi cầu nguyện cùng với các mộn đệ, thì dung mạo Người đã biến đổi khác (x. Lc 9, 28-29) và Người còn dạy tôi là: “ Đây là Con Ta, hãy vâng nghe Lời Người.” (x. Lc 9, 35). Thánh Phaolô cũng đã dạy: “Anh em đừng lo lắng gì cả. nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện.” (Pl 4, 6)
Tóm lại, sự cầu nguyện có thể làm biến đổi tất cả. Nếu bạn suy niệm Lời Chúa hàng ngày, vì: “Lời Chúa là đèn soi con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 118: 105)
Người giết người
Linh Mục Anphong Trần Đức Phương
19:08 01/03/2010
Chúa Nhật Thứ 3 Mùa Chay, Năm C
Theo tin mới nhất, trong cuộc động đất vừa qua (1/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến con số kỷ lục 230 ngàn người, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy hoàn toàn, những người còn sống sót không còn ngôi nhà thân yêu để trở về.
Hàng ngày vẫn có những thiên tai xảy ra trên thế giới như động đất, bão tố, đất chuồi, sóng thần… giết hại nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa!
Tuy nhiên, so sánh với các tai ương chính con người gây ra cho con người, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Hai cuộc Thế Chiến trong thề kỷ 20 vừa qua đã phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại, và số tử vong trong quân đội cũng như dân sự đã lên tới hàng triệu người. Bao nhiêu con người sống sót không còn một mái nhà để trở về.
Những nhà độc tài trong chế độ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… đã giết không phải hàng nghìn, hàng trăm nghìn, nhưng hàng triệu những người dân vô tội; chưa kể đến nhà độc tài Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái, và bao nhiêu người khác bị giết thảm thương trong cuộc chiến tranh do ông ta gây ra trong Thế Chiến II.
Những thiên tai thật khủng khiếp; nhưng “Người Giết Người” còn thảm thương biết bao!
Nguyên nhân “Người Giết Người” là vì có những con người đã lìa xa tình yêu của Thiên Chúa, đã phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành mình. Họ đã trở nên những kẻ “Vô Thần” và “Vô Luân”. Bám chặt vào những ý thức hệ vô thần, họ đã biến “con người trở nên như thù địch của con người!” Do đó, nhân loại không còn là một gia đình của tình yêu Thiên Chúa, nhưng là nơi đấu tranh và thù hận, chỉ rình mò để hãm hại lẫn nhau.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 13: 1-9) nói đến tai nạn khủng khiếp do tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người và việc Philatô đã tàn ác giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa với máu các vật họ tế sinh. Theo nhà Sử Học Flavius Joseph (Josephus, 37-100), thì Philatô còn gây ra nhiều cuộc đổ máu khác, chưa kể đến vụ ông đã kết án bất công Chúa Giêsu và trao phó Người cho dân Do Thái hành hạ rồi đem đi giết.
Chúa Giêsu đã rút ra hai bài học do hai biến cố bi thảm trên đây để dạy chúng ta biết “những nạn nhân trong hai biến cố thê thảm đó, không phải là do “Họ tội lỗi hơn người khác!” Đồng thời, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta hãy luôn biết nhìn nhận tội lỗi của mình để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, và với anh em mình trong mái nhà thân thương của gia đình nhân loại. Chúa là Cha nhân từ vẫn luôn gia hạn để chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về để khỏi bị “tiêu diệt!” giống như người làm vườn đã xin Ông chủ gia hạn đừng chặt cây vả, để chờ một năm nữa xem sao! (xem Bài Phúc Âm).
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Corintô 10: 1-6, 10-12) nhắc đến biến cố Xuất hành đã được ghi lại trong Bài Đọc I (Xuất Hành 3: 1-8, 13-15). Dân Do Thái xưa đã đứng lên, quyết từ bỏ đời sống nô lệ lâu dài ở Ai-Cập, lên đường, chấp nhận mọi gian nan thử thách trong sa mạc trong 40 năm dài, để trở về quê hương thật của mình, trở về vùng “Đất Hứa” yêu thương.
Trở về quê hương mình, trở về mái nhà mình vẫn là niềm vui và hứng thú của mọi người chúng ta, vì không đâu bằng ngôi nhà của mình (No Place Like Home! Home Sweet Home!)
Mỗi người chúng ta cũng cần đứng lên, quyết tâm từ bỏ đời sống nô lệ tội lỗi, vượt qua các cám dỗ níu kéo của con người tầm thường, để trở về ngôi nhà Giáo Hội thân thương, và được hưởng tình yêu thương của Chúa và của anh em mình trong gia đình nhân loại.
Chủ điểm của Mùa Chay là ăn năn, sám hối lỗi lầm và trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, với mọi người như anh chị em trong gia đình nhân loại. Thay vì chống lại Thiên Chúa và chém giết lẫn nhau như thù địch, chúng ta sẽ nhìn nhận nhau như anh em trong một gia đình có Chúa là Cha yêu thương của mọi người. Lúc đó, chúng ta mới có thể sống thuận hòa với nhau và tình yêu thương sẽ tràn ngập để bảo đảm một nền hòa bình đích thực.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay này. Qua việc “Ăn Chay, Hãm Mình, và làm việc Từ Thiện” giúp người nghèo khó, chúng ta sẽ sống thực Phúc Âm tình thương của Chúa và được sống lại thật với Chúa trong tình yêu Chúa, và trong tình yêu thương anh em với nhau. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho Phong trào “Trở Về” (Catholics Come Home) đang được phát động mạnh mẽ trong Giáo Hội Hoa Kỳ, và đã giúp cho nhiều ngàn người tìm lại được Đức Tin và vui mừng trở về ngôi Nhà Giáo Hội của Chúa.
Theo tin mới nhất, trong cuộc động đất vừa qua (1/12/2010) tại Haiti, số người chết đã lên đến con số kỷ lục 230 ngàn người, nhiều nhà cửa đã bị phá hủy hoàn toàn, những người còn sống sót không còn ngôi nhà thân yêu để trở về.
Hàng ngày vẫn có những thiên tai xảy ra trên thế giới như động đất, bão tố, đất chuồi, sóng thần… giết hại nhiều người, phá hủy nhiều nhà cửa!
Tuy nhiên, so sánh với các tai ương chính con người gây ra cho con người, thì còn khủng khiếp hơn nhiều. Hai cuộc Thế Chiến trong thề kỷ 20 vừa qua đã phá hủy bao nhiêu công trình kiến trúc của nhân loại, và số tử vong trong quân đội cũng như dân sự đã lên tới hàng triệu người. Bao nhiêu con người sống sót không còn một mái nhà để trở về.
Những nhà độc tài trong chế độ cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Polpot… đã giết không phải hàng nghìn, hàng trăm nghìn, nhưng hàng triệu những người dân vô tội; chưa kể đến nhà độc tài Hitler đã giết hơn 6 triệu người Do Thái, và bao nhiêu người khác bị giết thảm thương trong cuộc chiến tranh do ông ta gây ra trong Thế Chiến II.
Những thiên tai thật khủng khiếp; nhưng “Người Giết Người” còn thảm thương biết bao!
Nguyên nhân “Người Giết Người” là vì có những con người đã lìa xa tình yêu của Thiên Chúa, đã phủ nhận tình yêu của Thiên Chúa là Cha, là Đấng tạo thành mình. Họ đã trở nên những kẻ “Vô Thần” và “Vô Luân”. Bám chặt vào những ý thức hệ vô thần, họ đã biến “con người trở nên như thù địch của con người!” Do đó, nhân loại không còn là một gia đình của tình yêu Thiên Chúa, nhưng là nơi đấu tranh và thù hận, chỉ rình mò để hãm hại lẫn nhau.
Bài Phúc Âm hôm nay (Luca 13: 1-9) nói đến tai nạn khủng khiếp do tháp Siloe đổ xuống làm chết 18 người và việc Philatô đã tàn ác giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hòa với máu các vật họ tế sinh. Theo nhà Sử Học Flavius Joseph (Josephus, 37-100), thì Philatô còn gây ra nhiều cuộc đổ máu khác, chưa kể đến vụ ông đã kết án bất công Chúa Giêsu và trao phó Người cho dân Do Thái hành hạ rồi đem đi giết.
Chúa Giêsu đã rút ra hai bài học do hai biến cố bi thảm trên đây để dạy chúng ta biết “những nạn nhân trong hai biến cố thê thảm đó, không phải là do “Họ tội lỗi hơn người khác!” Đồng thời, Chúa Giêsu kêu gọi mọi người chúng ta hãy luôn biết nhìn nhận tội lỗi của mình để ăn năn sám hối, cải thiện đời sống, trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, và với anh em mình trong mái nhà thân thương của gia đình nhân loại. Chúa là Cha nhân từ vẫn luôn gia hạn để chờ đợi người tội lỗi ăn năn trở về để khỏi bị “tiêu diệt!” giống như người làm vườn đã xin Ông chủ gia hạn đừng chặt cây vả, để chờ một năm nữa xem sao! (xem Bài Phúc Âm).
Thánh Phaolô trong Bài Đọc II (1Corintô 10: 1-6, 10-12) nhắc đến biến cố Xuất hành đã được ghi lại trong Bài Đọc I (Xuất Hành 3: 1-8, 13-15). Dân Do Thái xưa đã đứng lên, quyết từ bỏ đời sống nô lệ lâu dài ở Ai-Cập, lên đường, chấp nhận mọi gian nan thử thách trong sa mạc trong 40 năm dài, để trở về quê hương thật của mình, trở về vùng “Đất Hứa” yêu thương.
Trở về quê hương mình, trở về mái nhà mình vẫn là niềm vui và hứng thú của mọi người chúng ta, vì không đâu bằng ngôi nhà của mình (No Place Like Home! Home Sweet Home!)
Mỗi người chúng ta cũng cần đứng lên, quyết tâm từ bỏ đời sống nô lệ tội lỗi, vượt qua các cám dỗ níu kéo của con người tầm thường, để trở về ngôi nhà Giáo Hội thân thương, và được hưởng tình yêu thương của Chúa và của anh em mình trong gia đình nhân loại.
Chủ điểm của Mùa Chay là ăn năn, sám hối lỗi lầm và trở về với Chúa là Cha, trở về với chính mình, với mọi người như anh chị em trong gia đình nhân loại. Thay vì chống lại Thiên Chúa và chém giết lẫn nhau như thù địch, chúng ta sẽ nhìn nhận nhau như anh em trong một gia đình có Chúa là Cha yêu thương của mọi người. Lúc đó, chúng ta mới có thể sống thuận hòa với nhau và tình yêu thương sẽ tràn ngập để bảo đảm một nền hòa bình đích thực.
Xin Chúa chúc lành cho mọi người chúng ta, đặc biệt trong Mùa Chay này. Qua việc “Ăn Chay, Hãm Mình, và làm việc Từ Thiện” giúp người nghèo khó, chúng ta sẽ sống thực Phúc Âm tình thương của Chúa và được sống lại thật với Chúa trong tình yêu Chúa, và trong tình yêu thương anh em với nhau. Chúng ta cũng cầu nguyện cách riêng cho Phong trào “Trở Về” (Catholics Come Home) đang được phát động mạnh mẽ trong Giáo Hội Hoa Kỳ, và đã giúp cho nhiều ngàn người tìm lại được Đức Tin và vui mừng trở về ngôi Nhà Giáo Hội của Chúa.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha cầu nguyện cho nền kinh tế thế giới
Bùi Hữu Thư
20:47 01/03/2010
VATICAN, ngày 1 tháng 3, 2010 (Zenit.org).- Đức Thánh Cha Benedict XVI sẽ cầu nguyện tháng này cho công lý và bình đẳng trở thành các nguyên tắc điều hành nền kinh tế trên thế giới.
Hội Tông Đồ Cầu Nguyện thông báo các ý chỉ cầu nguyện được Đức Thánh Cha lựa chọn cho tháng Ba.
Ý chỉ cầu nguyện chung của ngài là: “Xin cho nền kinh tế thế giới có thể được điều hành theo các nguyên tắc về công lý và bình đẳng, chú ý đến nhu cầu thực sự của các dân tộc, nhất là những dân nghèo khó nhất.”
Đức Thánh Cha cũng lựa chọn ý chỉ cầu nguyện tông đồ cho mỗi tháng.
Vào tháng Tám ngài sẽ cầu nguyện như sau: “Xin cho các Giáo Hội Phi Châu là dấu chỉ và công cụ của sự hòa giải và công lý trên toàn thể lục điạ này."
Hội Tông Đồ Cầu Nguyện thông báo các ý chỉ cầu nguyện được Đức Thánh Cha lựa chọn cho tháng Ba.
Ý chỉ cầu nguyện chung của ngài là: “Xin cho nền kinh tế thế giới có thể được điều hành theo các nguyên tắc về công lý và bình đẳng, chú ý đến nhu cầu thực sự của các dân tộc, nhất là những dân nghèo khó nhất.”
Đức Thánh Cha cũng lựa chọn ý chỉ cầu nguyện tông đồ cho mỗi tháng.
Vào tháng Tám ngài sẽ cầu nguyện như sau: “Xin cho các Giáo Hội Phi Châu là dấu chỉ và công cụ của sự hòa giải và công lý trên toàn thể lục điạ này."
Ngoại giao và tôn giáo
Vũ Văn An
21:05 01/03/2010
Linh mục John Flynn, LC vừa có một bài phân tích trên bản tin của Zenit (ngày 28 tháng 2) về những điểm tiêu cực trong chiến lược chống lại chủ nghĩa cực đoan tôn giáo bằng cách đẩy niềm tin tôn giáo vào lãnh vực tư. Linh mục Flynn cho biết: đó là một sai lầm lớn, dựa vào một phúc trình do Hội Đồng Chicago công bố ngày 23 tháng 2 vừa qua.
Phúc trình trên có tựa đề là “Engaging Religious Communities Abroad: A New Imperative for U.S. Foreign Policy" (Giành được các cộng đồng tôn giáo ở ngoại quốc: Cấp bách mới đối với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ). Phúc trình này là công trình của 32 chuyên viên bao gồm các cựu viên chức chính phủ, các lãnh tụ tôn giáo, các vị đứng đầu nhiều tổ chức quốc tế và các học giả.
Các chuyên viên này cho rằng hiện nay, chính phủ Hoa Kỳ không có khả năng hiểu đầy đủ các cộng đồng tôn giáo và giành được sự ủng hộ của họ. Tuy trong các năm qua, người ta đã nhìn nhận nhiều hơn vai trò của tôn giáo trong công việc thế giới, nhưng diễn trình này vẫn còn xa mới được kể là đầy đủ.
Theo phúc trình của họ, dù xấu dù tốt, tôn giáo vẫn đóng một vài trò càng ngày càng quan yếu trong lãnh vực chính trị. Khuynh hướng hoàn cầu hóa cùng với các kỹ thuật truyền thông mới đã làm dễ dàng việc lan tràn các quan điểm cực đoan. Phúc trình cho rằng điều ấy sẽ không chấm dứt trong nay mai. Do đó, phúc trình thúc giục chính phủ Hoa Kỳ không những phải cải thiện sự hiểu biết của mình về các cộng đồng và khuynh hướng tôn giáo mà còn khai triển ra các chính sách tốt hơn để giành lấy các tín hữu.
Điều quan trọng là phải hiểu rõ rằng tôn giáo không phải là một thứ kinh nghiệm nhân bản hạng nhì, không mang một ảnh hưởng gì tới các triển khai chính trị, nên ta có thể làm ngơ nó. Phúc trình khẳng định rằng: “Nhờ các ý niệm thúc đẩy và sức mạnh động viên nơi các định chế của mình, tôn giáo tự nó là một sức mạnh hướng dẫn chính trị”.
Phúc trình cũng cảnh giác người ta đừng nhìn tôn giáo hoàn toàn dưới khía cạnh khủng bố vì một cái nhìn như thế sẽ khiến ta bỏ qua vai trò tích cực của tôn giáo trong việc giải quyết các vấn đề hoàn cầu và cổ vũ hòa bình. Cũng cần phải loại bỏ việc chỉ chú tâm tới thế giới Hồi Giáo, trái lại, phải quan tâm tới các cộng đồng tôn giáo khác nữa.
Hoàn cầu
Vì chúng ta thường chỉ chú tâm tới Trung Đông khi nói tới mối liên kết qua lại giữa tôn giáo và chính trị, nên phúc trình nhấn mạnh rằng tôn giáo cũng là một yếu tố tại các quốc gia khác. Như Trung Hoa chẳng hạn. Nước này có nhiều phong trào tôn giáo bản địa mới xuất hiện như Pha Luân Công, cũng như các Giáo Hội Kitô Giáo hợp pháp hay hầm trú ngày càng lớn mạnh và nhiều cộng đồng Hồi Giáo.
Tại Sri Lanka, các tu sĩ Phật Giáo đã biện minh cho cuộc tranh chấp chống lại người Tamils. Tại Miến Điện, họ đã biểu tình chống lại chế độ đàn áp. Các căng thẳng hiện đang xẩy ra giữa người Kitô Giáo và Hồi Giáo tại Nigeria và Nam Dương, nhưng cũng xẩy ra tại các thành phố Âu Châu như Luân Đôn, Amsterdam và Ba Lê.
Tại Ấn Độ, các cuộc tranh luận chính trị cũng thường chịu ảnh hưởng bởi nhiều quan điểm Ấn Độ Giáo rất khác nhau cũng như mối liên hệ của người Ấn Giáo với các cộng đồng sắc tộc và tôn giáo khác.
Việc phát triển của Giáo Phái Ngũ Tuần (Pentecostalism) tại Châu Mỹ La Tinh và của các giáo hội Kitô Giáo tại Châu Phi và Châu Á cũng là những khai triển tôn giáo quan trọng cần phải chú ý. Và tuy tôn giáo từng lên men cho nhiều tranh chấp đẫm máu tại các quốc gia như Bosnia và Sudan, nhưng nó cũng đã cổ vũ hòa bình và tha thứ tại Nam Phi và Bắc Ái Nhĩ Lan. Và song song với những tên quá khích tôn giáo, ta vẫn thấy những nhân vật như Đức GH Gioan Phaolô II và Đức Đạt Lai Lạt Ma. “Nhiều điển hình về sự đóng góp của tôn giáo vào việc dân chủ hóa, và của nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo vào việc cung cấp ngoại viện, thực thi các chương trình phát triển, và xây dựng hòa bình đã cho thấy tôn giáo đóng một vai trò tích cực xiết bao ở khắp nơi trên thế giới”.
Các kiểu mẫu
Bản phúc trình nhận diện 6 khuôn mẫu chính trong vai trò của tôn giáo đối với sinh hoạt quốc tế.
1. Ảnh hưởng của các nhóm tôn giáo đang gia tăng tại nhiều khu vực trên thế giới và đang tác động gần như trên mọi khu vực của xã hội.
2. Các thay đổi trong khuôn mẫu nhận diện bản sắc tôn giáo trên thế giới đang mang lại nhiều hệ lụy quan trọng về chính trị.
3. Hiện tượng hoàn cầu hóa đang mang lại nhiều thuận lợi cho tôn giáo và làm thay đổi tôn giáo, nhưng nó cũng trở thành phương tiện chính để người ta tổ chức việc chống lại tôn giáo.
4. Tôn giáo hiện đang đóng một vai trò quan trọng trong lãnh vực công tại những nơi chính phủ thiếu khả năng và tính hợp pháp lúc gặp khủng hoảng kinh tế và chính trị.
5. Các tên cực đoan thường sử dụng tôn giáo làm chất xúc tác gây tranh chấp và làm phương tiện gia tăng căng thẳng với các cộng đồng tôn giáo khác.
6. Ngày nay, việc tôn giáo càng ngày càng nổi bật đang gia tăng ý nghĩa chính trị của tự do tôn giáo, coi nó như một nhân quyền phổ quát và là nguồn cội cho ổn định xã hội và chính trị.
Trên bình diện cụ thể, phúc trình cho thấy các khuynh hướng trên đang đem lại các thách đố như thế nào trong lãnh vực tạo chính sách. Thí dụ, trong khi Hoa Kỳ cổ vũ việc phát triển dân chủ, thì tại một số quốc gia, việc du nhập thể thức phổ thông đầu phiếu đã đem quyền hành lớn hơn lại cho các nhóm cực đoan về tôn giáo, là những người thường có các quan điểm bài Hoa Kỳ. Bởi thế, cần phải có sự hài hòa giữa việc cổ vũ nhân quyền và dân chủ với việc bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Bản phúc trình cũng nhấn mạnh rằng việc cổ vũ tự do tôn giáo như một phần của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ cần phải được thực thi cách nào đó để người ta không coi đó như một loại thách thức của xã hội Tây Phương đối với các tôn giáo hay phong tục địa phương.
Các khuyến cáo
Bàn về vai trò các tôn giáo trong lãnh vực công, bản phúc trình trên nhấn mạnh rằng phương cách tốt nhất để chống lại chủ nghĩa cực đoan là hợp tác nhiều hơn với tôn giáo và các cộng đồng tôn giáo. Điều này có nghĩa là phải cẩn trọng lắng nghe các quan tâm và lắng lo của họ và đối thoại một cách có phẩm chất với họ. Đồng thời, điều quan trọng là đừng thái quá bằng cách can dự vào các tranh luận có tính thần học hay tìm cách thao túng tôn giáo. Một trong những điều hết sức quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là học cách đối thoại một cách hữu hiệu. Bởi thế, song song với việc lắng nghe các tôn giáo, chính phủ cần phải trình bày một cách hữu hiệu hơn các quan điểm riêng của Hoa Kỳ. Điều cũng sinh tử là phải nhớ rằng hành động bao giờ cũng mạnh hơn lời nói, cho nên các chính sách của chính phủ cần phải hỗ trợ chiến lược truyền thông của mình. Một trong các khuyến cáo của phúc trình là phải huấn luyện toàn diện cho các nhà ngoại giao, các nhân viên quân sự cũng như các viên chức khác về vai trò của tôn giáo trong lãnh vực sự vụ thế giới. Bản phúc trình cũng khuyến cáo rằng Hoa Kỳ nên tiếp tục cổ vũ tự do tôn giáo. “Áp đặt các giới hạn cho tự do tôn giáo là làm yếu đi nền dân chủ và xã hội dân sự, là chuốc độc cho tranh luận chính trị, và ủ men cho chủ nghĩa cực đoan”.
Hợp tác lành mạnh
Vai trò của tôn giáo trong chính trị là một đề tài được Đức Bênêđíctô XVI bàn tới trong bài diễn văn ngày 11 tháng Giêng với ngoại giao đoàn. Đức Giáo Hoàng nói: “Đáng buồn thay, tại một số quốc gia, chủ yếu là ở Tây Phương, người ta ít tôn trọng, đôi khi còn thù nghịch, nếu không muốn nói là khinh khi đối với tôn giáo và cách riêng đối với Kitô Giáo”
Phản ảnh phần nào các quan điểm trong phúc trình của Hội Đồng Chicago, Đức Thánh Cha cho hay: “Rõ ràng là nếu coi chủ nghĩa duy tương đối là yếu tố chủ chốt của dân chủ, người ta sẽ liều mình coi tính thế tục theo nghĩa loại bỏ, hay đúng hơn, bác bỏ tầm quan trong của tôn giáo về phương diện xã hội”.
Đức Giáo Hoàng chỉ ra rằng một phương thức như thế chỉ tạo nên kình chống và chia rẽ. Ngài nói: “Như thế, khẩn thiết phải phác họa ra một tính thế tục tích cực và cởi mở, một tính thế tục, vì dựa trên tính tự lập chính đáng của trật tự trần thế và trật tự thiêng liêng, có thể phát huy được sự hợp tác lành mạnh và tinh thần chia sẻ trách nhiệm”. Một sự hợp tác sẽ hỗ trợ lớn lao cho các cố gắng cổ vũ hòa bình thế giới.
Phúc trình trên có tựa đề là “Engaging Religious Communities Abroad: A New Imperative for U.S. Foreign Policy" (Giành được các cộng đồng tôn giáo ở ngoại quốc: Cấp bách mới đối với chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ). Phúc trình này là công trình của 32 chuyên viên bao gồm các cựu viên chức chính phủ, các lãnh tụ tôn giáo, các vị đứng đầu nhiều tổ chức quốc tế và các học giả.
Các chuyên viên này cho rằng hiện nay, chính phủ Hoa Kỳ không có khả năng hiểu đầy đủ các cộng đồng tôn giáo và giành được sự ủng hộ của họ. Tuy trong các năm qua, người ta đã nhìn nhận nhiều hơn vai trò của tôn giáo trong công việc thế giới, nhưng diễn trình này vẫn còn xa mới được kể là đầy đủ.
Theo phúc trình của họ, dù xấu dù tốt, tôn giáo vẫn đóng một vài trò càng ngày càng quan yếu trong lãnh vực chính trị. Khuynh hướng hoàn cầu hóa cùng với các kỹ thuật truyền thông mới đã làm dễ dàng việc lan tràn các quan điểm cực đoan. Phúc trình cho rằng điều ấy sẽ không chấm dứt trong nay mai. Do đó, phúc trình thúc giục chính phủ Hoa Kỳ không những phải cải thiện sự hiểu biết của mình về các cộng đồng và khuynh hướng tôn giáo mà còn khai triển ra các chính sách tốt hơn để giành lấy các tín hữu.
Điều quan trọng là phải hiểu rõ rằng tôn giáo không phải là một thứ kinh nghiệm nhân bản hạng nhì, không mang một ảnh hưởng gì tới các triển khai chính trị, nên ta có thể làm ngơ nó. Phúc trình khẳng định rằng: “Nhờ các ý niệm thúc đẩy và sức mạnh động viên nơi các định chế của mình, tôn giáo tự nó là một sức mạnh hướng dẫn chính trị”.
Phúc trình cũng cảnh giác người ta đừng nhìn tôn giáo hoàn toàn dưới khía cạnh khủng bố vì một cái nhìn như thế sẽ khiến ta bỏ qua vai trò tích cực của tôn giáo trong việc giải quyết các vấn đề hoàn cầu và cổ vũ hòa bình. Cũng cần phải loại bỏ việc chỉ chú tâm tới thế giới Hồi Giáo, trái lại, phải quan tâm tới các cộng đồng tôn giáo khác nữa.
Hoàn cầu
Vì chúng ta thường chỉ chú tâm tới Trung Đông khi nói tới mối liên kết qua lại giữa tôn giáo và chính trị, nên phúc trình nhấn mạnh rằng tôn giáo cũng là một yếu tố tại các quốc gia khác. Như Trung Hoa chẳng hạn. Nước này có nhiều phong trào tôn giáo bản địa mới xuất hiện như Pha Luân Công, cũng như các Giáo Hội Kitô Giáo hợp pháp hay hầm trú ngày càng lớn mạnh và nhiều cộng đồng Hồi Giáo.
Tại Sri Lanka, các tu sĩ Phật Giáo đã biện minh cho cuộc tranh chấp chống lại người Tamils. Tại Miến Điện, họ đã biểu tình chống lại chế độ đàn áp. Các căng thẳng hiện đang xẩy ra giữa người Kitô Giáo và Hồi Giáo tại Nigeria và Nam Dương, nhưng cũng xẩy ra tại các thành phố Âu Châu như Luân Đôn, Amsterdam và Ba Lê.
Tại Ấn Độ, các cuộc tranh luận chính trị cũng thường chịu ảnh hưởng bởi nhiều quan điểm Ấn Độ Giáo rất khác nhau cũng như mối liên hệ của người Ấn Giáo với các cộng đồng sắc tộc và tôn giáo khác.
Việc phát triển của Giáo Phái Ngũ Tuần (Pentecostalism) tại Châu Mỹ La Tinh và của các giáo hội Kitô Giáo tại Châu Phi và Châu Á cũng là những khai triển tôn giáo quan trọng cần phải chú ý. Và tuy tôn giáo từng lên men cho nhiều tranh chấp đẫm máu tại các quốc gia như Bosnia và Sudan, nhưng nó cũng đã cổ vũ hòa bình và tha thứ tại Nam Phi và Bắc Ái Nhĩ Lan. Và song song với những tên quá khích tôn giáo, ta vẫn thấy những nhân vật như Đức GH Gioan Phaolô II và Đức Đạt Lai Lạt Ma. “Nhiều điển hình về sự đóng góp của tôn giáo vào việc dân chủ hóa, và của nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo vào việc cung cấp ngoại viện, thực thi các chương trình phát triển, và xây dựng hòa bình đã cho thấy tôn giáo đóng một vai trò tích cực xiết bao ở khắp nơi trên thế giới”.
Các kiểu mẫu
Bản phúc trình nhận diện 6 khuôn mẫu chính trong vai trò của tôn giáo đối với sinh hoạt quốc tế.
1. Ảnh hưởng của các nhóm tôn giáo đang gia tăng tại nhiều khu vực trên thế giới và đang tác động gần như trên mọi khu vực của xã hội.
2. Các thay đổi trong khuôn mẫu nhận diện bản sắc tôn giáo trên thế giới đang mang lại nhiều hệ lụy quan trọng về chính trị.
3. Hiện tượng hoàn cầu hóa đang mang lại nhiều thuận lợi cho tôn giáo và làm thay đổi tôn giáo, nhưng nó cũng trở thành phương tiện chính để người ta tổ chức việc chống lại tôn giáo.
4. Tôn giáo hiện đang đóng một vai trò quan trọng trong lãnh vực công tại những nơi chính phủ thiếu khả năng và tính hợp pháp lúc gặp khủng hoảng kinh tế và chính trị.
5. Các tên cực đoan thường sử dụng tôn giáo làm chất xúc tác gây tranh chấp và làm phương tiện gia tăng căng thẳng với các cộng đồng tôn giáo khác.
6. Ngày nay, việc tôn giáo càng ngày càng nổi bật đang gia tăng ý nghĩa chính trị của tự do tôn giáo, coi nó như một nhân quyền phổ quát và là nguồn cội cho ổn định xã hội và chính trị.
Trên bình diện cụ thể, phúc trình cho thấy các khuynh hướng trên đang đem lại các thách đố như thế nào trong lãnh vực tạo chính sách. Thí dụ, trong khi Hoa Kỳ cổ vũ việc phát triển dân chủ, thì tại một số quốc gia, việc du nhập thể thức phổ thông đầu phiếu đã đem quyền hành lớn hơn lại cho các nhóm cực đoan về tôn giáo, là những người thường có các quan điểm bài Hoa Kỳ. Bởi thế, cần phải có sự hài hòa giữa việc cổ vũ nhân quyền và dân chủ với việc bảo vệ quyền lợi quốc gia.
Bản phúc trình cũng nhấn mạnh rằng việc cổ vũ tự do tôn giáo như một phần của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ cần phải được thực thi cách nào đó để người ta không coi đó như một loại thách thức của xã hội Tây Phương đối với các tôn giáo hay phong tục địa phương.
Các khuyến cáo
Bàn về vai trò các tôn giáo trong lãnh vực công, bản phúc trình trên nhấn mạnh rằng phương cách tốt nhất để chống lại chủ nghĩa cực đoan là hợp tác nhiều hơn với tôn giáo và các cộng đồng tôn giáo. Điều này có nghĩa là phải cẩn trọng lắng nghe các quan tâm và lắng lo của họ và đối thoại một cách có phẩm chất với họ. Đồng thời, điều quan trọng là đừng thái quá bằng cách can dự vào các tranh luận có tính thần học hay tìm cách thao túng tôn giáo. Một trong những điều hết sức quan trọng mà Hoa Kỳ cần phải làm là học cách đối thoại một cách hữu hiệu. Bởi thế, song song với việc lắng nghe các tôn giáo, chính phủ cần phải trình bày một cách hữu hiệu hơn các quan điểm riêng của Hoa Kỳ. Điều cũng sinh tử là phải nhớ rằng hành động bao giờ cũng mạnh hơn lời nói, cho nên các chính sách của chính phủ cần phải hỗ trợ chiến lược truyền thông của mình. Một trong các khuyến cáo của phúc trình là phải huấn luyện toàn diện cho các nhà ngoại giao, các nhân viên quân sự cũng như các viên chức khác về vai trò của tôn giáo trong lãnh vực sự vụ thế giới. Bản phúc trình cũng khuyến cáo rằng Hoa Kỳ nên tiếp tục cổ vũ tự do tôn giáo. “Áp đặt các giới hạn cho tự do tôn giáo là làm yếu đi nền dân chủ và xã hội dân sự, là chuốc độc cho tranh luận chính trị, và ủ men cho chủ nghĩa cực đoan”.
Hợp tác lành mạnh
Vai trò của tôn giáo trong chính trị là một đề tài được Đức Bênêđíctô XVI bàn tới trong bài diễn văn ngày 11 tháng Giêng với ngoại giao đoàn. Đức Giáo Hoàng nói: “Đáng buồn thay, tại một số quốc gia, chủ yếu là ở Tây Phương, người ta ít tôn trọng, đôi khi còn thù nghịch, nếu không muốn nói là khinh khi đối với tôn giáo và cách riêng đối với Kitô Giáo”
Phản ảnh phần nào các quan điểm trong phúc trình của Hội Đồng Chicago, Đức Thánh Cha cho hay: “Rõ ràng là nếu coi chủ nghĩa duy tương đối là yếu tố chủ chốt của dân chủ, người ta sẽ liều mình coi tính thế tục theo nghĩa loại bỏ, hay đúng hơn, bác bỏ tầm quan trong của tôn giáo về phương diện xã hội”.
Đức Giáo Hoàng chỉ ra rằng một phương thức như thế chỉ tạo nên kình chống và chia rẽ. Ngài nói: “Như thế, khẩn thiết phải phác họa ra một tính thế tục tích cực và cởi mở, một tính thế tục, vì dựa trên tính tự lập chính đáng của trật tự trần thế và trật tự thiêng liêng, có thể phát huy được sự hợp tác lành mạnh và tinh thần chia sẻ trách nhiệm”. Một sự hợp tác sẽ hỗ trợ lớn lao cho các cố gắng cổ vũ hòa bình thế giới.
Lại một thủ đoạn lừa bịp? Các giới chức Công giáo vạch trần luận diệu cuả bà Pelosi nói rằng bà đã ‘nói chuyện” với các GM Công Giáo về dự luật Cải Tổ Y Tế
Trần Mạnh Trác
22:10 01/03/2010
Ngày thứ Sáu vừa qua, để chuẩn bị cho toan tính thông qua bằng thủ tục hoà giải ngân sách dự luật CảiTổ Y Tế từng bị đại đa số dân chúng chống đối, Chủ tịch Hạ Viện Nancy Pelosi đã tuyên bố rằng dự luật cuả Thượng viện không cho phép tài trợ phá thai, và thêm rằng bà đã “nói chuyện” với "các giám mục Công giáo" về vấn đề này. Tuy nhiên, Hội Đồng Giám mục Công Giáo Hoa Kỳ tuyên bố rằng bất cứ ai đã nói chuyện với các giám mục về dự luật thì phải biết rằng dự luật đó có quĩ phá thai và rằng các giám mục phản đối dự luật đó.
Nhắc lại cuộc họp báo ngày thứ Sáu, Pelosi đã được hỏi liệu việc dân biểu Bart Stupak (D-Mich.) phản đối đề xuất cuả tổng thống Obama sử dụng dự luật Thượng viện làm nền tảng cho dự luật mới, là có sai không khi ông ta nói rằng luật mới sẽ cho phép dùng thuế để tài trợ phá thai và liệu việc này có là một vấn đề đối với những người cổ động cho dự thảo đó không.
Pelosi, một người Công giáo, nói: "Hãy để tôi nói theo cách này, có ba, ba - Tôi không muốn nói nguyên tắc - nhưng ba tiêu chuẩn mà chúng tôi đang sử dụng để tiến tới, và tôi đã nói chuyện với các giám mục Công giáo về việc này cũng như với tất cả các phe phái chung quanh vấn đề lựa chọn.
"Luật này ngăn chặn sự tài trợ cuả liên bang, và luật liên bang ngăn chặn tài trợ phá thai," Pelosi nói tiếp. "Không có tài trợ liên bang cho phá thai trong dự luật này. Không mở rộng hoặc thu hẹp các quyền lựa chọn của một phụ nữ và chúng tôi xác định rằng chúng ta sẽ thông qua việc cải cách chăm sóc sức khỏe.
"Dự luật thông qua bởi Thượng viện không có kinh phí liên bang cho phá thai."
Sau cuộc họp báo của Pelosi, Richard Doerflinger, phó giám đốc Ban Thư ký của những Hoạt động Phò Sự sống cuả Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ (USCCB), tuyên bố với CNSNews.com trong một email rằng "ai" đã nói chuyện với các giám Mục thì biết rằng dự luật Thượng viện (cơ sở cho các đề nghị của tổng thống) cho phép sử dụng tiền đóng thuế để thanh toán cho các chương trình sức khỏe có bảo hiểm phá thai.
"Chúng tôi không hiểu làm thế nào mà những ai đã nói chuyện với các giám mục lại có thể kết luận rằng dự luật của Thượng viện không tài trợ phá thai."
"Các giám mục đã nói trong thư gửi đến Quốc hội rằng vấn đề phá thai trong dự luật Thượng viện là rất nghiêm trọng, cho nên mặc dù các ngài ủng hộ mạnh mẽ việc mở rộng chăm sóc sức khỏe, các ngài sẽ phải chống lại dự luật, trừ khi những vấn đề ấy được giải quyết.”
Những yêu cầu giải thích gởi đến văn phòng của bà Pelosi bởi CNSNews.com về tuyên bố của Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã không được trả lời.
Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã giải thích rất chi tiết, qua nhiều văn thư, rằng dự luật Thượng viện cho phép tiền đóng thuế tài trợ các kế hoạch chăm sóc y tế có bao gồm việc phá thai.
Ông Doerflinger nói: "Trong khi dự luật Thượng viện có một số ngôn ngữ hạn chế việc sử dụng trực tiếp của các khoản tín dụng thuế để trợ cấp bảo hiểm phá thai, nó vẫn vi phạm tiền lệ liên bang lâu đời về kinh phí phá thai trong hai cách."
"Đầu tiên, ngôn ngữ phá thai của Thượng viện chỉ giới hạn việc sử dụng các khoản tín dụng thuế cho phá thai trong các kế hoạch y tế chính, chứ không giới hạn cho các chương trình khác", ông nói.
"Ví dụ, dự luật cho phép và dành riêng $7 tỷ cho các dịch vụ tại các trung tâm y tế cộng đồng (tăng lên đến $ 11 tỷ trong đề xuất mới của Tổng thống)", ông Doerflinger giải thích."Tu chánh án Hyde không ngăn chặn việc sử dụng trực tiếp các tỷ đô la đó để tài trợ phá thai (bởi vì các khoản tiền đó không cần phải thông qua ngân sách dự chi bị chi phối bởi Tu chánh án Hyde), và cũng không hề có bất kỳ điều khoản cấm nào trong dự luật Thượng viện về việc sử dụng các tỷ đô la đó."
"Thứ hai, ngôn ngữ của Thượng viện vẫn miễn thuế cho các chương trình sức khỏe tổng quát có phá thai, đi ngược với chính sách của Tu chánh án Hyde. ”
"Dự luật này đòi hỏi những người mua những chương trình này phải trả một số tiền riêng hàng tháng cho hãng bảo hiểm, là số tiền được dùng để trả tiền phá thai của người khác", ông nói. "Đây là một áp đặt rất lớn trên lương tâm của hàng triệu người Mỹ phản đối phá thai."
Douglas Johnson, giám đốc lập pháp cuả Ủy ban quốc gia về Quyền được sống, cũng đã phản ứng với Pelosi rằng "Bà ta chỉ lập lại những mưu mẹo lừa gạt,"
"Bà ta dùng lại những thủ đoạn cũ là phủ nhận và lường gạt, nhưng bà ta không còn uy tín và những lời tuyên bố của bà ta đã bị một phần tư ban lãnh đạo của chính bà ta chống lại vào cuối ngày 07 tháng mười một," Johnson nói.
Ngày 07 Tháng 11 là ngày mà dự luật cải cách chăm sóc sức khỏe được Hạ Viện thông qua với chỉ có một đảng viên Cộng hòa hổ trợ và bị phản đối bởi một phần tư đảng viên Dân chủ, đỉnh điểm trong cuộc bỏ phiếu là 220-215. Trước khi phê duyệt dự luật một cách sít sao, Hạ viện đã bỏ phiếu chấp nhận Tu chánh Bart Stupak (D.-Mich.) với một số chênh lệch lớn hơn nhiều. Tu chánh Bart Stupak cấm dùng quỹ liên bang để tài trợ bất kỳ chương trình chăm sóc sức khoẻ có kèm theo bảo hiểm phá thai.
Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã ban hành một tài liệu 13-trang giải thích lý do tại sao dự luật Thượng viện cho phép tiền thuế tài trợ để phá thai.
Trích dẫn tài liệu, cho thấy "Trong hai dự luật, chỉ có dự luật cuả Hạ Viện là tuân theo pháp luật hiện hành về kinh phí phá thai," Các GM cho đó là nhờ công cuả Tu chánh Stupak.
"Vì vậy, dự luật Thượng viện, dù có sự tách biệt ra làm nhiều quỹ, tiền liên bang cũng sẽ được sử dụng để mở rộng tài trợ phá thai ra toàn quốc."
Nhắc lại cuộc họp báo ngày thứ Sáu, Pelosi đã được hỏi liệu việc dân biểu Bart Stupak (D-Mich.) phản đối đề xuất cuả tổng thống Obama sử dụng dự luật Thượng viện làm nền tảng cho dự luật mới, là có sai không khi ông ta nói rằng luật mới sẽ cho phép dùng thuế để tài trợ phá thai và liệu việc này có là một vấn đề đối với những người cổ động cho dự thảo đó không.
Pelosi, một người Công giáo, nói: "Hãy để tôi nói theo cách này, có ba, ba - Tôi không muốn nói nguyên tắc - nhưng ba tiêu chuẩn mà chúng tôi đang sử dụng để tiến tới, và tôi đã nói chuyện với các giám mục Công giáo về việc này cũng như với tất cả các phe phái chung quanh vấn đề lựa chọn.
"Luật này ngăn chặn sự tài trợ cuả liên bang, và luật liên bang ngăn chặn tài trợ phá thai," Pelosi nói tiếp. "Không có tài trợ liên bang cho phá thai trong dự luật này. Không mở rộng hoặc thu hẹp các quyền lựa chọn của một phụ nữ và chúng tôi xác định rằng chúng ta sẽ thông qua việc cải cách chăm sóc sức khỏe.
"Dự luật thông qua bởi Thượng viện không có kinh phí liên bang cho phá thai."
Sau cuộc họp báo của Pelosi, Richard Doerflinger, phó giám đốc Ban Thư ký của những Hoạt động Phò Sự sống cuả Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ (USCCB), tuyên bố với CNSNews.com trong một email rằng "ai" đã nói chuyện với các giám Mục thì biết rằng dự luật Thượng viện (cơ sở cho các đề nghị của tổng thống) cho phép sử dụng tiền đóng thuế để thanh toán cho các chương trình sức khỏe có bảo hiểm phá thai.
"Chúng tôi không hiểu làm thế nào mà những ai đã nói chuyện với các giám mục lại có thể kết luận rằng dự luật của Thượng viện không tài trợ phá thai."
"Các giám mục đã nói trong thư gửi đến Quốc hội rằng vấn đề phá thai trong dự luật Thượng viện là rất nghiêm trọng, cho nên mặc dù các ngài ủng hộ mạnh mẽ việc mở rộng chăm sóc sức khỏe, các ngài sẽ phải chống lại dự luật, trừ khi những vấn đề ấy được giải quyết.”
Những yêu cầu giải thích gởi đến văn phòng của bà Pelosi bởi CNSNews.com về tuyên bố của Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã không được trả lời.
Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã giải thích rất chi tiết, qua nhiều văn thư, rằng dự luật Thượng viện cho phép tiền đóng thuế tài trợ các kế hoạch chăm sóc y tế có bao gồm việc phá thai.
Ông Doerflinger nói: "Trong khi dự luật Thượng viện có một số ngôn ngữ hạn chế việc sử dụng trực tiếp của các khoản tín dụng thuế để trợ cấp bảo hiểm phá thai, nó vẫn vi phạm tiền lệ liên bang lâu đời về kinh phí phá thai trong hai cách."
"Đầu tiên, ngôn ngữ phá thai của Thượng viện chỉ giới hạn việc sử dụng các khoản tín dụng thuế cho phá thai trong các kế hoạch y tế chính, chứ không giới hạn cho các chương trình khác", ông nói.
"Ví dụ, dự luật cho phép và dành riêng $7 tỷ cho các dịch vụ tại các trung tâm y tế cộng đồng (tăng lên đến $ 11 tỷ trong đề xuất mới của Tổng thống)", ông Doerflinger giải thích."Tu chánh án Hyde không ngăn chặn việc sử dụng trực tiếp các tỷ đô la đó để tài trợ phá thai (bởi vì các khoản tiền đó không cần phải thông qua ngân sách dự chi bị chi phối bởi Tu chánh án Hyde), và cũng không hề có bất kỳ điều khoản cấm nào trong dự luật Thượng viện về việc sử dụng các tỷ đô la đó."
"Thứ hai, ngôn ngữ của Thượng viện vẫn miễn thuế cho các chương trình sức khỏe tổng quát có phá thai, đi ngược với chính sách của Tu chánh án Hyde. ”
"Dự luật này đòi hỏi những người mua những chương trình này phải trả một số tiền riêng hàng tháng cho hãng bảo hiểm, là số tiền được dùng để trả tiền phá thai của người khác", ông nói. "Đây là một áp đặt rất lớn trên lương tâm của hàng triệu người Mỹ phản đối phá thai."
Douglas Johnson, giám đốc lập pháp cuả Ủy ban quốc gia về Quyền được sống, cũng đã phản ứng với Pelosi rằng "Bà ta chỉ lập lại những mưu mẹo lừa gạt,"
"Bà ta dùng lại những thủ đoạn cũ là phủ nhận và lường gạt, nhưng bà ta không còn uy tín và những lời tuyên bố của bà ta đã bị một phần tư ban lãnh đạo của chính bà ta chống lại vào cuối ngày 07 tháng mười một," Johnson nói.
Ngày 07 Tháng 11 là ngày mà dự luật cải cách chăm sóc sức khỏe được Hạ Viện thông qua với chỉ có một đảng viên Cộng hòa hổ trợ và bị phản đối bởi một phần tư đảng viên Dân chủ, đỉnh điểm trong cuộc bỏ phiếu là 220-215. Trước khi phê duyệt dự luật một cách sít sao, Hạ viện đã bỏ phiếu chấp nhận Tu chánh Bart Stupak (D.-Mich.) với một số chênh lệch lớn hơn nhiều. Tu chánh Bart Stupak cấm dùng quỹ liên bang để tài trợ bất kỳ chương trình chăm sóc sức khoẻ có kèm theo bảo hiểm phá thai.
Hội Đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ đã ban hành một tài liệu 13-trang giải thích lý do tại sao dự luật Thượng viện cho phép tiền thuế tài trợ để phá thai.
Trích dẫn tài liệu, cho thấy "Trong hai dự luật, chỉ có dự luật cuả Hạ Viện là tuân theo pháp luật hiện hành về kinh phí phá thai," Các GM cho đó là nhờ công cuả Tu chánh Stupak.
"Vì vậy, dự luật Thượng viện, dù có sự tách biệt ra làm nhiều quỹ, tiền liên bang cũng sẽ được sử dụng để mở rộng tài trợ phá thai ra toàn quốc."
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lên cao một chút với chim Thăng Ca Ngô Duy Linh
Lm. Trần Cao Tường
18:27 01/03/2010
Phút mờ nhãn quan
Trong những đầy đặc và ngột ngạt thường ngày mà có được một khoảng trống mở ra tầm nhìn mới thì có phúc biết chừng nào! Mọi giá trị sẽ thay đổi:
Con mắt nhìn lên, trời cao xanh ngát
Con mắt nhìn xuống, biển rộng bao la,
Con mắt nhìn gần, quên điều nhỏ nhặt,
Con mắt nhìn xa, chợt thấy quê nhà.
(trích thơ Nguyễn Khánh Hoà, New Orleans)
Vẫn biết lúc mới sáng tác vào giữa thập niên '40, nhạc sĩ Ngô Duy Linh lấy tên là Thăng Ca, nhưng mãi cho đến khi ngài qua đời vào tháng 2 năm 1998, cái đầu óc u tối của tôi mới được vỡ lẽ ra rằng Thăng Ca là tên một loài chim. Linh mục Vũ Hân trong bài viết "Những Niềm Vui Bên Cha Ngô Duy Linh" đã dí dỏm tả lại cảm nghĩ háo hấc vào thời được hát những bài đầu tiên trong nhà thờ bằng tiếng Việt, vì trước đó chỉ hát bằng tiếng La-Tinh hay tiếng Pháp thôi. Khi hát những bài như Con Thờ Lạy Chúa Giêsu và Chúa Yêu Bé Thơ của Thăng Ca thì ai cũng ao ước được gặp chính nhạc sĩ mới toanh này, và trong trí vẽ ra ngay hình ảnh một nhạc sĩ trẻ "có dáng vóc mảnh mai nhẹ nhàng, giống như loài chim thăng ca ở bờ biển, thân hình nhỏ bé như con sẻ, sắc lông mầu nâu, mỏ màu vàng, mỗi lần hót là bay lên cao chừng mươi mười lăm bộ, bay đứng tại một chỗ trên không và hót khúc sáo líu lo dài tới ba bốn phút. Chúng tôi vẫn không đoán ra Thăng Ca là ai, cuối cùng nhạc sĩ Thanh Hương Lê Văn Tế cho biết Thăng Ca là cụ Hai Liên (tức là thầy Linh). Ôi chao, Thăng Ca to thế, có lẽ cụ nặng tới 70 kí. Cụ có thân hình to lớn, dáng đi đứng vững chãi, giọng nói như sấm. Cụ mà vào chơi sân túc cầu hoặc bóng rổ thì các bạn đồng đội yên tâm dễ thắng. Chúng tôi thắc mắc làm sao cụ dám bay lên cao mà hót líu lo như chim thăng ca".
Ấy thế mà chim Thăng Ca Ngô Duy Linh lại có thể bay được và tập cho người khác cùng bay. Trong bài hát cho Nhóm Chim Non Dũng Lạc của Cha có câu: "Chim Thăng Ca tung cánh gọi đàn: Thiếu Nhi, Thiếu Nhi, cùng chen vai sát cánh. Chim Thăng Ca đang thúc giục rằng: Thiếu Nhi, Thiếu Nhi, tiến tiến lên không ngừng".
Trong nghi thức an táng, trên quan tài thường đặt một vật gì tượng trưng nhất cho cuộc sống của người vừa qua đời. Như vậy, ngày 28 tháng 2 năm 1998 trong lễ an táng của Cha Ngô Duy Linh tại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, Louisiana, phải để biểu hiệu một con chim thăng ca là đúng nhất. Ở đây, con chim thăng ca đã hiện hình thành một tập sách các bài hát soạn cho Ngày Tôn Phong Các Thánh Tử Đạo Việt Nam năm 1988 tại Roma mà nhạc sư Ngô Duy Linh đã dầy công sửa soạn và điều khiển thánh ca cho biến cố quan trọng này. Trong đó bài "Ngày Vinh Thắng" của ngài có thể coi là là cao điểm của ước mơ và viễn kiến của đời ngài: 117 con chim Dũng Lạc đang tung cánh bay lên gọi đàn.
Thời điểm giấc mơ chưa tròn
Đang học ở Paris để lấy thêm bằng chuyên môn cho việc mở thêm ngành âm nhạc cho Trường Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, mùa hè năm 1973, linh mục Ngô Duy Linh trở lại Việt Nam để xếp sắp việc khai giảng cho niên khóa 1973-1974. Ngày 11 tháng 10 năm 1973 ngài đã viết thư cho ông tổng giám đốc Việt Tấn Xã để phổ biến rộng trên đài truyền hình qua một cuộc phỏng vấn trong đó ngài nói rõ qua điểm: Lễ là Trật Tự, Nhạc là Điều Hòa.
"Âm nhạc là môn học rất cần thiết cho việc giáo dục con người toàn diện. Thật vậy, ngoài hai môn đức dục và thể dục, chủ đích thiết yếu của nền giáo dục con người là lý trí và tình cảm. Tình và Lý phải được giáo hóa song song, nếu không, con người sẽ mất thế quân bình. Lý dễ chia rẽ, Tình dễ hòa hợp. Thế mà âm nhạc là tiếng nói trực tiếp của tình cảm. Nói cách khác, âm nhạc là phương thế truyền cảm hữu hiệu, là ngôn ngữ diễn tả tâm tình xứng hợp nhất. Hội nghị quốc tế về giáo dục âm nhạc có một quyết định rất đáng chú ý:
"Tất cả trẻ em có quyền học tập âm nhạc. Trẻ em các nước tân tiến hầu hết đã được hưởng quyền lợi đó. Tỉ dụ tại nước Pháp, âm nhạc đã được giảng dậy cẩn thận từ mau giáo đến đại học. Ngoài việc đặt âm nhạc là môn nhiệm ý trong mọi ngành thi tú tài, Pháp còn thiết lập những trường trung học công lập về nhạc để thi lấy bằng tú tài âm nhạc, giá trị tương đương với mọi bằng tú tài kỹ thuật khác. Tại Nhật Bản, từ lớp mẫu giáo đến hết bạc trung học, các học sinh đều buộc phải học âm nhạc. Trong các kỳ thi tú tài, âm nhạc là môn thi bắt buộc và mang hệ số 2, ngang hàng với toán, lý hóa."
Tâm huyết của một loài chim
Giấc mơ của chim Thăng Ca Duy Linh đưa nhạc vào chương trình giáo dục tại Việt Nam chưa tròn vì cơn lốc 1975. Nhưng nét nhạc của ngài luôn hướng tới hoài bão làm cho những đứa con của chim Tiên có thể mọc cánh. Chả lẽ con của chim Tiên mà lại không biết bay! Hơn nữa, những bài hát của ngài thường mang nhiều làn điệu ngũ cung sắc nét văn hóa Việt có sức nâng cao tâm hồn, cho con người có thể mọc cánh bay lên. Hồn dân tộc không phải là cái gì được tạo ra, nhưng nó đã có sẵn trong huyết quản, đợi đúng độ rung của âm giai ngũ cung là bừng sống dậy.
Từ biến cố phong thánh năm 1988, trong mắt của con chim Thăng Ca, một thị kiến đã bật sáng, phương cách và con đường cho người mình có thể mọc cánh vươn lên đây rồi: một đàn chim Dũng Lạc đang bay lên trong "Ngày Vinh Thắng". Ngài vẫn thường tâm sự: phong thánh đâu phải để an ủi lớp dân mình thấp cổ bé miệng, cũng không phải để hãnh diện hão rằng mình cũng oai vì có nhiều vị thánh tử đạo như ai, nhưng là ân huệ của Hội Thánh để người mình có thể hình thành một con đường, gọi là đường tu đức, là một lối sống làm mọc cánh bay lên theo đàn chim Dũng Lạc, sống thảnh thơi hơn, an nhiên hơn trong cơn lốc xô bồ lúc chuyển sang thiên niên mới. Niềm hãnh diện với thế giới nằm ở chỗ là cả một đạo sống Phúc Âm theo tinh thần Việt đã được công nhận và giới thiệu cho con người thời đại đáp ứng đúng thời điểm. Niềm hãnh diện này phải như một trào lưu bộc phát, gợi hứng cho những sáng tác thơ văn Công Giáo, cho những sáng tác về thánh ca đầy thần khí có sức tác động tập thể dân Chúa cũng như chuyển đạt được sứ điệp Tin Vui đến với anh chị em ngoài Công Giáo. Ngài ao ước có được nhiều nhạc sĩ cùng rung cảm góp phần khơi lên cảm hứng này.
Và từ ngày đó, các bài sáng tác của ngài đều hướng về một chủ đề mà thôi, kể cả những bài đào tạo các nhóm Chim Non như Đàn Chim Dũng Lạc, Chim Thăng Ca... Khởi đầu là bài "Ngày Vinh Thắng" với những tiếng trống lệnh như tiếng trống đồng vang lên từ động Đông Sơn, bừng lên những bó đuốc từ động Mê Linh, động Hoa Lư, động Lam Sơn. Ai nghe bài này mà chả thấy máu mình sôi lên, mắt mình sáng rực nhìn thấy thị kiến một đàn chim Việt đang vụt bay lên theo cánh chim Tiên suốt dọc dài lịch sử, vượt lên khỏi những bầm dập bi thảm của Việt tộc. Tiếp đến là các bài như Gương Bất Khuất, Tình Yêu Tuyệt đối, Khúc Sáo Ân Tình, Ngoài Vũ Trụ, Âu Ca Dũng Lạc. Đây là một thí dụ:
Niềm tin mọc cánh chim âu,
Lòng đầy thần lực tuôn trào suối thiêng.
Đường Dũng Lạc, lối bay lên
Hùng dũng an lạc như tiên như rồng.
Bước theo đạo sống vuông tròn
Mang gươm thập giá khơi dòng tình yêu
Con đường nghiền nát trầu cau
Nên màu đỏ thắm nên màu sắt son.
(bài Âu Ca Dũng Lạc, lời của Lm. Trần Cao Tường)
TIN VUI CHO TRÒN GIẤC MƠ
Đàn chim Dũng Lạc 117 con đã có thể bay lên. Cả thế giới công nhận rồi. Giấc mơ trước kia chưa tròn thì nay đã tròn. Đường bay lên cao này do chính Đức Giêsu dẫn lối. Tin Vui kể rõ:
"Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường, và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng... Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán ra: Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người."
Lên cao một chút thì tầm nhìn sẽ đổi nhiều lắm, những tiêu chuẩn giá trị cũ đều trở thành tương đối. Từ trên núi nhìn xuống, những nhà chọc trời, những chỗ ngồi thế đứng địa vị, những chiếc xe láng, những bon chen hơn thiệt... đều trở thành nhỏ nhoi một cách tội nghiệp. Có những thời gian cần dành ra để đi vào nơi tĩnh lặng như Đức Giêsu, đưa tầm mắt lên cao một chút, sẽ khám phá ra vẻ sáng láng huy hoàng đích thật của con người mình, vượt qua lớp bụi bặm phù du nhầy nhụa. Và một nhãn quan mới cũng được khai mở như tâm tình của nhà thơ Nguyễn Khánh Hòa ở New Orleans:
Con mắt nhìn lên trời cao xanh ngát
Con mắt nhìn xuống biển rộng bao la
Con mắt nhìn gần quên điều nhỏ nhặt
Con mắt nhìn xa chợt thấy quê nhà.
Một trong những bài sáng tác cuối cùng của nhạc sư Ngô Duy Linh là bài "Ngoài Vũ Trụ" trong Ngày Hàn Mặc Tử dịp Phạm Duy về New Orleans trình bày Trường Ca Hàn Mặc Tử. Nhạc sư Ngô Duy Linh như đã linh cảm thấy ngày bay lên của con chim Thăng Ca. Đây cũng là lời thơ của Hàn Mặc Tử diễn tả thị kiến về cảnh sáng láng khi được đưa lên cao một chút. Mỗi người cùng hòa nhập với thị kiến của con chim Thăng Ca mà đưa tầm mắt lên cao, cho tâm hồn tìm lại nét đẹp nguyên sơ:
Ra không gian là vượt hẳn thượng tầng
Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ,
Nơi khí tượng bốc ngùn muôn tinh tú,
Nơi không cho hồn lai vãng quan chiêm.
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền,
Không u ám như cõi lòng ma quỉ.
Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị,
Nhạc thiêng dồn trổi khắp hư linh.
Ảnh của Lm. Trần Cao Tường, chụp tại Sedona, Arizona. |
Trong những đầy đặc và ngột ngạt thường ngày mà có được một khoảng trống mở ra tầm nhìn mới thì có phúc biết chừng nào! Mọi giá trị sẽ thay đổi:
Con mắt nhìn lên, trời cao xanh ngát
Con mắt nhìn xuống, biển rộng bao la,
Con mắt nhìn gần, quên điều nhỏ nhặt,
Con mắt nhìn xa, chợt thấy quê nhà.
(trích thơ Nguyễn Khánh Hoà, New Orleans)
Vẫn biết lúc mới sáng tác vào giữa thập niên '40, nhạc sĩ Ngô Duy Linh lấy tên là Thăng Ca, nhưng mãi cho đến khi ngài qua đời vào tháng 2 năm 1998, cái đầu óc u tối của tôi mới được vỡ lẽ ra rằng Thăng Ca là tên một loài chim. Linh mục Vũ Hân trong bài viết "Những Niềm Vui Bên Cha Ngô Duy Linh" đã dí dỏm tả lại cảm nghĩ háo hấc vào thời được hát những bài đầu tiên trong nhà thờ bằng tiếng Việt, vì trước đó chỉ hát bằng tiếng La-Tinh hay tiếng Pháp thôi. Khi hát những bài như Con Thờ Lạy Chúa Giêsu và Chúa Yêu Bé Thơ của Thăng Ca thì ai cũng ao ước được gặp chính nhạc sĩ mới toanh này, và trong trí vẽ ra ngay hình ảnh một nhạc sĩ trẻ "có dáng vóc mảnh mai nhẹ nhàng, giống như loài chim thăng ca ở bờ biển, thân hình nhỏ bé như con sẻ, sắc lông mầu nâu, mỏ màu vàng, mỗi lần hót là bay lên cao chừng mươi mười lăm bộ, bay đứng tại một chỗ trên không và hót khúc sáo líu lo dài tới ba bốn phút. Chúng tôi vẫn không đoán ra Thăng Ca là ai, cuối cùng nhạc sĩ Thanh Hương Lê Văn Tế cho biết Thăng Ca là cụ Hai Liên (tức là thầy Linh). Ôi chao, Thăng Ca to thế, có lẽ cụ nặng tới 70 kí. Cụ có thân hình to lớn, dáng đi đứng vững chãi, giọng nói như sấm. Cụ mà vào chơi sân túc cầu hoặc bóng rổ thì các bạn đồng đội yên tâm dễ thắng. Chúng tôi thắc mắc làm sao cụ dám bay lên cao mà hót líu lo như chim thăng ca".
Ấy thế mà chim Thăng Ca Ngô Duy Linh lại có thể bay được và tập cho người khác cùng bay. Trong bài hát cho Nhóm Chim Non Dũng Lạc của Cha có câu: "Chim Thăng Ca tung cánh gọi đàn: Thiếu Nhi, Thiếu Nhi, cùng chen vai sát cánh. Chim Thăng Ca đang thúc giục rằng: Thiếu Nhi, Thiếu Nhi, tiến tiến lên không ngừng".
Trong nghi thức an táng, trên quan tài thường đặt một vật gì tượng trưng nhất cho cuộc sống của người vừa qua đời. Như vậy, ngày 28 tháng 2 năm 1998 trong lễ an táng của Cha Ngô Duy Linh tại nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời ở Avondale, Louisiana, phải để biểu hiệu một con chim thăng ca là đúng nhất. Ở đây, con chim thăng ca đã hiện hình thành một tập sách các bài hát soạn cho Ngày Tôn Phong Các Thánh Tử Đạo Việt Nam năm 1988 tại Roma mà nhạc sư Ngô Duy Linh đã dầy công sửa soạn và điều khiển thánh ca cho biến cố quan trọng này. Trong đó bài "Ngày Vinh Thắng" của ngài có thể coi là là cao điểm của ước mơ và viễn kiến của đời ngài: 117 con chim Dũng Lạc đang tung cánh bay lên gọi đàn.
Thời điểm giấc mơ chưa tròn
Đang học ở Paris để lấy thêm bằng chuyên môn cho việc mở thêm ngành âm nhạc cho Trường Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, mùa hè năm 1973, linh mục Ngô Duy Linh trở lại Việt Nam để xếp sắp việc khai giảng cho niên khóa 1973-1974. Ngày 11 tháng 10 năm 1973 ngài đã viết thư cho ông tổng giám đốc Việt Tấn Xã để phổ biến rộng trên đài truyền hình qua một cuộc phỏng vấn trong đó ngài nói rõ qua điểm: Lễ là Trật Tự, Nhạc là Điều Hòa.
"Âm nhạc là môn học rất cần thiết cho việc giáo dục con người toàn diện. Thật vậy, ngoài hai môn đức dục và thể dục, chủ đích thiết yếu của nền giáo dục con người là lý trí và tình cảm. Tình và Lý phải được giáo hóa song song, nếu không, con người sẽ mất thế quân bình. Lý dễ chia rẽ, Tình dễ hòa hợp. Thế mà âm nhạc là tiếng nói trực tiếp của tình cảm. Nói cách khác, âm nhạc là phương thế truyền cảm hữu hiệu, là ngôn ngữ diễn tả tâm tình xứng hợp nhất. Hội nghị quốc tế về giáo dục âm nhạc có một quyết định rất đáng chú ý:
"Tất cả trẻ em có quyền học tập âm nhạc. Trẻ em các nước tân tiến hầu hết đã được hưởng quyền lợi đó. Tỉ dụ tại nước Pháp, âm nhạc đã được giảng dậy cẩn thận từ mau giáo đến đại học. Ngoài việc đặt âm nhạc là môn nhiệm ý trong mọi ngành thi tú tài, Pháp còn thiết lập những trường trung học công lập về nhạc để thi lấy bằng tú tài âm nhạc, giá trị tương đương với mọi bằng tú tài kỹ thuật khác. Tại Nhật Bản, từ lớp mẫu giáo đến hết bạc trung học, các học sinh đều buộc phải học âm nhạc. Trong các kỳ thi tú tài, âm nhạc là môn thi bắt buộc và mang hệ số 2, ngang hàng với toán, lý hóa."
Tâm huyết của một loài chim
Giấc mơ của chim Thăng Ca Duy Linh đưa nhạc vào chương trình giáo dục tại Việt Nam chưa tròn vì cơn lốc 1975. Nhưng nét nhạc của ngài luôn hướng tới hoài bão làm cho những đứa con của chim Tiên có thể mọc cánh. Chả lẽ con của chim Tiên mà lại không biết bay! Hơn nữa, những bài hát của ngài thường mang nhiều làn điệu ngũ cung sắc nét văn hóa Việt có sức nâng cao tâm hồn, cho con người có thể mọc cánh bay lên. Hồn dân tộc không phải là cái gì được tạo ra, nhưng nó đã có sẵn trong huyết quản, đợi đúng độ rung của âm giai ngũ cung là bừng sống dậy.
Từ biến cố phong thánh năm 1988, trong mắt của con chim Thăng Ca, một thị kiến đã bật sáng, phương cách và con đường cho người mình có thể mọc cánh vươn lên đây rồi: một đàn chim Dũng Lạc đang bay lên trong "Ngày Vinh Thắng". Ngài vẫn thường tâm sự: phong thánh đâu phải để an ủi lớp dân mình thấp cổ bé miệng, cũng không phải để hãnh diện hão rằng mình cũng oai vì có nhiều vị thánh tử đạo như ai, nhưng là ân huệ của Hội Thánh để người mình có thể hình thành một con đường, gọi là đường tu đức, là một lối sống làm mọc cánh bay lên theo đàn chim Dũng Lạc, sống thảnh thơi hơn, an nhiên hơn trong cơn lốc xô bồ lúc chuyển sang thiên niên mới. Niềm hãnh diện với thế giới nằm ở chỗ là cả một đạo sống Phúc Âm theo tinh thần Việt đã được công nhận và giới thiệu cho con người thời đại đáp ứng đúng thời điểm. Niềm hãnh diện này phải như một trào lưu bộc phát, gợi hứng cho những sáng tác thơ văn Công Giáo, cho những sáng tác về thánh ca đầy thần khí có sức tác động tập thể dân Chúa cũng như chuyển đạt được sứ điệp Tin Vui đến với anh chị em ngoài Công Giáo. Ngài ao ước có được nhiều nhạc sĩ cùng rung cảm góp phần khơi lên cảm hứng này.
Và từ ngày đó, các bài sáng tác của ngài đều hướng về một chủ đề mà thôi, kể cả những bài đào tạo các nhóm Chim Non như Đàn Chim Dũng Lạc, Chim Thăng Ca... Khởi đầu là bài "Ngày Vinh Thắng" với những tiếng trống lệnh như tiếng trống đồng vang lên từ động Đông Sơn, bừng lên những bó đuốc từ động Mê Linh, động Hoa Lư, động Lam Sơn. Ai nghe bài này mà chả thấy máu mình sôi lên, mắt mình sáng rực nhìn thấy thị kiến một đàn chim Việt đang vụt bay lên theo cánh chim Tiên suốt dọc dài lịch sử, vượt lên khỏi những bầm dập bi thảm của Việt tộc. Tiếp đến là các bài như Gương Bất Khuất, Tình Yêu Tuyệt đối, Khúc Sáo Ân Tình, Ngoài Vũ Trụ, Âu Ca Dũng Lạc. Đây là một thí dụ:
Niềm tin mọc cánh chim âu,
Lòng đầy thần lực tuôn trào suối thiêng.
Đường Dũng Lạc, lối bay lên
Hùng dũng an lạc như tiên như rồng.
Bước theo đạo sống vuông tròn
Mang gươm thập giá khơi dòng tình yêu
Con đường nghiền nát trầu cau
Nên màu đỏ thắm nên màu sắt son.
(bài Âu Ca Dũng Lạc, lời của Lm. Trần Cao Tường)
TIN VUI CHO TRÒN GIẤC MƠ
Đàn chim Dũng Lạc 117 con đã có thể bay lên. Cả thế giới công nhận rồi. Giấc mơ trước kia chưa tròn thì nay đã tròn. Đường bay lên cao này do chính Đức Giêsu dẫn lối. Tin Vui kể rõ:
"Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường, và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng... Bấy giờ từ trong đám mây có tiếng phán ra: Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người."
Lên cao một chút thì tầm nhìn sẽ đổi nhiều lắm, những tiêu chuẩn giá trị cũ đều trở thành tương đối. Từ trên núi nhìn xuống, những nhà chọc trời, những chỗ ngồi thế đứng địa vị, những chiếc xe láng, những bon chen hơn thiệt... đều trở thành nhỏ nhoi một cách tội nghiệp. Có những thời gian cần dành ra để đi vào nơi tĩnh lặng như Đức Giêsu, đưa tầm mắt lên cao một chút, sẽ khám phá ra vẻ sáng láng huy hoàng đích thật của con người mình, vượt qua lớp bụi bặm phù du nhầy nhụa. Và một nhãn quan mới cũng được khai mở như tâm tình của nhà thơ Nguyễn Khánh Hòa ở New Orleans:
Con mắt nhìn lên trời cao xanh ngát
Con mắt nhìn xuống biển rộng bao la
Con mắt nhìn gần quên điều nhỏ nhặt
Con mắt nhìn xa chợt thấy quê nhà.
Một trong những bài sáng tác cuối cùng của nhạc sư Ngô Duy Linh là bài "Ngoài Vũ Trụ" trong Ngày Hàn Mặc Tử dịp Phạm Duy về New Orleans trình bày Trường Ca Hàn Mặc Tử. Nhạc sư Ngô Duy Linh như đã linh cảm thấy ngày bay lên của con chim Thăng Ca. Đây cũng là lời thơ của Hàn Mặc Tử diễn tả thị kiến về cảnh sáng láng khi được đưa lên cao một chút. Mỗi người cùng hòa nhập với thị kiến của con chim Thăng Ca mà đưa tầm mắt lên cao, cho tâm hồn tìm lại nét đẹp nguyên sơ:
Ra không gian là vượt hẳn thượng tầng
Tấp tới đến ở ngoài kia vũ trụ,
Nơi khí tượng bốc ngùn muôn tinh tú,
Nơi không cho hồn lai vãng quan chiêm.
Sáng vô cùng, sáng láng cả mọi miền,
Không u ám như cõi lòng ma quỉ.
Vì có Đấng Hằng Sống hằng ngự trị,
Nhạc thiêng dồn trổi khắp hư linh.
Có một đồng xanh giữa phố thị
Gioan Lê Quang Vinh
18:54 01/03/2010
Đẹp như một tấm thiệp xuân và “thơ” như cánh đồng xanh giữa một phố thị rất lộn xộn dù đang tiết Xuân, tập thơ “Xuân Nguyện Cầu” được gửi đến từng người trong ngày hội ngộ ra mắt Đồng Xanh Thơ Sàigòn, câu lạc bộ sáng tác thơ văn Công giáo giáo phận Sàigòn. Sau buổi họp mặt lần thứ II Những Người Sáng Tác Thơ Văn Công Giáo tại Toà Giám Mục Phan Thiết ngày 20/1/20110 do linh mục Trăng Thập Tự Võ Tá Khánh và nhạc sĩ Cao Huy Hoàng tổ chức tại Phan Thiết, nhóm anh chị em viết văn làm thơ giáo phận Sàigòn đã quyết định thành lập Câu Lạc Bộ thơ văn ngay tại giáo phận nhà.
Buổi sáng ngày 28/2/2010, hơn 20 anh chị em viết văn thuộc Câu Lạc Bộ đã họp mặt cùng với sự hiện diện rất đáng quí của linh mục nhạc sĩ Kim Long, linh mục nhạc sĩ Tiến Lộc và một số linh mục tu sĩ quan tâm đến hoạt động văn chương như cha Luy Nguyễn Anh Tuấn, trưởng ban Mục Vụ Hôn Nhân Gia Đình của giáo phận, các cha giáo xứ Nam Hoà và An Lạc.
Một vị khách mời đã chú ý đến ngày âm lịch và cho rằng vô tình anh chị em đã chọn đúng ngày Nguyên Tiêu để tổ chức lễ ra mắt Câu Lạc Bộ Thơ. Đối với thế hệ trẻ hơn, có lẽ ngày Nguyên tiêu cũng chẳng phải là mốc chính yếu cho lắm, điều quan trọng hơn chính là ở chỗ buổi họp mặt là kết quả của một chuẩn bị xa, từ ngày họp mặt Phan thiết. Và nhất là ngay từ tối 30 Tết, anh Mặc Trầm Cung, chủ nhiệm Câu Lạc Bộ đã ngược xuôi và bỏ hết việc riêng để hết mình vun xới cho cánh đồng thơ này.
Sẽ là không cần thiết nếu trình bày buổi họp mặt với những chi tiết và diễn biến. Nhưng nếu nhìn sâu vào bên trong Câu Lạc Bộ Thơ Văn Sàigòn, người ta có thể cảm nhận được nhiều điều đáng nhớ. Không ai phủ nhận rằng vai trò của văn chương, nhất là thơ, ngày một mờ nhạt đi giữa xã hội vốn còn vô số điều để quan tâm. Một nhà thơ ở Hội Nhà Văn thành phố này có lần nói vui khi anh tặng tôi tập thơ mới: “Thơ của mình biếu chạy lắm”. Nghĩ cũng hay, biếu chạy chứ bán không chạy!
Nhưng thơ văn Công giáo mà anh chị em qui tụ lại để viết, để quảng bá không nhằm để phô trương tài năng hay để bán hay biếu. Mục đích chính của những người làm thơ viết văn Công giáo, như anh Mặc Trầm Cung nêu lên, là tìm “cơ hội gặp gỡ, chia sẻ và giúp đỡ nhau hầu làm phong phú hơn kinh nghiệm sáng tác cũng như đời sống đạo, kiến thức về giáo lý Công giáo và đường hướng của Giáo Hội”.
Quả đúng như thế, nếu ai đã từng nghiền ngẫm Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, sẽ nhận ra ngay đường lối của “trung tâm văn bút” nhỏ bé này hoàn toàn đi đúng giáo huấn của Hội Thánh khi đọc trong “hiến chương” Câu Lạc Bộ rằng “…nhờ Con Một Chúa xuống thế làm người, khai mở kỷ nguyên mới. Nhờ đó con người được chạm đến chính Ngôi Lời Thiên Chúa và được sống với Thiên Chúa là nguồn suối trào tuôn niềm hạnh phúc” (lời phát biểu của chủ nhiệm Câu Lạc Bộ).
Đến đây, người đọc đã nhận ra tại sao Câu Lạc Bộ Sáng Tác Thơ Văn Công Giáo Sàigòn là Đồng Xanh Thơ Sàigòn. “Lời Chúa chính là hơi thở, là suối mát, là cánh đồng thơ thơm mát mênh mông đủ mọi loài hoa đầy hương sắc”. Linh mục nhạc sĩ Kim Long chia sẻ rằng ngài đến với thơ trước khi đến với nhạc, và chính nhờ Đọc – Suy – Cầu với Lời Chúa mà ngài sáng tác hơn nửa thế kỷ nay.
Mục tiêu tối hậu của những người viết Công giáo là dùng câu chữ của mình để quảng bá Lời Chúa, để đem giáo lý đến cho các em dễ dàng và như cụ Thế Kiên Dominic nói “thơ văn phục vụ sống đạo”.
Thơ ca Công Giáo Việt nam đã có những người làm rạng danh, trong đó có Hàn mặc Tử. Gần đây tập trường ca Tin Mừng “Sứ Điệp Tình Thương” với 9,764 câu thơ đẹp và tài hoa của linh mục nhà thơ Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn đã gây tiếng vang và đi sâu vào lòng người. Những người làm thơ khác hẳn là không nổi tiếng như hai vị ấy, nhưng mục đích chung vẫn là “đem Lời Chúa ghép thành vần (…) như dòng sữa ngọt” để nuôi các tâm hồn lớn lên. (x. Lời Phi Lộ, Sứ Điệp Tình Thương, F.X. Nguyễn Xuân Văn).
Giữa phố thị có một Đồng Xanh Thơ, cũng như giữa dòng đời có suối mát đồng xanh, nơi Chúa là mục tử nhân dũng chăn nuôi đoàn chiên nhỏ bé. Hy vọng rồi đây cánh đồng xanh này ngày càng được nâng đỡ, đáp lại băn khoăn của anh chủ nhiệm Mặc Trầm Cung: “liệu công việc của chúng con hôm nay có được một linh mục nào mạnh dạn ôm ấp?” Thực tế, các websites dunglac.org, vietcatholic.org, conggiaovietnam.net, dcctvn.net đã từng là những mảnh đất màu mỡ cho Đồng Xanh Thơ được chăm sóc.
Lời ca Đồng Xanh Thơ của nhạc sĩ Cao Huy Hoàng vang lên kết thúc buổi họp mặt. Nhưng kết thúc cũng chính là khởi đầu, bởi vì Chúa vẫn tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên nhỏ bước đi, tìm thấy nguồn suối và khi đã uống no say, đến lượt mình, đoàn chiên lại chuyển nguồn nước đi xa hơn đến thật nhiều tâm hồn. Và như thế, thơ văn Công giáo không chỉ diễn đạt tâm tình, mà còn là chuyển tải Lời Cứu độ, chuyển tải Công Lý, Sự Thật và Bình An.
Buổi sáng ngày 28/2/2010, hơn 20 anh chị em viết văn thuộc Câu Lạc Bộ đã họp mặt cùng với sự hiện diện rất đáng quí của linh mục nhạc sĩ Kim Long, linh mục nhạc sĩ Tiến Lộc và một số linh mục tu sĩ quan tâm đến hoạt động văn chương như cha Luy Nguyễn Anh Tuấn, trưởng ban Mục Vụ Hôn Nhân Gia Đình của giáo phận, các cha giáo xứ Nam Hoà và An Lạc.
Một vị khách mời đã chú ý đến ngày âm lịch và cho rằng vô tình anh chị em đã chọn đúng ngày Nguyên Tiêu để tổ chức lễ ra mắt Câu Lạc Bộ Thơ. Đối với thế hệ trẻ hơn, có lẽ ngày Nguyên tiêu cũng chẳng phải là mốc chính yếu cho lắm, điều quan trọng hơn chính là ở chỗ buổi họp mặt là kết quả của một chuẩn bị xa, từ ngày họp mặt Phan thiết. Và nhất là ngay từ tối 30 Tết, anh Mặc Trầm Cung, chủ nhiệm Câu Lạc Bộ đã ngược xuôi và bỏ hết việc riêng để hết mình vun xới cho cánh đồng thơ này.
Sẽ là không cần thiết nếu trình bày buổi họp mặt với những chi tiết và diễn biến. Nhưng nếu nhìn sâu vào bên trong Câu Lạc Bộ Thơ Văn Sàigòn, người ta có thể cảm nhận được nhiều điều đáng nhớ. Không ai phủ nhận rằng vai trò của văn chương, nhất là thơ, ngày một mờ nhạt đi giữa xã hội vốn còn vô số điều để quan tâm. Một nhà thơ ở Hội Nhà Văn thành phố này có lần nói vui khi anh tặng tôi tập thơ mới: “Thơ của mình biếu chạy lắm”. Nghĩ cũng hay, biếu chạy chứ bán không chạy!
Quả đúng như thế, nếu ai đã từng nghiền ngẫm Học Thuyết Xã Hội Công Giáo, sẽ nhận ra ngay đường lối của “trung tâm văn bút” nhỏ bé này hoàn toàn đi đúng giáo huấn của Hội Thánh khi đọc trong “hiến chương” Câu Lạc Bộ rằng “…nhờ Con Một Chúa xuống thế làm người, khai mở kỷ nguyên mới. Nhờ đó con người được chạm đến chính Ngôi Lời Thiên Chúa và được sống với Thiên Chúa là nguồn suối trào tuôn niềm hạnh phúc” (lời phát biểu của chủ nhiệm Câu Lạc Bộ).
Đến đây, người đọc đã nhận ra tại sao Câu Lạc Bộ Sáng Tác Thơ Văn Công Giáo Sàigòn là Đồng Xanh Thơ Sàigòn. “Lời Chúa chính là hơi thở, là suối mát, là cánh đồng thơ thơm mát mênh mông đủ mọi loài hoa đầy hương sắc”. Linh mục nhạc sĩ Kim Long chia sẻ rằng ngài đến với thơ trước khi đến với nhạc, và chính nhờ Đọc – Suy – Cầu với Lời Chúa mà ngài sáng tác hơn nửa thế kỷ nay.
Mục tiêu tối hậu của những người viết Công giáo là dùng câu chữ của mình để quảng bá Lời Chúa, để đem giáo lý đến cho các em dễ dàng và như cụ Thế Kiên Dominic nói “thơ văn phục vụ sống đạo”.
Thơ ca Công Giáo Việt nam đã có những người làm rạng danh, trong đó có Hàn mặc Tử. Gần đây tập trường ca Tin Mừng “Sứ Điệp Tình Thương” với 9,764 câu thơ đẹp và tài hoa của linh mục nhà thơ Phanxicô Xaviê Nguyễn Xuân Văn đã gây tiếng vang và đi sâu vào lòng người. Những người làm thơ khác hẳn là không nổi tiếng như hai vị ấy, nhưng mục đích chung vẫn là “đem Lời Chúa ghép thành vần (…) như dòng sữa ngọt” để nuôi các tâm hồn lớn lên. (x. Lời Phi Lộ, Sứ Điệp Tình Thương, F.X. Nguyễn Xuân Văn).
Lời ca Đồng Xanh Thơ của nhạc sĩ Cao Huy Hoàng vang lên kết thúc buổi họp mặt. Nhưng kết thúc cũng chính là khởi đầu, bởi vì Chúa vẫn tiếp tục dẫn dắt đoàn chiên nhỏ bước đi, tìm thấy nguồn suối và khi đã uống no say, đến lượt mình, đoàn chiên lại chuyển nguồn nước đi xa hơn đến thật nhiều tâm hồn. Và như thế, thơ văn Công giáo không chỉ diễn đạt tâm tình, mà còn là chuyển tải Lời Cứu độ, chuyển tải Công Lý, Sự Thật và Bình An.
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đêm thắp nến hiệp thông cầu nguyện với Đồng Chiêm tại Houston, Texas, Hoa Kỳ
Antôn Nguyễn
21:56 01/03/2010
HOUSTON - Trong lúc những kẻ cầm quyền tại Việt Nam vẫn tiếp tục đàn áp các tôn giáo tại Việt Nam, thì mọi con dân Việt Nam khắp nơi trên thế giới vẫn hướng về quê nhà và cùng hiệp thông với những đau khổ mà đồng bào đang phải gánh chịu, nhất là những đồng bào tại giáo xứ Đồng Chiêm, tỉnh Hà Nam, nơi đang khóc than vì Thập giá đã bị đập phá một cách hết sức nặng nề, và con chiên bổn đạo đang bị đàn áp hết sức thô bạo.
Xem hình ảnh Đêm Thắp Nến
Sau nhiều tuần lễ hội họp, Cộng Đồng Người Việt quốc gia tại Houston và các vùng phụ cận, tiểu bang Texas, nơi có đông đảo người Việt tị nạn Công Sản cư ngụ, đã quyết định phối hợp cùng các đảng phái chính trị, các hội đoàn quân đội và Hội đồng Liên Tôn, cùng nhau tổ chức một buổi thắp nến để cùng hiệp thông cầu nguyện cho các tôn giáo đang bị đàn áp tại Việt Nam.
Thời tiết tại Houston trong thời điểm này rất lạnh và gió lớn, tuy nhiên số người tham dự đã lên tới hàng ngàn người, có người đã đi dự cùng với cả gia đình, các cụ già tuy thời tiết giá lạnh, nhưng vì muốn đồng tâm hiệp thông với đồng bào đang bị đàn áp tại quê nhà, nên đã tham dự hết sức nhiệt thành tuy trời rất lạnh.
Trong buổi lễ, các đoạn video, hình ảnh trình bày về các vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, như Bát Nhã, bắt bớ đánh đập và xua đuổi các sư sãi một cách thô bạo, vô liêm sỉ, vụ đập phá Thập Giá là biểu tượng tối cao của Thiên Chúa Giáo, cùng đánh đập tàn nhẫn đãn bà con trẻ tại giáo xứ Đồng Chiêm. Mọi người đã tỏ ra rất bất bình và căm phẫn.
Sau phần chào cờ Hoa Kỳ và Việt Nam, là phần mặc niệm hướng về Quốc tổ Hùng Vương, cùng với các anh hùng liệt nữ đã có công dựng nước và giữ nước, các đồng bào đã hy sinh trên đường đi tìm tự do.
Ông Trương như Phùng với tư cách là trưởng ban tổ chức đã ngỏ lời chào mừng quan khách và tuyên bố mục đích của buổi cầu nguyện hiệp thông hôm nay, và đã được mọi người đồng tâm tán thưởng nhiệt liệt, Sau đó là ông Phan như Học, Chủ tịch Công Đồng gnười Việt Quốc Gia tại Houston bày tỏ cảm tưởng cực lực lên án việc chà đạp tín ngưỡng của nhà cầm quyền Cộng sản tại Việt Nam.
Đại diện các hội đoàn, đoàn thể cũng đã lần lượt phát biểu sự phản đối và lên án các hành động vô nhân đạo của nhà cầm quyền Cộng sản đã hèn nhát dùng côn đồ và mua chuộc những kẻ lưu manh vô lương tâm chỉ vì thiếu ăn, để đàn áp thô bạo người dân lành vô tội.
Các bản nhạc đấu tranh, hùng ca, và các bài hát viết cho Đồng Chiêm của nhạc sĩ Hoàng Tường được trình bày bởi chính anh và các ca sĩ tại địa phương và ban hợp ca của các cưu sinh viên trường Võ bị Thủ Đức và các phu nhân.
Trong dịp này, Công đồng Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo Phân Galveston Houton đã được mời cử hành nghi thức rước Thập Giá, và cùng với toàn thể công đồng người Việt quốc gia đủ mọi thành phần tôn giáo tại Houston cùng thắp nến hiệp thông cầu nguyện với giáo xứ Đồng Chiêm. Thập Giá đã được rước lên trong bầu không khí nghiêm trang, trong ánh sáng của nhiều ngàn ngọn nến và cờ vàng ba sọc đỏ Việt Nam tự do được giơ lên để chào đón Thập Giá. Trong lúc di chuyển Thập Gía tới lễ đài, lời ca quen thuộc “ Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hằn lên trên trán,.. ” được ca đoàn giáo xứ Đức Mẹ La Vang hát lên hợp với lời ca của toàn thể mọi người tham dự đã biến quang cảnh hết sức linh thiêng và cảm động. Thập Giá tiến tới lễ đài và được dựng lên như nhắc nhớ là Thập Giá không bao giờ ngã, và luôn luôn đứng vững trong mọi trường hợp, dù là khó khăn và nhiều thử thách đến đâu, như Giáo hội đã và đang trải qua từ nhiều nghìn năm nay, nhất là Giáo hội Việt Nam, tuy non trẻ nhưng lại là Giáo hội có nhiều nhân chứng đức tin nhất. Trên cây Thập Gía cũng có lá cờ Hội Thánh để tượng trưng cho sự chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô khi Ngài sống lại và vẫn đang là sự chiến thắng của Giáo Hội cũng như của con dân Đồng Chiêm nhờ vào Thánh giá cứu chuộc của Chúa Kitô.
Sauk hi an vị Thập Gía, lễ nghi cầu nguyện đã được các vị lãnh đạo các tôn giáo như Cao Đài, Phật Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cũng như của cha Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo Phận Galveston-Houston.
Sau khi các vị lãnh đạo các tôn giáo chấm dứt phần cầu nguyện, ban tổ chức đã mời tất cả các vị lãnh đạo các tôn giáo cùng hướng về phía dân chúng và một lần nữa cùng với ca đoàn hát bài Kinh Hoà Bình xin bình an cho hết thảy mọi người kể cả những người đã và đang đàn áp giáo dân tại Việt Nam.
Các vị Dân biểu Tiểu Bang như Hubert Võ, Tân Nghị Viên Thành phố Houston Hoàng Duy Hùng đã được mời phát biểu cảm tưởng, và đã cùng đồng thanh lên tiếng ủng hộ cũng như bày tỏ ý nguyện cùng hiệp thông với việc cầu nguyện của Cộng Đồng cùng với Giáo Xứ Đồng Chiêm.
Xem hình ảnh Đêm Thắp Nến
Sau nhiều tuần lễ hội họp, Cộng Đồng Người Việt quốc gia tại Houston và các vùng phụ cận, tiểu bang Texas, nơi có đông đảo người Việt tị nạn Công Sản cư ngụ, đã quyết định phối hợp cùng các đảng phái chính trị, các hội đoàn quân đội và Hội đồng Liên Tôn, cùng nhau tổ chức một buổi thắp nến để cùng hiệp thông cầu nguyện cho các tôn giáo đang bị đàn áp tại Việt Nam.
Thời tiết tại Houston trong thời điểm này rất lạnh và gió lớn, tuy nhiên số người tham dự đã lên tới hàng ngàn người, có người đã đi dự cùng với cả gia đình, các cụ già tuy thời tiết giá lạnh, nhưng vì muốn đồng tâm hiệp thông với đồng bào đang bị đàn áp tại quê nhà, nên đã tham dự hết sức nhiệt thành tuy trời rất lạnh.
Trong buổi lễ, các đoạn video, hình ảnh trình bày về các vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo, như Bát Nhã, bắt bớ đánh đập và xua đuổi các sư sãi một cách thô bạo, vô liêm sỉ, vụ đập phá Thập Giá là biểu tượng tối cao của Thiên Chúa Giáo, cùng đánh đập tàn nhẫn đãn bà con trẻ tại giáo xứ Đồng Chiêm. Mọi người đã tỏ ra rất bất bình và căm phẫn.
Sau phần chào cờ Hoa Kỳ và Việt Nam, là phần mặc niệm hướng về Quốc tổ Hùng Vương, cùng với các anh hùng liệt nữ đã có công dựng nước và giữ nước, các đồng bào đã hy sinh trên đường đi tìm tự do.
Ông Trương như Phùng với tư cách là trưởng ban tổ chức đã ngỏ lời chào mừng quan khách và tuyên bố mục đích của buổi cầu nguyện hiệp thông hôm nay, và đã được mọi người đồng tâm tán thưởng nhiệt liệt, Sau đó là ông Phan như Học, Chủ tịch Công Đồng gnười Việt Quốc Gia tại Houston bày tỏ cảm tưởng cực lực lên án việc chà đạp tín ngưỡng của nhà cầm quyền Cộng sản tại Việt Nam.
Đại diện các hội đoàn, đoàn thể cũng đã lần lượt phát biểu sự phản đối và lên án các hành động vô nhân đạo của nhà cầm quyền Cộng sản đã hèn nhát dùng côn đồ và mua chuộc những kẻ lưu manh vô lương tâm chỉ vì thiếu ăn, để đàn áp thô bạo người dân lành vô tội.
Các bản nhạc đấu tranh, hùng ca, và các bài hát viết cho Đồng Chiêm của nhạc sĩ Hoàng Tường được trình bày bởi chính anh và các ca sĩ tại địa phương và ban hợp ca của các cưu sinh viên trường Võ bị Thủ Đức và các phu nhân.
Trong dịp này, Công đồng Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo Phân Galveston Houton đã được mời cử hành nghi thức rước Thập Giá, và cùng với toàn thể công đồng người Việt quốc gia đủ mọi thành phần tôn giáo tại Houston cùng thắp nến hiệp thông cầu nguyện với giáo xứ Đồng Chiêm. Thập Giá đã được rước lên trong bầu không khí nghiêm trang, trong ánh sáng của nhiều ngàn ngọn nến và cờ vàng ba sọc đỏ Việt Nam tự do được giơ lên để chào đón Thập Giá. Trong lúc di chuyển Thập Gía tới lễ đài, lời ca quen thuộc “ Con đường nào Chúa đã đi qua, con đường nào Ngài ra pháp trường, mão gai nào hằn lên trên trán,.. ” được ca đoàn giáo xứ Đức Mẹ La Vang hát lên hợp với lời ca của toàn thể mọi người tham dự đã biến quang cảnh hết sức linh thiêng và cảm động. Thập Giá tiến tới lễ đài và được dựng lên như nhắc nhớ là Thập Giá không bao giờ ngã, và luôn luôn đứng vững trong mọi trường hợp, dù là khó khăn và nhiều thử thách đến đâu, như Giáo hội đã và đang trải qua từ nhiều nghìn năm nay, nhất là Giáo hội Việt Nam, tuy non trẻ nhưng lại là Giáo hội có nhiều nhân chứng đức tin nhất. Trên cây Thập Gía cũng có lá cờ Hội Thánh để tượng trưng cho sự chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô khi Ngài sống lại và vẫn đang là sự chiến thắng của Giáo Hội cũng như của con dân Đồng Chiêm nhờ vào Thánh giá cứu chuộc của Chúa Kitô.
Sauk hi an vị Thập Gía, lễ nghi cầu nguyện đã được các vị lãnh đạo các tôn giáo như Cao Đài, Phật Giáo, Phật Giáo Hoà Hảo, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cũng như của cha Chủ Tịch Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Tổng Giáo Phận Galveston-Houston.
Sau khi các vị lãnh đạo các tôn giáo chấm dứt phần cầu nguyện, ban tổ chức đã mời tất cả các vị lãnh đạo các tôn giáo cùng hướng về phía dân chúng và một lần nữa cùng với ca đoàn hát bài Kinh Hoà Bình xin bình an cho hết thảy mọi người kể cả những người đã và đang đàn áp giáo dân tại Việt Nam.
Các vị Dân biểu Tiểu Bang như Hubert Võ, Tân Nghị Viên Thành phố Houston Hoàng Duy Hùng đã được mời phát biểu cảm tưởng, và đã cùng đồng thanh lên tiếng ủng hộ cũng như bày tỏ ý nguyện cùng hiệp thông với việc cầu nguyện của Cộng Đồng cùng với Giáo Xứ Đồng Chiêm.
Thông Báo
Cáo Phó: Sư huynh Félicien Huỳnh Công Lương vừa tạ thế tại Mai Thôn Saigòn
Sư huynh Giám tỉnh
22:24 01/03/2010
CÁO PHÓ:
“TRONG NIỀM TIN VÀO CHÚA KITÔ KHỔ NẠN VÀ PHỤC SINH”
Tỉnh Dòng La San Việt Nam
Văn phòng Giám tỉnh xin kính báo cùng quý Bề trên và quý Frères:
Sư huynh Félicien Huỳnh Công Lương
vừa được Chúa gọi về lúc 03g30 ngày 02/03/2010 tại Mai Thôn.
Nghi thức nhập quan: ngày 02/03/2010 lúc 16g00
Thánh lễ An táng: ngày 04/03/2010 lúc 8g30 tại Nhà nguyện Nữ La San Mai Thôn:
970 Xô Viêt Nghe Tĩnh - PhưỜng 28 - Q. Bình Thạnh, Saigòn
Xin quý Bề trên và quý Frères cầu nguyện để linh hồn Sư huynh Félicien sớm được về hưởng Tôn Nhan Thánh Chúa.
“TRONG NIỀM TIN VÀO CHÚA KITÔ KHỔ NẠN VÀ PHỤC SINH”
Tỉnh Dòng La San Việt Nam
Văn phòng Giám tỉnh xin kính báo cùng quý Bề trên và quý Frères:
Sư huynh Félicien Huỳnh Công Lương
vừa được Chúa gọi về lúc 03g30 ngày 02/03/2010 tại Mai Thôn.
Nghi thức nhập quan: ngày 02/03/2010 lúc 16g00
Thánh lễ An táng: ngày 04/03/2010 lúc 8g30 tại Nhà nguyện Nữ La San Mai Thôn:
970 Xô Viêt Nghe Tĩnh - PhưỜng 28 - Q. Bình Thạnh, Saigòn
Xin quý Bề trên và quý Frères cầu nguyện để linh hồn Sư huynh Félicien sớm được về hưởng Tôn Nhan Thánh Chúa.
Văn Hóa
Đám Tang Sự Tử Tế
Nguyễn Trung Tây, SVD
07:27 01/03/2010
Đám Tang Sự Tử Tế
Sáng thứ Hai ngày 18 tháng 6 đã tới. Thành phố Melbourne tấp nập nhộn nhịp như thường lệ. Hai bên lề đường Flinder, tiếng chân bước nhanh nhanh tới công sở vẫn đang rộn ràng khua vang. Tại góc đường William, đèn xanh bật sáng, hàng xe hơi bám sát nối đuôi nóng nẩy gầm gừ phóng tới. Tháng 6, Úc Châu mùa Đông, mây xám dầy cộm che kín bầu trời. Một vài khuôn mặt ngái ngủ tay giơ cao che miệng ngáp mắt lơ đãng nhìn hai ba người đang ồn ào to tiếng cãi nhau tại một góc phố. Tự nhiên nhiều tiếng súng nổ vang! Có người lầm tưởng tiếng nổ của bánh xe. Người người quay ngang ngó dọc tìm kiếm để rồi nhận ra ngay tại góc đường William Street và Flinder Lanes, hai người đàn ông và một cô gái té ngã xuống mặt đường. Máu đỏ bắt đầu chầm chậm loang lổ đất cát! Nhiều người che miệng, có kẻ rú to, vài người bỏ chạy! Mấy phút sau, xe cảnh sát nóng nảy chớp đèn đỏ phóng tới kéo theo xe cứu thương phía sau hấp tấp hú còi khua vang. Một buổi sáng thứ Hai bận rộn của thành phố Melbourne dừng lại. Không ai hiểu chuyện chi đã xẩy ra.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, qua hệ thống tin tức truyền hình và truyền thanh, cư dân Melbourne mới biết nguyên nhân nào đã dẫn đến những tiếng súng nổ vang một góc đường sáng nay. Hóa ra đây cũng chỉ là một câu chuyện tử tế. Nhận ra cô Kara Douglas đang bị hung thủ Christopher Hudson nắm tóc hành hung ngay giữa phố thị, Brendan Keilar và Paul de Waard, hai người khách qua đường cùng nhảy vào can thiệp. Hung thủ Christopher mặt sắt lạnh lùng rút súng bắn trọng thương Brendan và Paul, đả thương trầm trọng cô Kara. Một tiếng đồng hồ sau, bệnh viện đưa tin Paul và cô Kara còn đang trong tình trạng hôn mê, nhưng riêng ông luật sư Brendan 43 tuổi đã trút hơi thở cuối cùng trong phòng cấp cứu, để lại vợ và ba người con thơ ấu.
Tiếng đạn nổ vang vào lúc 8:20 buổi sáng thứ Hai ngày 18 tháng 6 ngay giữa khu phố sầm uất của Melbourne đã lấy đi một mạng người, đả thương hai người, và tệ hại hơn nữa tiếng súng của hung thủ Christopher Hudson cũng đã đả thương trí mạng hình ảnh người Samaria Nhân Hậu của Tin Mừng Luca (10:25-37). Luật sư Brendan Keilar giờ này đã ngủ yên trong nghĩa trang. Nhưng người Samaria Nhân Hậu của Tin Mừng Luca vẫn còn đang nằm hấp hối không biết sống chết lúc nào trong đầu nhiều người dân của thị dân Melbourne. Giờ này, có lẽ người dân tiểu bang Victoria vẫn còn đang thắc mắc tự hỏi không biết từ bây giờ trở đi, mình còn nên tiếp tục hành xử như người Samaria Nhân Hậu nữa hay không, bởi coi chừng có ngày lại dám mất mạng như ông luật sư Brendan cho mà coi! Mà nếu bây giờ người vợ biết chồng mình có tính hào hiệp, giữa đường ưa nổi máu anh hùng Lương Sơn Bạc nhào vào can thiệp chuyện người khác, liệu người vợ có còn nên tiếp tục giữ yên lặng nữa hay không? Bởi biết đâu, có ngày rồi chính mình và những đứa con cũng sẽ phải mặc áo tang màu đen đi theo sau quan tài của chồng và của bố như bà luật sư Alice Keilar và ba đứa con thơ ấu của bà vào buổi sáng thứ Bẩy ngày 23 tháng 6 vừa qua tại Nhà thờ Immaculate Conception của Hawthorne…
I. Người Samaria Nhân Hậu: Coi chừng!
Ngày hôm nay, bởi những luật lệ chằng chịt và ý thức hệ mới trong xã hội, người Samaria Nhân Hậu của những năm 2000 trước khi quyết định giúp người cũng phải hết sức mà cẩn thận, kẻo không phước đâu chưa thấy mà lại thấy rước họa vào người.
Khi gặp một em bé té ngã lăn quay nơi công cộng, một người cẩn thận và khôn ngoan sẽ không vội vàng chạy lại bồng em đứng dậy. Chớ! Chớ có mà dại dột, bởi ai biết đâu đấy, bố mẹ của em bé hoặc chính em sẽ đâm đơn kiện ngược lại người Samaria Nhân Hậu đã cố tình động chạm đến thân thể của em…
Trong một lần chạy bộ ngoài đường, tôi nhớ vừa mới chạy được mấy bước, tự dưng tôi nhận ra trước mặt thấp thoáng hai bóng người. Người phụ nữ có khuôn mặt Á Châu đang hốt hoảng khua tay miệng kêu lớn,
— Help! Help!
Trong khi đó bên cạnh bà ta, một người phụ nữ Tây Phương khoảng bẩy mươi tuổi dáng nhỏ bé, khuôn mặt trầy trụa những vết bầm, đang lấy khăn tay cố gắng bôi xóa những dòng máu đỏ phun ra từ hai lỗ mũi. Tôi hốt hoảng dừng lại, vội vàng hỏi người đàn bà Á Đông, “What happens?”, mắt nhìn theo những dòng máu đỏ đang phun ra từ lỗ mũi của người đàn bà Tây Phương, trong đầu nghĩ tới số điện thoại cấp cứu. Nhưng người đàn bà Úc khoác tay điệu bộ dứt khoát xua đuổi, chân bước tới, miệng nói,
— I’m OK. I’m fine.
Trong khi đó, người phụ nữ Á Châu mặt mày hốt hoảng tiếng Anh tiếng đực tiếng cái kể chuyện bà vừa mới thấy người đàn bà Úc xiêu vẹo té ngã sấp mặt xuống mặt đường xi măng ra sao, rồi máu chảy từ lỗ mũi của bà ta như thế nào. Nghe thủng lỗ tai câu chuyện của người phụ nữ Á Châu, tôi quyết định chạy đuổi theo bóng người đàn bà Úc đang dần dần biến mất nơi cuối đường. Nhưng nhận ra tôi, người đàn bà Úc tiếp tục lập lại điệp khúc cũ, “I’m fine. I’m OK”, trong khi đó bà ta một tay tiếp tục cầm khăn tay lau những dòng máu đang tuôn chảy từ mũi, một tay ra hiệu như muốn xua đuổi tôi đi.
Tôi cuối cùng dừng lại những bước chân, không đi theo người đàn bà Úc nữa, nhưng quay lại phân bua với người Samaria Nhân Hậu có khuôn mặt Á Châu,
— Sorry! What can we do?
Phải, chúng ta có thể làm được chi, nếu bạn đang sống trong một xã hội mà ý thức hệ về tự do cá nhân được tôn trọng, con người có quyền từ chối không chấp nhận những giúp đỡ đến từ những người lạ mặt, và ngay cả những người thân trong gia đình.
II. Người Samaria Nhân Hậu: Làm được chi?
Đúng là như thế, chúng ta có thể làm được chi, nếu người hàng xóm đã từng được chúng ta giúp đỡ trong cơn túng thiếu, giờ này bỗng dưng trở mặt, không còn nhớ tới tình hàng xóm tối lửa tắt đèn và luôn cả số tiền mà họ đã nhăn mặt nói khó, rồi chìa tay ra mượn năm xưa.
Mà nói có Ông Trời chứng giám, một lần gặp phải đốm đen trần thế như thế này, nhân gian có thể nhắm mắt nhịn nhục bỏ qua. Nhưng hai lần, rồi ba lần, lòng kiên nhẫn và lòng tử tế của nhân loại rồi cũng sẽ nổ tung như bọt bong bóng. Chẳng trách chi tâm hồn của trần thế tiếp tục trở nên giá băng lạnh cứng như tâm hồn của một cô gái đang tâm bỏ lại người con sơ sinh mới chào đời trước cửa bệnh viện Dandenong vào sáng sớm ngày 13 tháng 5. Mà mỉa mai thay, ngày 13 tháng 5 vừa qua cũng chính là ngày của những người Hiền Mẫu.
Bởi trái tim của trần gian đã đóng băng, chẳng trách chi, những người đàn ông Úc gốc Tây nhắm mắt làm ngơ, tỉnh bơ tiếp tục câu cá trước cái xác trương phềnh của thiếu nữ thổ dân Úc đang nổi lềnh bềnh trên mặt hồ nước như bộ phim Jindabyne trình chiếu tại Úc vào năm 2006 đã đặt vấn đề, đã từng chất vấn lương tâm của tất cả những người dân Úc trước thảm nạn của thổ dân Úc.
Nếu Đức Giêsu phải kể lại câu chuyện Người Samaria Nhân Hậu tại thành phố Melbourne trong thiên niên kỷ thứ 3, không biết Ngài sẽ kể như thế nào? Chẳng lẽ Ngài không còn chọn lựa nào khác, nhưng đành phải để cho người Samaria nhắm mắt yên lặng bỏ đi thẳng một mạch trước hình tượng nửa sống nửa chết của một mạng người đang nằm ngay bên vệ đường?
III. Người Samaria Nhân Hậu: Đám tang Sự Tử Tế
Thiên hạ bây giờ, gặp cảnh ngộ tương tự như thế, chắc cũng chẳng có mấy người dám dừng lại một nhịp chân như người Samaria Nhân Hậu thủa xưa. Nói có thể phách hiển linh của ông luật sư Brendan chứng dám và tha lỗi, lâu lâu mới có một người vớ vẩn như ông! Chẳng trách chi ông ngã gục. Chưa hết, ông luật sư lại còn tạo thêm môt cơ hội cho phe tà cầm kiếm sắc lụi thẳng vào ngực khiến mạng của người Samaria Nhân Hậu trong Tin Mừng giờ này chỉ mành treo chuông. Có lẽ chẳng còn bao lâu nữa, thiên hạ sẽ lại sụt sùi, ngậm ngùi nước mắt mang xác người Samaria Nhân Hậu đi chôn. Mà coi chừng đó, một khi nắp hòm của người Samaria Nhân Hậu đã đóng lại và đám tang tử tế đã cử hành, sự tử tế coi như cũng được mồ yên mả đẹp, thiên hạ cũng sẽ thôi không còn đối xử tử tế với nhau nữa.
A. Thiên hạ đại loạn
Mà nếu sự tử tế chết đi, thì thiệt tình là kẹt, bởi không biết lúc đó thiên hạ sẽ đại loạn tới cỡ như thế nào? Chồng không còn tử tế với vợ, con dâu không còn tử tế với mẹ chồng, hàng xóm không còn tử tế với láng giềng, nhà thờ không còn tử tế với giáo dân, chính phủ không còn tử tế với dân chúng!
Đại loạn! Thiên hạ đại loạn!
Thiệt tình là như thế, trong một xã hội mà sự tử tế đã chết đi, mái ấm thân thương là không còn ngọt ngào thân thương nữa, vợ chớ có cả tin mà thả lỏng dây cương, nhưng lo mà giữ chồng kè kè sát ngay bên, bởi ông bà mình đã từng dạy rằng, “Đàn ông năm bẩy lá gan, lá ở cùng vợ lá toan cùng người”. Mẹ chồng lo mà cẩn thận giữ thân trước khi đưa vào miệng chén cơm trắng cá kho do cô con dâu vừa từ dưới bếp bưng lên, bởi câu chuyện dài của mẹ chồng nàng dâu thì vẫn chưa tới hồi chung cuộc, mà biết lúc nào thì thiên hạ sẽ đọc được đoạn kết? May ra tận thế!
Đáng ngại là như thế đó!
Trong một xã hội mà sự tử tế đã chết đi, hàng xóm láng giềng lo mà khóa cửa nhà cho chặt, bởi có ai mà tin được ai! Cẩn tắc vô ưu, đi ra ngoài đường là phải thủ sẵn trong người, nhẹ thì dao găm nặng hơn thì súng lục. Vô tới nhà thờ rồi, giầy dép thì để ngoài sân, nhưng dao găm và súng lục vẫn còn nhét sâu trong người. Cha cụ cử hành thánh lễ trên cung thánh, ở dưới giáo dân miệng lẩm bẩm câu kinh, nhưng mắt thì lấm lét ngó trước nhìn sau, một tay chắp trước ngực, tay kia đặt trong túi quần nắm chặt chuôi dao găm hay báng súng lục. Thánh lễ vừa tan, vừa bước ra khỏi nhà thờ, giáo dân tay dao tay súng kéo nhau tới nhà Thôn trưởng, nhẹ thì xin tí huyết, nặng thì bặp luôn bởi tội ăn trên ngồi chốc áp bức dân làng từ bao nhiêu năm nay. Thế là huyết lưu mãn địa! Cứ thế, Thôn này nối tiếp Huyện kia. Huyện kia cộng lại với Tỉnh khác, cả hai nhân lên hóa ra cả nước. Nước Úc nối tiếp nước Mỹ biến thành toàn cầu.
Đại loạn toàn cầu bởi sự tử tế đã chết đi, đám tang tử tế đã được cử hành, quan tài sự tử tế đã bị chôn sâu dưới ba thước đất là như thế đó!
B. Hiệp định Kyoto
Như vậy thì cần gì phải yêu sách, lên án thủ tướng John Howard và tổng thống George Bush về tội không chịu ký vào The Kyoto Treaty, hiệp định đề nghị các quốc gia kỹ nghệ trên thế giới phải giảm thiểu tối đa lượng thán khí thải vào trong bầu khí quyển. Đằng nào thì cũng chết hết. Chết bởi global warming hay chết bởi trống vắng sự tử tế thì cũng chỉ là một cái chết.
Mà e rằng hiểm họa gây ra bởi trống vắng sự tử tế thì tới nhanh hơn là hiểm họa gây ra bởi hiện tượng trái đất nóng dần. Thì cứ nhìn đi rồi sẽ thấy, cũng phải kéo dài trên dưới 200 năm từ những thời điểm khi kỹ nghệ cơ khí phát triển thải ra bao nhiêu là thán khí vào trong bầu khí quyển cho tới những ngày gần đây, trái đất mới bắt đầu ho khan, ắt xì, chuyển mình nóng sốt. Nhưng vào thời thế chiến thứ Hai, chỉ trong vòng trên dưới một năm, sát thủ Ninja Nhật Hoàng Hirohito đã gửi về âm phủ 2 triệu người Việt Nam chết đói xanh xao; Hitler chỉ trong có mấy năm cầm quyền mà đã giết đã đốt ra tro hơn 6 triệu người gốc Do Thái trong những trại tập trung. Nhưng nếu đem con số của 2,000,000 nạn nhân bởi Ninja Hirohito hoặc 6,000,000 bởi phát xít Hitler ra so sánh với con số 61,911,000 nạn nhân bỏ mạng trong trại tù Gulag của Liên Sô từ những ngày Cách Mạng Tháng Mười năm 1917, và 35,236,000 bị giết chết tại Trung Hoa lục địa từ năm 1949, (1) thì sát thủ Hirohito và đồ tể Hitler còn phải nghiêng mình cúi đầu khiêm nhường vô lớp ngồi học với sư tổ Lenin, giảng sư Stalin, và đại sư phụ Mao Trạch Đông.
Thiên hạ đại loạn toàn cầu sau khi sự tử tế đã chết đi đã mồ yên mả đẹp là như thế đó!
IV. Sự tử tế đã chết?
Nhưng có đúng là bởi những ràng buộc chằng chịt về luật pháp trong ngày hôm nay, bởi những đồ tể Lenin, Hitler, Hirohito, Stalin, Mao Trạch Đông, và Christopher, sự tử tế đã chết đi, đã bị chôn sâu dưới lòng đất trong thiên niên kỷ thứ ba hay không?
Tôi dừng lại những hàng chữ, nhìn chung quanh. Văn phòng nơi tôi đang ngồi làm việc vào một buổi chiều thứ Sáu, tất cả vẫn còn đang yên lặng. Người Thư ký văn phòng và Quản thủ thư viện vẫn đang chăm chú ngồi đánh máy công văn và lên sổ tên của những quyển sách. Qua khung cửa, tôi nhận ra trời lại đang mưa. Bây giờ đang là một buổi chiều tháng 7 Úc Châu. Gần một tháng rồi, những lời cầu xin cho mưa trời tuôn đổ của địa phận Brisbane đã được trời cao nghiêng tai lắng nghe. Bởi mưa trời, phượng đỏ của tiểu bang Queenslane đã đỏ tươi giờ này lại càng thêm đỏ thắm, đất tiểu bang New South Wales thôi không còn nứt nẻ khô môi, cỏ khô cháy vàng của tiểu bang Victoria chuyển mình đổi sang màu xanh mướt. Đời sống ở nước Úc vẫn trôi qua trong êm ả và thanh bình. Đời sống của tôi tại Victoria thật là bình an và hạnh phúc!
A. Khăn rằn ri và Lơ xe
Chẳng bù lại cho một khoảng thời gian của cuối thập niên 70, khi đó tôi vào tù ra khám như ăn cơm bữa bởi tội vượt biên. Te tua nhất là lần tôi bị bắt giam tại trại tù Tiền Giang vào năm 1978. Khi tôi được thả, trên người của thiếu niên mới lớn chỉ còn trơ trọi bộ quần áo tù và một tờ giấy Lệnh Tạm Tha. Không có một đồng trong người để mua vé xe về lại Sài Gòn, tôi đành phải chìa tay đi ăn xin vào tấm lòng tử tế của những bà hàng quấn khăn rằn ri ở chợ Mỹ Tho, sát ngay nhà tù Tiền Giang. Thấy tôi thiếu niên, mặt mày xanh xao đói khát chìa tay xin tiền, những bà bán hàng nhanh nhanh góp một, người cho hai, bố thí cho tôi những đồng tiền tử tế để tôi mua vé xe đò quay về lại Sài Gòn. Câu chuyện tử tế chưa chấm dứt ở đó, bởi khi tôi bước lên xe đò, người thanh niên lơ xe, trong khi soát giấy chứng minh nhân dân và thâu tiền xe đò, thấy tôi chìa ra tờ giấy Lệnh Tạm Tha, đã lắc đầu cười nho nhỏ, không lấy tiền vé của tôi, nhưng chỉ cho tôi chiếc ghế gỗ của anh ta ở ngay phía sau bác tài xế.
Dòng thời gian đã trôi qua, bao nhiêu thăng trầm trôi nổi tôi đã nếm đủ trong gần ba chục năm vừa rồi, bao nhiêu mặn nhạt chua cay do trần gian mang lại, tôi đã nếm đủ, nếm khá nhiều, và tôi cũng đã quên đi tất cả; nhưng vẫn không hiểu tại sao tôi vẫn còn nhớ rõ những khuôn mặt quấn khăn rằn ri của những bà hàng chợ Mỹ Tho và nụ cười của anh chàng lơ xe đò Tiền Giang vào một buổi trưa tháng 5 năm 1979 tại thành phố Mỹ Tho.
B. Công nương Diana
Vào dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Công nương Diana do hoàng tử William và Henry tổ chức vào ngày Chúa Nhật 1 tháng 7 vừa qua, hơn 70 ngàn người đã kéo về vận động trường Wembley của thủ đô London để tưởng nhớ công nương Diana. Công chúa Diana có thể nổi tiếng bởi vì cô là vợ của hoàng tử nước Anh, là mẹ của đương kim thái tử William, nhưng sau khi cô trút hơi thở cuối cùng cách đây đúng mười năm, người ta tưởng rằng có lẽ theo dòng thời gian người người rồi cũng sẽ quên đi một người con gái xinh đẹp nhưng lại mệnh bạc, khiến cho nhân gian mất đi cơ hội kiến bạc đầu. Nhưng không! Mười năm qua, người ta vẫn nhắc nhở tới công nương Diana với những quan tâm chăm sóc đóng góp của riêng cá nhân cô vào những công tác bác ái xã hội. Nếu công nương Diana khi còn sống quyết định đóng khung trong tháp ngà vương giả như bao nhiêu công nương khác trên thế giới của bao nhiêu thế hệ, thiên hạ rồi cũng sẽ quên cô đi như thế gian đã từng quên đi bao nhiêu công nương quý phái của bao nhiêu cung điện hoàng gia trên thế giới. Nhưng công nương Diana vẫn còn sống trong lòng, ít ra là 70 ngàn người, chính bởi vì tấm lòng tử tế của cô đối với người nghèo trên thế giới. Công nương đã lưu lại trong tâm khảm của nhiều người trên thế giới không phải bởi cô đẹp, hay bởi cô là công nương của hoàng gia Anh, nhưng chính bởi cô giàu lòng tử tế với những nạn nhân của bệnh Aids và những người nghèo khổ của lục địa Phi Châu.
C. Câu chuyện Phục Sinh
Thật vậy, những đời người sống với và dạy dỗ nhân loại về sự tử tế đều đã trở thành những vĩ nhân bất tử của thế giới, Đức Phật, Thánh Gandi, Mẹ Theresa.
Người Samaria Nhân Hậu trong Tin Mừng cũng không chết, nhưng tiếp tục sống theo chiều dài của lịch sử nhân loại bởi vì ông ta là một người tử tế. Và đây chính là nguyên nhân duy nhất đã khiến ông ta trở thành nhân vật bất tử trong dòng lịch sử của nhân loại nói chung, và lịch sử của người Kitô giáo nói riêng.
Vào một buổi sáng thứ Hai đầu tuần, những người đàn bà đi tới ngôi mộ đá, và họ khám phá ra tảng đá đã lăn sang một bên, xác Đức Giêsu đã biến mất. Có nhiều lý do để giải thích tại sao xác của Đức Giêsu không rữa thối trong mồ. Có người nói nếu Đức Giêsu có khả năng hồi sinh cô con gái mười hai tuổi của ông Jairus (Mark 5: 41-42), con trai bà góa thành Nain (Luka 7:11-17), và Lazarô đã chôn trong mộ bốn ngày (John 11), thì làm sao Ngài lại không có khả năng để phục sinh chính thân xác của Ngài. Có người nói bởi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, cho nên Chúa Cha đã phục sinh Người Con duy nhất của Ngài để làm chứng cho những lời giảng dạy của Đức Giêsu là sự thật.
Tất cả những điều trên đây đều đúng. Nhưng cũng vẫn còn nhiều lý do khác để giải thích tại sao Đức Giêsu đã phục sinh, một trong những lý do này có liên quan đến khái niệm bao gồm ba chữ: Sự Tử Tế. Nói một cách khác, Đức Giêsu đã sống dậy bởi vì Ngài là một người tử tế, Ngài là hiện thân của sự tử tế. Và sự tử tế thì không bao giờ có thể chết thối trong mồ, hoặc bị lãng quên theo dòng thời gian. Cả một đời của Đức Giêsu, Ngài chỉ làm những việc tử tế với những tha nhân Ngài đã từng gặp gỡ. Ngài mở mắt người mù, chữa lành người phong hủi, không nhặt đá ném chết người lầm lỡ, tha thứ cho những người đã kết án đóng đinh vào cây thập hình. Bởi những hành động tử tế của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã phục sinh Người Con duy nhất của Ngài để làm chứng rằng sự tử tế trong đời sống có tính bất tử.
V. Người Samaria Brendan: Sự tử tế
Bởi sự tử tế có tính bất tử, cho nên giờ này tôi mới hiểu tại sao đã gần ba chục năm trôi qua, tôi vẫn nhớ tới những khuôn mặt tử tế của những bà hàng quấn khăn rằn ri quyên góp những đồng tiền giấy nhàu nát và anh chàng lơ xe đò vào một buổi trưa tháng 5 năm 1979.
Bởi công nương Diana có tấm lòng tử tế, cho nên cô sẽ còn tiếp tục sống trong lòng của nhiều người.
Bởi Đức Phật, Thánh Gandi, Mẹ Theresa là những người tử tế, các Ngài là hiện thân của Sự Tử Tế, các ngài sẽ còn tiếp tục sống mãi và sống muôn đời.
Bởi Đức Giêsu chính là SỰ TỬ TẾ, Ngài đã sống dậy sau ba ngày bị chôn trong ngôi mộ đá.
Sau hết, bởi tấm lòng tử tế, ông luật sư Brendan Keilar đã không chết, nhưng tiếp tục trở thành một nhân vật bất tử. Cái chết của ông không phải là một cái chết vớ vẩn, nhưng là một tấm gương soi cho thị dân Melbourne và người dân Úc, dù là Úc gốc Tây, hay Úc gốc Việt. Giờ này thể xác của ông đã yên nghĩ, nhưng hồn phách tinh anh của ông vẫn sống với người dân của thị trấn Melbourne, bởi nói theo hơi nhạc của Trần Thiện Thanh,
Anh không chết đâu anh,
Người anh hùng “Nhân Hậu” tên “Brendan”.
Anh vẫn sống thêng thanh
trong lòng muôn người
biết yêu “sự tử tế”.
Đúng như vậy, cuộc đời trăm năm ngắn ngủi rồi cũng sẽ trôi qua. Ngàn vạn thành quách rồi cũng đã sụp đổ. Vĩ đại cỡ như Alexander hay Quang Trung đại đế rồi cũng đã nằm xuống. Xinh đẹp sắc sảo cỡ như Nữ Hoàng Cleopatra hay là Nam Phương Hoàng Hậu rồi cũng đã ngủ yên dưới ba tấc đất. Cuộc đời vẫn tiếp tục trôi qua. Thiên hạ tiếp tục rủ nhau đi bán muối tất tật. Ngày mai nếu hiểm họa global warning xầm xập kéo tới bôi xóa hết tất cả đường xá phố phường của Úc Châu và của thế giới, lúc đó sẽ chỉ còn sót lại trong tâm thức của vũ trụ hai chữ Tử Tế mà thôi. Còn lại tất cả đều chỉ là một con số không to tướng.
wwww.nguyentrungtay.com
Chú thích
(1) Lữ Giang, Con Số 100 Triệu Nạn Nhân (http://www.vietcatholic.net/News/Read.aspx?id=44936).
Đám tang sự tử tế, Ảnh Nguyễn Trung Tây |
Sáng thứ Hai ngày 18 tháng 6 đã tới. Thành phố Melbourne tấp nập nhộn nhịp như thường lệ. Hai bên lề đường Flinder, tiếng chân bước nhanh nhanh tới công sở vẫn đang rộn ràng khua vang. Tại góc đường William, đèn xanh bật sáng, hàng xe hơi bám sát nối đuôi nóng nẩy gầm gừ phóng tới. Tháng 6, Úc Châu mùa Đông, mây xám dầy cộm che kín bầu trời. Một vài khuôn mặt ngái ngủ tay giơ cao che miệng ngáp mắt lơ đãng nhìn hai ba người đang ồn ào to tiếng cãi nhau tại một góc phố. Tự nhiên nhiều tiếng súng nổ vang! Có người lầm tưởng tiếng nổ của bánh xe. Người người quay ngang ngó dọc tìm kiếm để rồi nhận ra ngay tại góc đường William Street và Flinder Lanes, hai người đàn ông và một cô gái té ngã xuống mặt đường. Máu đỏ bắt đầu chầm chậm loang lổ đất cát! Nhiều người che miệng, có kẻ rú to, vài người bỏ chạy! Mấy phút sau, xe cảnh sát nóng nảy chớp đèn đỏ phóng tới kéo theo xe cứu thương phía sau hấp tấp hú còi khua vang. Một buổi sáng thứ Hai bận rộn của thành phố Melbourne dừng lại. Không ai hiểu chuyện chi đã xẩy ra.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau đó, qua hệ thống tin tức truyền hình và truyền thanh, cư dân Melbourne mới biết nguyên nhân nào đã dẫn đến những tiếng súng nổ vang một góc đường sáng nay. Hóa ra đây cũng chỉ là một câu chuyện tử tế. Nhận ra cô Kara Douglas đang bị hung thủ Christopher Hudson nắm tóc hành hung ngay giữa phố thị, Brendan Keilar và Paul de Waard, hai người khách qua đường cùng nhảy vào can thiệp. Hung thủ Christopher mặt sắt lạnh lùng rút súng bắn trọng thương Brendan và Paul, đả thương trầm trọng cô Kara. Một tiếng đồng hồ sau, bệnh viện đưa tin Paul và cô Kara còn đang trong tình trạng hôn mê, nhưng riêng ông luật sư Brendan 43 tuổi đã trút hơi thở cuối cùng trong phòng cấp cứu, để lại vợ và ba người con thơ ấu.
Luật sư Brendan Keilar |
Tiếng đạn nổ vang vào lúc 8:20 buổi sáng thứ Hai ngày 18 tháng 6 ngay giữa khu phố sầm uất của Melbourne đã lấy đi một mạng người, đả thương hai người, và tệ hại hơn nữa tiếng súng của hung thủ Christopher Hudson cũng đã đả thương trí mạng hình ảnh người Samaria Nhân Hậu của Tin Mừng Luca (10:25-37). Luật sư Brendan Keilar giờ này đã ngủ yên trong nghĩa trang. Nhưng người Samaria Nhân Hậu của Tin Mừng Luca vẫn còn đang nằm hấp hối không biết sống chết lúc nào trong đầu nhiều người dân của thị dân Melbourne. Giờ này, có lẽ người dân tiểu bang Victoria vẫn còn đang thắc mắc tự hỏi không biết từ bây giờ trở đi, mình còn nên tiếp tục hành xử như người Samaria Nhân Hậu nữa hay không, bởi coi chừng có ngày lại dám mất mạng như ông luật sư Brendan cho mà coi! Mà nếu bây giờ người vợ biết chồng mình có tính hào hiệp, giữa đường ưa nổi máu anh hùng Lương Sơn Bạc nhào vào can thiệp chuyện người khác, liệu người vợ có còn nên tiếp tục giữ yên lặng nữa hay không? Bởi biết đâu, có ngày rồi chính mình và những đứa con cũng sẽ phải mặc áo tang màu đen đi theo sau quan tài của chồng và của bố như bà luật sư Alice Keilar và ba đứa con thơ ấu của bà vào buổi sáng thứ Bẩy ngày 23 tháng 6 vừa qua tại Nhà thờ Immaculate Conception của Hawthorne…
I. Người Samaria Nhân Hậu: Coi chừng!
Ngày hôm nay, bởi những luật lệ chằng chịt và ý thức hệ mới trong xã hội, người Samaria Nhân Hậu của những năm 2000 trước khi quyết định giúp người cũng phải hết sức mà cẩn thận, kẻo không phước đâu chưa thấy mà lại thấy rước họa vào người.
Khi gặp một em bé té ngã lăn quay nơi công cộng, một người cẩn thận và khôn ngoan sẽ không vội vàng chạy lại bồng em đứng dậy. Chớ! Chớ có mà dại dột, bởi ai biết đâu đấy, bố mẹ của em bé hoặc chính em sẽ đâm đơn kiện ngược lại người Samaria Nhân Hậu đã cố tình động chạm đến thân thể của em…
Trong một lần chạy bộ ngoài đường, tôi nhớ vừa mới chạy được mấy bước, tự dưng tôi nhận ra trước mặt thấp thoáng hai bóng người. Người phụ nữ có khuôn mặt Á Châu đang hốt hoảng khua tay miệng kêu lớn,
— Help! Help!
Trong khi đó bên cạnh bà ta, một người phụ nữ Tây Phương khoảng bẩy mươi tuổi dáng nhỏ bé, khuôn mặt trầy trụa những vết bầm, đang lấy khăn tay cố gắng bôi xóa những dòng máu đỏ phun ra từ hai lỗ mũi. Tôi hốt hoảng dừng lại, vội vàng hỏi người đàn bà Á Đông, “What happens?”, mắt nhìn theo những dòng máu đỏ đang phun ra từ lỗ mũi của người đàn bà Tây Phương, trong đầu nghĩ tới số điện thoại cấp cứu. Nhưng người đàn bà Úc khoác tay điệu bộ dứt khoát xua đuổi, chân bước tới, miệng nói,
— I’m OK. I’m fine.
Trong khi đó, người phụ nữ Á Châu mặt mày hốt hoảng tiếng Anh tiếng đực tiếng cái kể chuyện bà vừa mới thấy người đàn bà Úc xiêu vẹo té ngã sấp mặt xuống mặt đường xi măng ra sao, rồi máu chảy từ lỗ mũi của bà ta như thế nào. Nghe thủng lỗ tai câu chuyện của người phụ nữ Á Châu, tôi quyết định chạy đuổi theo bóng người đàn bà Úc đang dần dần biến mất nơi cuối đường. Nhưng nhận ra tôi, người đàn bà Úc tiếp tục lập lại điệp khúc cũ, “I’m fine. I’m OK”, trong khi đó bà ta một tay tiếp tục cầm khăn tay lau những dòng máu đang tuôn chảy từ mũi, một tay ra hiệu như muốn xua đuổi tôi đi.
Tôi cuối cùng dừng lại những bước chân, không đi theo người đàn bà Úc nữa, nhưng quay lại phân bua với người Samaria Nhân Hậu có khuôn mặt Á Châu,
— Sorry! What can we do?
Phải, chúng ta có thể làm được chi, nếu bạn đang sống trong một xã hội mà ý thức hệ về tự do cá nhân được tôn trọng, con người có quyền từ chối không chấp nhận những giúp đỡ đến từ những người lạ mặt, và ngay cả những người thân trong gia đình.
II. Người Samaria Nhân Hậu: Làm được chi?
Đúng là như thế, chúng ta có thể làm được chi, nếu người hàng xóm đã từng được chúng ta giúp đỡ trong cơn túng thiếu, giờ này bỗng dưng trở mặt, không còn nhớ tới tình hàng xóm tối lửa tắt đèn và luôn cả số tiền mà họ đã nhăn mặt nói khó, rồi chìa tay ra mượn năm xưa.
Mà nói có Ông Trời chứng giám, một lần gặp phải đốm đen trần thế như thế này, nhân gian có thể nhắm mắt nhịn nhục bỏ qua. Nhưng hai lần, rồi ba lần, lòng kiên nhẫn và lòng tử tế của nhân loại rồi cũng sẽ nổ tung như bọt bong bóng. Chẳng trách chi tâm hồn của trần thế tiếp tục trở nên giá băng lạnh cứng như tâm hồn của một cô gái đang tâm bỏ lại người con sơ sinh mới chào đời trước cửa bệnh viện Dandenong vào sáng sớm ngày 13 tháng 5. Mà mỉa mai thay, ngày 13 tháng 5 vừa qua cũng chính là ngày của những người Hiền Mẫu.
Bởi trái tim của trần gian đã đóng băng, chẳng trách chi, những người đàn ông Úc gốc Tây nhắm mắt làm ngơ, tỉnh bơ tiếp tục câu cá trước cái xác trương phềnh của thiếu nữ thổ dân Úc đang nổi lềnh bềnh trên mặt hồ nước như bộ phim Jindabyne trình chiếu tại Úc vào năm 2006 đã đặt vấn đề, đã từng chất vấn lương tâm của tất cả những người dân Úc trước thảm nạn của thổ dân Úc.
Nếu Đức Giêsu phải kể lại câu chuyện Người Samaria Nhân Hậu tại thành phố Melbourne trong thiên niên kỷ thứ 3, không biết Ngài sẽ kể như thế nào? Chẳng lẽ Ngài không còn chọn lựa nào khác, nhưng đành phải để cho người Samaria nhắm mắt yên lặng bỏ đi thẳng một mạch trước hình tượng nửa sống nửa chết của một mạng người đang nằm ngay bên vệ đường?
III. Người Samaria Nhân Hậu: Đám tang Sự Tử Tế
Thiên hạ bây giờ, gặp cảnh ngộ tương tự như thế, chắc cũng chẳng có mấy người dám dừng lại một nhịp chân như người Samaria Nhân Hậu thủa xưa. Nói có thể phách hiển linh của ông luật sư Brendan chứng dám và tha lỗi, lâu lâu mới có một người vớ vẩn như ông! Chẳng trách chi ông ngã gục. Chưa hết, ông luật sư lại còn tạo thêm môt cơ hội cho phe tà cầm kiếm sắc lụi thẳng vào ngực khiến mạng của người Samaria Nhân Hậu trong Tin Mừng giờ này chỉ mành treo chuông. Có lẽ chẳng còn bao lâu nữa, thiên hạ sẽ lại sụt sùi, ngậm ngùi nước mắt mang xác người Samaria Nhân Hậu đi chôn. Mà coi chừng đó, một khi nắp hòm của người Samaria Nhân Hậu đã đóng lại và đám tang tử tế đã cử hành, sự tử tế coi như cũng được mồ yên mả đẹp, thiên hạ cũng sẽ thôi không còn đối xử tử tế với nhau nữa.
A. Thiên hạ đại loạn
Mà nếu sự tử tế chết đi, thì thiệt tình là kẹt, bởi không biết lúc đó thiên hạ sẽ đại loạn tới cỡ như thế nào? Chồng không còn tử tế với vợ, con dâu không còn tử tế với mẹ chồng, hàng xóm không còn tử tế với láng giềng, nhà thờ không còn tử tế với giáo dân, chính phủ không còn tử tế với dân chúng!
Đại loạn! Thiên hạ đại loạn!
Thiệt tình là như thế, trong một xã hội mà sự tử tế đã chết đi, mái ấm thân thương là không còn ngọt ngào thân thương nữa, vợ chớ có cả tin mà thả lỏng dây cương, nhưng lo mà giữ chồng kè kè sát ngay bên, bởi ông bà mình đã từng dạy rằng, “Đàn ông năm bẩy lá gan, lá ở cùng vợ lá toan cùng người”. Mẹ chồng lo mà cẩn thận giữ thân trước khi đưa vào miệng chén cơm trắng cá kho do cô con dâu vừa từ dưới bếp bưng lên, bởi câu chuyện dài của mẹ chồng nàng dâu thì vẫn chưa tới hồi chung cuộc, mà biết lúc nào thì thiên hạ sẽ đọc được đoạn kết? May ra tận thế!
Đáng ngại là như thế đó!
Trong một xã hội mà sự tử tế đã chết đi, hàng xóm láng giềng lo mà khóa cửa nhà cho chặt, bởi có ai mà tin được ai! Cẩn tắc vô ưu, đi ra ngoài đường là phải thủ sẵn trong người, nhẹ thì dao găm nặng hơn thì súng lục. Vô tới nhà thờ rồi, giầy dép thì để ngoài sân, nhưng dao găm và súng lục vẫn còn nhét sâu trong người. Cha cụ cử hành thánh lễ trên cung thánh, ở dưới giáo dân miệng lẩm bẩm câu kinh, nhưng mắt thì lấm lét ngó trước nhìn sau, một tay chắp trước ngực, tay kia đặt trong túi quần nắm chặt chuôi dao găm hay báng súng lục. Thánh lễ vừa tan, vừa bước ra khỏi nhà thờ, giáo dân tay dao tay súng kéo nhau tới nhà Thôn trưởng, nhẹ thì xin tí huyết, nặng thì bặp luôn bởi tội ăn trên ngồi chốc áp bức dân làng từ bao nhiêu năm nay. Thế là huyết lưu mãn địa! Cứ thế, Thôn này nối tiếp Huyện kia. Huyện kia cộng lại với Tỉnh khác, cả hai nhân lên hóa ra cả nước. Nước Úc nối tiếp nước Mỹ biến thành toàn cầu.
Đại loạn toàn cầu bởi sự tử tế đã chết đi, đám tang tử tế đã được cử hành, quan tài sự tử tế đã bị chôn sâu dưới ba thước đất là như thế đó!
B. Hiệp định Kyoto
Như vậy thì cần gì phải yêu sách, lên án thủ tướng John Howard và tổng thống George Bush về tội không chịu ký vào The Kyoto Treaty, hiệp định đề nghị các quốc gia kỹ nghệ trên thế giới phải giảm thiểu tối đa lượng thán khí thải vào trong bầu khí quyển. Đằng nào thì cũng chết hết. Chết bởi global warming hay chết bởi trống vắng sự tử tế thì cũng chỉ là một cái chết.
Mà e rằng hiểm họa gây ra bởi trống vắng sự tử tế thì tới nhanh hơn là hiểm họa gây ra bởi hiện tượng trái đất nóng dần. Thì cứ nhìn đi rồi sẽ thấy, cũng phải kéo dài trên dưới 200 năm từ những thời điểm khi kỹ nghệ cơ khí phát triển thải ra bao nhiêu là thán khí vào trong bầu khí quyển cho tới những ngày gần đây, trái đất mới bắt đầu ho khan, ắt xì, chuyển mình nóng sốt. Nhưng vào thời thế chiến thứ Hai, chỉ trong vòng trên dưới một năm, sát thủ Ninja Nhật Hoàng Hirohito đã gửi về âm phủ 2 triệu người Việt Nam chết đói xanh xao; Hitler chỉ trong có mấy năm cầm quyền mà đã giết đã đốt ra tro hơn 6 triệu người gốc Do Thái trong những trại tập trung. Nhưng nếu đem con số của 2,000,000 nạn nhân bởi Ninja Hirohito hoặc 6,000,000 bởi phát xít Hitler ra so sánh với con số 61,911,000 nạn nhân bỏ mạng trong trại tù Gulag của Liên Sô từ những ngày Cách Mạng Tháng Mười năm 1917, và 35,236,000 bị giết chết tại Trung Hoa lục địa từ năm 1949, (1) thì sát thủ Hirohito và đồ tể Hitler còn phải nghiêng mình cúi đầu khiêm nhường vô lớp ngồi học với sư tổ Lenin, giảng sư Stalin, và đại sư phụ Mao Trạch Đông.
Thiên hạ đại loạn toàn cầu sau khi sự tử tế đã chết đi đã mồ yên mả đẹp là như thế đó!
IV. Sự tử tế đã chết?
Nhưng có đúng là bởi những ràng buộc chằng chịt về luật pháp trong ngày hôm nay, bởi những đồ tể Lenin, Hitler, Hirohito, Stalin, Mao Trạch Đông, và Christopher, sự tử tế đã chết đi, đã bị chôn sâu dưới lòng đất trong thiên niên kỷ thứ ba hay không?
Tôi dừng lại những hàng chữ, nhìn chung quanh. Văn phòng nơi tôi đang ngồi làm việc vào một buổi chiều thứ Sáu, tất cả vẫn còn đang yên lặng. Người Thư ký văn phòng và Quản thủ thư viện vẫn đang chăm chú ngồi đánh máy công văn và lên sổ tên của những quyển sách. Qua khung cửa, tôi nhận ra trời lại đang mưa. Bây giờ đang là một buổi chiều tháng 7 Úc Châu. Gần một tháng rồi, những lời cầu xin cho mưa trời tuôn đổ của địa phận Brisbane đã được trời cao nghiêng tai lắng nghe. Bởi mưa trời, phượng đỏ của tiểu bang Queenslane đã đỏ tươi giờ này lại càng thêm đỏ thắm, đất tiểu bang New South Wales thôi không còn nứt nẻ khô môi, cỏ khô cháy vàng của tiểu bang Victoria chuyển mình đổi sang màu xanh mướt. Đời sống ở nước Úc vẫn trôi qua trong êm ả và thanh bình. Đời sống của tôi tại Victoria thật là bình an và hạnh phúc!
A. Khăn rằn ri và Lơ xe
Chẳng bù lại cho một khoảng thời gian của cuối thập niên 70, khi đó tôi vào tù ra khám như ăn cơm bữa bởi tội vượt biên. Te tua nhất là lần tôi bị bắt giam tại trại tù Tiền Giang vào năm 1978. Khi tôi được thả, trên người của thiếu niên mới lớn chỉ còn trơ trọi bộ quần áo tù và một tờ giấy Lệnh Tạm Tha. Không có một đồng trong người để mua vé xe về lại Sài Gòn, tôi đành phải chìa tay đi ăn xin vào tấm lòng tử tế của những bà hàng quấn khăn rằn ri ở chợ Mỹ Tho, sát ngay nhà tù Tiền Giang. Thấy tôi thiếu niên, mặt mày xanh xao đói khát chìa tay xin tiền, những bà bán hàng nhanh nhanh góp một, người cho hai, bố thí cho tôi những đồng tiền tử tế để tôi mua vé xe đò quay về lại Sài Gòn. Câu chuyện tử tế chưa chấm dứt ở đó, bởi khi tôi bước lên xe đò, người thanh niên lơ xe, trong khi soát giấy chứng minh nhân dân và thâu tiền xe đò, thấy tôi chìa ra tờ giấy Lệnh Tạm Tha, đã lắc đầu cười nho nhỏ, không lấy tiền vé của tôi, nhưng chỉ cho tôi chiếc ghế gỗ của anh ta ở ngay phía sau bác tài xế.
Dòng thời gian đã trôi qua, bao nhiêu thăng trầm trôi nổi tôi đã nếm đủ trong gần ba chục năm vừa rồi, bao nhiêu mặn nhạt chua cay do trần gian mang lại, tôi đã nếm đủ, nếm khá nhiều, và tôi cũng đã quên đi tất cả; nhưng vẫn không hiểu tại sao tôi vẫn còn nhớ rõ những khuôn mặt quấn khăn rằn ri của những bà hàng chợ Mỹ Tho và nụ cười của anh chàng lơ xe đò Tiền Giang vào một buổi trưa tháng 5 năm 1979 tại thành phố Mỹ Tho.
B. Công nương Diana
Vào dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 46 của Công nương Diana do hoàng tử William và Henry tổ chức vào ngày Chúa Nhật 1 tháng 7 vừa qua, hơn 70 ngàn người đã kéo về vận động trường Wembley của thủ đô London để tưởng nhớ công nương Diana. Công chúa Diana có thể nổi tiếng bởi vì cô là vợ của hoàng tử nước Anh, là mẹ của đương kim thái tử William, nhưng sau khi cô trút hơi thở cuối cùng cách đây đúng mười năm, người ta tưởng rằng có lẽ theo dòng thời gian người người rồi cũng sẽ quên đi một người con gái xinh đẹp nhưng lại mệnh bạc, khiến cho nhân gian mất đi cơ hội kiến bạc đầu. Nhưng không! Mười năm qua, người ta vẫn nhắc nhở tới công nương Diana với những quan tâm chăm sóc đóng góp của riêng cá nhân cô vào những công tác bác ái xã hội. Nếu công nương Diana khi còn sống quyết định đóng khung trong tháp ngà vương giả như bao nhiêu công nương khác trên thế giới của bao nhiêu thế hệ, thiên hạ rồi cũng sẽ quên cô đi như thế gian đã từng quên đi bao nhiêu công nương quý phái của bao nhiêu cung điện hoàng gia trên thế giới. Nhưng công nương Diana vẫn còn sống trong lòng, ít ra là 70 ngàn người, chính bởi vì tấm lòng tử tế của cô đối với người nghèo trên thế giới. Công nương đã lưu lại trong tâm khảm của nhiều người trên thế giới không phải bởi cô đẹp, hay bởi cô là công nương của hoàng gia Anh, nhưng chính bởi cô giàu lòng tử tế với những nạn nhân của bệnh Aids và những người nghèo khổ của lục địa Phi Châu.
C. Câu chuyện Phục Sinh
Thật vậy, những đời người sống với và dạy dỗ nhân loại về sự tử tế đều đã trở thành những vĩ nhân bất tử của thế giới, Đức Phật, Thánh Gandi, Mẹ Theresa.
Người Samaria Nhân Hậu trong Tin Mừng cũng không chết, nhưng tiếp tục sống theo chiều dài của lịch sử nhân loại bởi vì ông ta là một người tử tế. Và đây chính là nguyên nhân duy nhất đã khiến ông ta trở thành nhân vật bất tử trong dòng lịch sử của nhân loại nói chung, và lịch sử của người Kitô giáo nói riêng.
Vào một buổi sáng thứ Hai đầu tuần, những người đàn bà đi tới ngôi mộ đá, và họ khám phá ra tảng đá đã lăn sang một bên, xác Đức Giêsu đã biến mất. Có nhiều lý do để giải thích tại sao xác của Đức Giêsu không rữa thối trong mồ. Có người nói nếu Đức Giêsu có khả năng hồi sinh cô con gái mười hai tuổi của ông Jairus (Mark 5: 41-42), con trai bà góa thành Nain (Luka 7:11-17), và Lazarô đã chôn trong mộ bốn ngày (John 11), thì làm sao Ngài lại không có khả năng để phục sinh chính thân xác của Ngài. Có người nói bởi Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, cho nên Chúa Cha đã phục sinh Người Con duy nhất của Ngài để làm chứng cho những lời giảng dạy của Đức Giêsu là sự thật.
Tất cả những điều trên đây đều đúng. Nhưng cũng vẫn còn nhiều lý do khác để giải thích tại sao Đức Giêsu đã phục sinh, một trong những lý do này có liên quan đến khái niệm bao gồm ba chữ: Sự Tử Tế. Nói một cách khác, Đức Giêsu đã sống dậy bởi vì Ngài là một người tử tế, Ngài là hiện thân của sự tử tế. Và sự tử tế thì không bao giờ có thể chết thối trong mồ, hoặc bị lãng quên theo dòng thời gian. Cả một đời của Đức Giêsu, Ngài chỉ làm những việc tử tế với những tha nhân Ngài đã từng gặp gỡ. Ngài mở mắt người mù, chữa lành người phong hủi, không nhặt đá ném chết người lầm lỡ, tha thứ cho những người đã kết án đóng đinh vào cây thập hình. Bởi những hành động tử tế của Đức Giêsu, Thiên Chúa đã phục sinh Người Con duy nhất của Ngài để làm chứng rằng sự tử tế trong đời sống có tính bất tử.
V. Người Samaria Brendan: Sự tử tế
Bởi sự tử tế có tính bất tử, cho nên giờ này tôi mới hiểu tại sao đã gần ba chục năm trôi qua, tôi vẫn nhớ tới những khuôn mặt tử tế của những bà hàng quấn khăn rằn ri quyên góp những đồng tiền giấy nhàu nát và anh chàng lơ xe đò vào một buổi trưa tháng 5 năm 1979.
Bởi công nương Diana có tấm lòng tử tế, cho nên cô sẽ còn tiếp tục sống trong lòng của nhiều người.
Bởi Đức Phật, Thánh Gandi, Mẹ Theresa là những người tử tế, các Ngài là hiện thân của Sự Tử Tế, các ngài sẽ còn tiếp tục sống mãi và sống muôn đời.
Bởi Đức Giêsu chính là SỰ TỬ TẾ, Ngài đã sống dậy sau ba ngày bị chôn trong ngôi mộ đá.
Sau hết, bởi tấm lòng tử tế, ông luật sư Brendan Keilar đã không chết, nhưng tiếp tục trở thành một nhân vật bất tử. Cái chết của ông không phải là một cái chết vớ vẩn, nhưng là một tấm gương soi cho thị dân Melbourne và người dân Úc, dù là Úc gốc Tây, hay Úc gốc Việt. Giờ này thể xác của ông đã yên nghĩ, nhưng hồn phách tinh anh của ông vẫn sống với người dân của thị trấn Melbourne, bởi nói theo hơi nhạc của Trần Thiện Thanh,
Anh không chết đâu anh,
Người anh hùng “Nhân Hậu” tên “Brendan”.
Anh vẫn sống thêng thanh
trong lòng muôn người
biết yêu “sự tử tế”.
Đúng như vậy, cuộc đời trăm năm ngắn ngủi rồi cũng sẽ trôi qua. Ngàn vạn thành quách rồi cũng đã sụp đổ. Vĩ đại cỡ như Alexander hay Quang Trung đại đế rồi cũng đã nằm xuống. Xinh đẹp sắc sảo cỡ như Nữ Hoàng Cleopatra hay là Nam Phương Hoàng Hậu rồi cũng đã ngủ yên dưới ba tấc đất. Cuộc đời vẫn tiếp tục trôi qua. Thiên hạ tiếp tục rủ nhau đi bán muối tất tật. Ngày mai nếu hiểm họa global warning xầm xập kéo tới bôi xóa hết tất cả đường xá phố phường của Úc Châu và của thế giới, lúc đó sẽ chỉ còn sót lại trong tâm thức của vũ trụ hai chữ Tử Tế mà thôi. Còn lại tất cả đều chỉ là một con số không to tướng.
wwww.nguyentrungtay.com
Chú thích
(1) Lữ Giang, Con Số 100 Triệu Nạn Nhân (http://www.vietcatholic.net/News/Read.aspx?id=44936).
Chỉ là bụi tro
Ngô xuân Tịnh
17:27 01/03/2010
Hai tay cầu khẩn giơ lên
Lòng con ca hát như miền đất khô (TV)
Giữa thung lũng khổ vô bờ
Hồn con quằn quại vật vờ thương đau
Giữa vùng sa mạc khô màu
Hồn con nức nở gục đầu ăn năn
Mê lầm thế tục nhục nhằn
Thân con năm tháng trầm luân dòng đời
Mùa chay thánh đã đến rồi
Đi tìm căn tính phục hồi niềm tin
Xác từ bụi đất vật hèn
Trăm năm rồi cũng về miền hư vô
Tay không về với nấm mồ
Thành tâm thống hối sống cho Nước Trời
Tắm nguồn thánh sủng dòng trôi
Phúc âm đuốc sáng suốt đời dõi theo
Rộng tay giúp đỡ người nghèo
Lữ hành kết thúc mang nhiều dầu theo
Cùng vui tiệc cưới thiên triều
Chút tro xức trán mang nhiều suy tư
Xác thân chỉ hạt bụi mù
Cõi lòng thống mịt mờ trào dâng
Sống theo lời Chúa canh tân
Lòng con ca hát như miền đất khô (TV)
Giữa thung lũng khổ vô bờ
Hồn con quằn quại vật vờ thương đau
Giữa vùng sa mạc khô màu
Hồn con nức nở gục đầu ăn năn
Mê lầm thế tục nhục nhằn
Thân con năm tháng trầm luân dòng đời
Mùa chay thánh đã đến rồi
Đi tìm căn tính phục hồi niềm tin
Xác từ bụi đất vật hèn
Trăm năm rồi cũng về miền hư vô
Tay không về với nấm mồ
Thành tâm thống hối sống cho Nước Trời
Tắm nguồn thánh sủng dòng trôi
Phúc âm đuốc sáng suốt đời dõi theo
Rộng tay giúp đỡ người nghèo
Lữ hành kết thúc mang nhiều dầu theo
Cùng vui tiệc cưới thiên triều
Chút tro xức trán mang nhiều suy tư
Xác thân chỉ hạt bụi mù
Cõi lòng thống mịt mờ trào dâng
Sống theo lời Chúa canh tân
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Tĩnh
Lm. Tâm Duy
23:08 01/03/2010
TĨNH
Ảnh của Lm. Tâm Duy.
Lặng lẽ nơi này lặng lẽ tôi
Tiếng đưa theo gió giọng ru hời
Xôn xao tự cõi khơi tiềm thức
Chợt sáng trong lòng nhớ khôn nguôi...
(Trích thơ của Trần Thế Phong)
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền